Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

Đánh giá tác động của đô thị hóa đến tình hình sử dụng đất nông nghiệp tại địa bàn xã cao ngạn, thành phố thái nguyên giai đoạn 2005 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.52 KB, 79 trang )

1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất sớm nhất trong lịch sử phát
triển của nhân loại, từ bao đời nay nông nghiệp là ngành sản xuất quan trọng
trong nền kinh tế nhằm đảm bảo nhu cầu sống của con người. Hiện nay các
nước đang phát triển dựa vào nông nghiệp trong nước để cung cấp lương thực
thực phẩm cho tiêu dùng, nó tạo nên sự ổn định, đảm bảo an toàn cho phát
triển. Nông nghiệp đóng vai trò cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, cung
cấp ngoại tệ cho nền kinh tế, cung cấp vốn cho các ngành kinh tế khác, làm
phát triển thị trường nội địa… Đối với Việt Nam thì nông nghiệp là ngành
kinh tế quan trọng, nước ta lấy nông nghiệp là ngành sản xuất chủ yếu, hàng
năm tỉ lệ ròng của ngành nông nghiệp vào tổng sản phẩm xã hội là khá cao và
có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy đất nông nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng
và là vấn đề cốt lõi trong mỗi quan hệ kinh tế.
Đất đai là tài nguyên quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng.
Đất đai được coi là tư liệu sản xuất bởi nó không chỉ là đối tượng lao động mà
còn là tư liệu lao động. Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng trong sản xuất
nông nghiệp. Trong quá trình phát triển xã hội, gắn liền mở rộng hoạt động
sản xuất công nghiệp, dịch vụ… đẩy mạnh quá trình đô thị hóa, đất đai giờ
đây không chỉ sử dụng vào trồng trọt, chăn nuôi mà còn được sử dụng ngày
càng nhiều để phát triển đa dạng các ngành nghề. Quá trình phát triển kinh tế
- xã hội sẽ kéo theo việc chuyển dịch đất nông nghiệp sang các ngành khác,
diện tích đất sản xuất nông nghiệp trong tương lai sẽ có xu hướng thu hẹp. Đô
thị hoá phản ánh tiến bộ xã hội, nhưng bên cạnh những mặt tích cực mà nó
mang lại cũng tồn tại những bất cập nếu như trong công tác quy hoạch, kế
hoạch quản lý sử dụng thiếu hợp lý sẽ gây ảnh hưởng đến đời sống xã hội, tài
nguyên đất đai, cảnh quan môi trường làm suy giảm chất lượng của quá trình
đô thị hoá.
Đất nước ta đang phấn đấu để trở thành một đất nước phát triển, quá


trình đô thị hóa sẽ là vấn đề tất yếu phải trải qua do đó cần có những phương
hướng biện pháp sao cho quá trình đô thị hóa đạt được thành tựu cao nhất góp
1
2
phần đẩy mạnh sự phát triển của quốc gia đồng thời giảm thiểu được những
tác động không tốt tới mức thấp nhất.
Xã Cao Ngạn là một xã trung du miền núi nằm ở ngoại thành phía bắc
Thành Phố Thái Nguyên. Hiện nay tại địa bàn xã đang có những chuyển biến
rất lớn trong quá trình đô thị hóa của đất nước, những biến đổi rõ nét qua các
năm, đặc biệt là trong giai đoạn năm 2005 - 2011. Diện tích đất nông nghiệp
được chuyển đổi sang các mục đích khác càng ngày càng tăng, tuy những
biến động mới bắt đầu diễn ra nhưng đã phát sinh một số vấn đề gây ảnh
hưởng không tốt đến đời sống của người dân và phát triển kinh tế trên
địa bàn. Quản lý chặt chẽ, hợp lý có hiệu quả là vấn đề cấp thiết để đem
lại sự phát triển, mang lại cuộc sống tốt hơn cho người dân, đồng thời sử
dụng được hiệu quả diện tích đất nông nghiệp phục vụ cho quá trình đô
thị hóa của quốc gia.
Từ yêu cầu thực tiễn, được sự đồng ý của ban giám hiệu nhà trường,
ban chủ nhiệm khoa Tài Nguyên và Môi Trường - Trường Đại Học Nông Lâm
Thái nguyên, với sự giúp đỡ hướng dẫn trực tiếp, tận tình của cô giáo, TS.
Phan Thị Thu Hằng - Giảng viên khoa Tài Nguyên và Môi Trường - Trường
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Tôi đã nghiên cứu đề tài :
“Đánh giá tác động của đô thị hóa đến tình hình sử dụng đất
nông nghiệp tại địa bàn xã Cao Ngạn, Thành phố Thái Nguyên giai
đoạn 2005-2011”.
1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đánh giá được những tác động, mức độ ảnh hưởng của quá trình đô thị
hóa đến sử dụng đất nông nghiệp và đời sống của hộ nông dân mất đất nông
nghiệp qua đó đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo đời sống của hộ nông dân
mất đất nông nghiệp, tăng cường vai trò quản lý của nhà nước trong quá trình

đô thị hóa tại xã Cao Ngạn.
1.3. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
- Ý nghĩa trong việc học tập và nghiên cứu khoa học: Là cơ hội cho bản
thân củng cố kiến thức đã học trên ghế nhà trường, đồng thời là cơ hội cho
bản thân trực tiếp đi vào thực tế và tiếp cận với vấn đề đô thị hóa.
2
3
- Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất: Tìm ra những mặt tích cực và hạn
chế của quá trình đô thị hóa tác động đến vấn đề sử dụng đất nông nghiệp, từ
đó đề xuất ra những giải pháp thích hợp, phù hợp với điều kiện thực tế của địa
phương góp phần đẩy nhanh quá trình đô thị hóa trong thời gian tới.
1.4. Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá đươc điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của xã Cao Ngạn.
- Đánh giá được ảnh hưởng của đô thị hóa đến biến động đất nông
nghiệp tại xã Cao Ngạn.
- Đánh giá được ảnh hưởng của đô thị hóa đến đời sống của hộ nông
dân bị mất đất nông nghiệp.
- Đề xuất giải pháp nhằm đảm bảo đời sống của hộ nông dân mất đất
nông nghiệp, tăng cường vai trò quản lý của nhà nước trong quá trình đô thị
hóa tại xã Cao Ngạn.
- Số liệu thu thập phải chính xác.
- Đánh giá một cách khách quan.
- Các biện pháp đưa ra phải có tính khả thi, phù hợp với thực tế của
địa phương.
3
4
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Căn cứ pháp lý
2.1.1. Các văn bản trung ương

- Luật đất đai 2003 quy định về việc quản lý nhà nước về đất đai phải
dựa trên 13 nội dung.
- Để luật đất đai được nhanh chóng đi vào cuộc sống Đảng và Nhà
nước ta đã ban hành nhiều văn bản dưới luật giúp cụ thể hóa và hướng dẫn thi
hành Luật đất đai 2003.
- Nghị định 181/NĐ - CP ngày 20/10/2004 về việc hướng dẫn thi hành
Luật đất đai.
- Nghị định 181/NĐ - CP ngày 20/10/2004 về việc xử phạt hành chính
trong lĩnh vực đất đai.
- Nghị định 181/NĐ - CP ngày 16/11/2004 quy định về phương pháp
xác định giá các loại đất.
- Thông tư số 28/2004/TT - BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường
về việc hướng dẫn thực hiện thống kê, kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ
hiện trạng.
- Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường
về việc hướng dẫn thực hiện lập, chỉnh lý và quản lý hồ sơ địa chính.
- Thông tư số 30/2004/TT - BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường
về việc hướng dẫn điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Và một số thông tư và nghị định khác có liên quan giúp cụ thể hóa và
hướng dẫn thi hành Luật đất đai 2003.
2.1.2. Các văn bản địa phương
- Quyết định số 3466/QĐ - UBND ngày 28/12/2009 của UBND tỉnh
Thái Nguyên về việc phê duyệt Kế hoạch lập quy hoạch sử dụng đất đến năm
2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011- 2015), các cấp tỉnh Thái Nguyên.
- Công văn số 556/UBND-TNMT ngày 20/4/2010 của UBND tỉnh Thái
Nguyên về việc triển khai thực hiện chỉ thị số 01/CT - BTNMT ngày
17/3/2010 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về tăng cường công tác lập quy
hoạch kế hoạch sử dụng đất.
4
5

- Kế hoạch số 67/KH - UBND ngày 18 tháng 5 năm 2010 của UBND
thành phố Thái Nguyên về việc triển khai thực hiện công tác lập QHSD đất
đến năm 2020 và KHSD đất 5 năm (2011 - 2015) thành phố Thái Nguyên và
các xã, xã thuộc thành phố Thái Nguyên - tỉnh Thái Nguyên.
2.2. Cơ sở lý luận khoa học
2.2.1. Cơ sở lý luận về đô thị
2.2.1.1. Khái niệm về đô thị
Đô thị là một không gian cư trú của cộng đồng người sống tập trung và
hoạt động trong những khu vực kinh tế phi nông nghiệp.
Đô thị là nơi tập trung dân cư, chủ yếu lao động phi nông nghiệp, sống
và làm việc theo kiểu thành thị.
Đô thị là điểm tập trung dân cư với mật độ, chủ yếu là lao động nông
nghiệp, cơ sơ sở hạ tầng thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay trung tâm
chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước,
của một vùng trong tỉnh hoặc trong huyện (Vũ Thị Bình và cs, 2008)[1].
Như vậy, đô thị là điểm dân cư tập trung với mật độ cao, chủ yếu là lao
động phi nông nghiệp, có hạ tầng cơ sở tích hợp, là trung tâm tổng hợp
hay chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả
nước, của cả một miền đô thị, của một đô thị, một huyện hoặc một đô thị
trong huyện.
2.2.1.2. Phân loại và phân cấp quản lý đô thị
Phân loại đô thị thực hiện theo nghị định số 42/2009/NĐ-CP ngày 07
tháng 05 năm 2009:
- Đô thị được phân thành 6 loại gồm: đô thị loại đặc biệt, đô thị loại I,
đô thị loại II, đô thị loại III, đô thị loại IV và đô thị loại V.
- Tiêu chuẩn cơ bản để một đơn vị hành chính được phân loại là đô thị:
+ Có chức năng đô thị: Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên
ngành, cấp quốc gia, cấp vùng liên tỉnh, cấp tỉnh, cấp huyện hoặc là trung tâm
của vùng trong tỉnh, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả
nước, hoặc một vùng lãnh thổ nhất định.

+ Quy mô dân số đô thị đạt 4000 người trở lên.
5
6
+ Mật độ dân số phù hợp với quy mô, tính chất và đặc điểm của từng
loại đô thị và được tính trong phạm vi nội thành, nội thị, riêng đối với thị trấn
thì được tính theo các khu phố xây dựng tập chung.
+ Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp (tính trong phạm vi ranh giới nội
thành, nội thị, khu vực tập trung) phải đạt tối thiểu 65% so với tổng số
lao động.
+ Đạt được các yêu cầu về hệ thống công trình hạ tầng đô thị (gồm hạ
tầng xã hội và kĩ thuật).
+ Đạt được các yêu cầu về kiến trúc đô thị.[9]
Đối với các đô thị ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo thì
các tiêu chí đánh giá được nới lỏng hơn: quy mô dân số và mật độ dân số tối
thiểu phải đạt 50% tiêu chuẩn quy định, các tiêu chuẩn khác phải bảo đảm tối
thiểu 70% mức tiêu chuẩn quy định so với các loại đô thị tương đương. Đối
với một số đô thị có tính chất đặc thù, tiêu chuẩn về quy mô dân số và mật độ
dân số tối thiểu phải đạt 60% tiêu chuẩn quy định, các tiêu chuẩn khác phải
đạt quy định so với các loại đô thị tương đương và bảo đảm phù hợp với tính
chất đặc thù của mỗi đô thị.
- Cấp quản lý đô thị gồm:
+ Thành phố trực thuộc trung ương
+ Thành phố thuộc tỉnh, thị xã thuộc tỉnh hoặc thị xã thuộc thành phố
trực thuộc trung ương.
+ Thị trấn thuộc huyện.
2.2.1.3. Chức năng của đô thị
Tuỳ theo mỗi giai đoạn phát triển mà đô thị có thể có các chức năng
khác nhau, nhìn chung đô thị có các chức năng chủ yếu sau đây:
- Chức năng kinh tế: Đây là chức năng chủ yếu của đô thị. Sự phát
triển kinh tế thị trường đã đưa đến xu hướng tập trung sản xuất có lợi hơn là

phân tán. Chính yêu cầu kinh tế ấy đã tập chung các loại hình xí nghiệp thành
khu công nghiệp và cơ sở hạ tầng tương ứng, tạo ra thị trường ngày càng mở
rộng và đa dạng hoá. Tập chung sản xuất kéo theo tập chung dân cư, trước hết
là thợ thuyền và gia đình của họ tạo ra bộ phận chủ yếu của dân cư đô thị.
6
7
- Chức năng xã hội: Chức năng này ngày càng có phạm vi lớn dần cùng
với tăng quy mô dân cư đô thị. Những nhu cầu về nhà ở, y tế, sinh hoạt… là
những vấn đề gắn liền với yêu cầu kinh tế, với cơ chế thị trường. chức năng
xã hội ngày càng nặng nề không chỉ vì tăng dân số đô thị, mà còn vì chính
những nhu cầu phục vụ cho quá trình sinh sống và phát triển của con người
nên phải thay đổi.
- Chức năng văn hoá: Ở tất cả các đô thị đều có nhu cầu giải trí và giáo
dục cao. Do đó ở đô thị cần có hệ thống trường học, du lịch, viện bảo tàng,
các trung tâm nghiên cứu khoa học ngày càng có vai trò lớn hơn.
- Chức năng quản lý: Tác động của quản lý nhằm hướng nguồn lực vào
mục đích kinh tế xã hội, sinh thái và kiến trúc, bảo vệ bản sắc văn hoá dân
tộc, vừa nâng cao, khả năng đáp ứng nhu cầu công cộng, vừa quan tâm đến
những nhu cầu chính đáng của cá nhân. Do đó, nhà nước phải có pháp luật và
quy chế quản lý về đô thị.
2.2.1.4. Vai trò của đô thị trong quá trình phát trển kinh tế - xã hội
Đô thị đóng vai trò là trung tâm kinh tế, chính trị, thương mại, văn hoá,
xã hội.
Đô thị là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, có vai trò đặc biệt
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, là điều kiện cho giao thương và
sản xuất phát triển tạo điều kiện thúc đẩy công nghiệp hoá nhanh chóng. Đô
thị tối ưu hoá việc sử dụng năng lượng, con người và máy móc, cho phép vận
chuyển nhanh và rẻ, tạo ra thị trường linh hoạt có năng suất cao. Các đô thị
tạo điều kiện thuận lợi phân phối sản phẩm và phân bố nguồn nhân lực giữa
các không gian đô thị, ven đô, ngoại thành và nông thôn. Đô thị có vai trò to

lớn trong việc tạo ra thu nhập quốc dân của cả nước.
Đô thị luôn giữ vai trò đầu tàu cho sự phát triển, dẫn dắt các cộng đồng
nông thôn đi trên con đường tiến bộ văn minh.
2.2.2. Lý luận về đô thị hóa
2.2.2.1. Khái niệm về đô thị hóa
Các nhà khoa học thuộc nhiều bộ môn trên nhiều quốc gia đã nghiên
cứu các quá trình đô thị hoá và đưa ra không ít định giá về quy mô, tầm quan
trọng và dự báo tương lai cho quá trình này.
7
8
Đô thị hoá (Urbanization) là sự mở rộng của đô thị, tính theo tỉ lệ phần
trăm giữa số dân đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của
một vùng hay khu vực. Nó cũng có thể tính theo tỉ lệ gia tăng của hai yếu tố
đó theo thời gian. Nếu tính theo cách đầu thì nó còn được gọi là mức độ đô thị
hoá, còn theo cách thứ hai nó có tên là tốc độ đô thị hoá. Đô thị hóa là quá
trình phát triển rộng rãi lối sống thị thành thể hiện qua các mặt dân số, mật độ
dân số, chất lượng cuộc sống (Vũ Thị Bình và cs, 2008)[1].
Đô thị hoá là quá trình tập chung dân số vào các đô thị và sự hình thành
nhanh chóng các điểm dân cư đô thị do yêu cầu công nghiệp hoá. Trong quá
trình này có sự biến đổi về cơ cấu sản xuất, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu tổ
chức sinh hoạt xã hội, cơ cấu không gian và hình thái xây dựng từ dạng nông
thôn sang thành thị.
Đô thị hoá là thay đổi trật tự sắp xếp một vùng nông thôn theo các điều
kiện của thành phố. Đây là một trong những biện pháp biến nông thôn
thành những nơi làm việc hấp dẫn, có điều kiện áp dụng những tiến bộ
khoa học kĩ thuật, đáp ứng những nhu cầu về sản phẩm cho xã hội, góp
phần làm tăng GDP nhưng điều này phụ thuộc vào điều kiện kinh tế của
mỗi nước, mỗi vùng.
Như vậy, đô thị hóa là một bộ phận quan trọng của các quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Nó được thể hiện thông qua quá trình chuyển dịch các

hoạt động của dân cư từ lĩnh vực sản xuất nông nghiệp sang lĩnh vực sản xuất
công nghiệp hoặc dịch vụ. Từ đó diễn ra sự chuyển dịch các điểm dân cư
nông thôn sang các điểm dân cư đô thị với quy mô khác nhau. Đô thị hóa là
sự phản ánh những chuyển biến sâu sắc trong cơ cấu kinh tế và trong đời sống
xã hội. Quá trình đô thị hóa gắn liền với sự hình thành và phát triển công
nghiệp, là người bạn đồng hành với quá trình công nghiệp hóa, giữa công
nghiệp hóa và đô thị hóa có mối quan hệ nhân quả khăng khít với nhau.
Ngoài ra đô thị hoá có thể được hiểu theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp:
Theo nghĩa rộng: Đô thị hóa là quá trình lịch sử nâng cao vai trò của đô
thị trong sự vận động phát triển của xã hội. Quá trình này bao gồm những
thay đổi trong phân bố lực lượng sản xuất, trước hết là trong sự phân bố dân
cư, trong cơ cấu lao động và nghề nghiệp, trong cơ dân số, trong lối sống, văn
8
9
hóa, trong tổ chức không gian môi trường sống của cộng đồng. Đô thị hóa là
quá trình kinh tế - xã hội, nhân khẩu và địa lý đa dạng dựa trên các hình thức
phân công lao động xã hội và phân công lao động theo lãnh thổ đã hình thành
trong lịch sử.
Theo nghĩa hẹp: Đô thị hóa là sự phát triển hệ thống thành phố và nâng
cao vai trò của nó trong đời sống kinh tế - xã hội cũng như tăng tỷ trọng của
dân số đô thị. Đó cũng là sự tập trung dân cư trong các thành phố lớn và cực
lớn cũng như sự phổ biến rộng rãi lối sống thành thị trong toàn bộ mạnh lưới
các điểm dân cư.
Như vậy, đô thị hóa là một bộ phận quan trọng của các quá trình phát
triển kinh tế - xã hội . Nó được thể hiện thông qua quá trình chuyển dịch các
hoạt động của dân cư từ lĩnh vực sản xuất nông nghiệp sang lĩnh vực sản xuất
công nghiệp hoặc dịch vụ. Từ đó diễn ra sự chuyển dịch các điểm dân cư
nông thôn sang các điểm dân cư đô thị với quy mô khác nhau. Đô thị hóa là
sự phản ánh những chuyển biến sâu sắc trong cơ cấu kinh tế và trong đời sống
xã hội. Quá trình đô thị hóa gắn liền với sự hình thành và phát triển công

nghiệp, là người bạn đồng hành với quá trình công nghiệp hóa giữa công
nghiệp hóa và đô thị hóa có mối quan hệ nhân quả khăng khít với nhau.
● Sự phát triển của đô thị hoá
Có thể nói mỗi giai đoạn trong quá trình ĐTH của một quốc gia phản
ánh trình độ phát triển khác nhau. Do đó theo Ray.M.Northam, trong cuốn
“Địa lý đô thị” đã chia quá trình ĐTH làm 3 giai đoạn như sau:
Giai đoạn đầu: Ở giai đoạn này dân cư chủ yếu là nông dân tham gia
vào nghề nông và còn phân tán. Tỷ lệ dân cư sống trong đô thị chiếm dưới
25% tổng dân số.
Giai đoạn hai: Là giai đoạn ĐTH tăng tốc, ở giai đoạn này tỷ lệ dân cư
sống trong các thành phố lớn ngày càng tăng và tăng từ 25% lên 70% tổng
dân số.
Giai đoạn cuối: Là giai đoạn dân cư đô thị chiếm trên 70% tổng dân số
và việc tăng tỉ lệ lên trên 70% rất chậm chạp. Đây là giai đoạn phát triển cao
của nền kinh tế và nhìn chung khá ổn định.
9
10
Quá trình đô thị hoá thực chất cũng là một quá trình phát triển kinh tế
xã hội, hơn nữa nó còn là quá trình phát triển về văn hoá và không gian kiến
trúc. Nó gắn liền với tiến bộ khoa học kỹ thuật và sự phát triển của các ngành
nghề mới. Quá trình đô thị hoá có thể theo 2 xu hướng:
Đô thị hoá tập chung: Là toàn bộ công nghiệp và dịch vụ công cộng tập
trung vào các thành phố lớn, hình thành và phát triển các đô thị lớn, khác biệt
nhiều với nông thôn.
Đô thị hoá phân tán: Là hình thái mạng lưới điểm dân cư có tầng bậc
phát triển cân đối công nghiệp và dịch vụ công cộng, đảm bảo cân bằng sinh
thái, tạo điều kiện làm việc, sinh hoạt và nghỉ ngơi tốt cho dân cư đô thị và
nông thôn. Hình thành mạng lưới đô thị nhỏ trên các vùng, có vai trò thúc
đẩy phát triển nông thôn giảm khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và
nông thôn.

2.2.2.2. Tính tất yếu của đô thị hóa
Bất cứ một quốc gia nào, dù là phát triển hay đang phát triển, khi
chuyển biến từ nền kinh tế nông nghiệp qua nền kinh tế công nghiệp bằng con
đường công nghiệp hoá thì đều gắn liền với đô thị hoá.
Trong lịch sử cận đại, đô thị hoá trước hết là hệ quả trực tiếp của quá
trình công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa và sau này là kết quả của quá trình cơ
cấu lại các nền kinh tế theo hướng hiện đại hoá (tăng tỷ trọng các ngành công
nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong cơ cấu và khối
lượng GDP). Nhìn chung, từ góc độ kinh tế, đô thị hoá là một xu hướng tất
yếu của sự phát triển.
Do vậy, đô thị hoá là một quy luật khách quan, phù hợp với đặc điểm,
tình hình chung của mỗi quốc gia và là một quá trình mang tính lịch sử, toàn
cầu và không thể đảo ngược của sự phát triển xã hội. ĐTH là hệ quả của sức
mạnh công nghiệp và trở thành mục tiêu của nền văn minh thế giới.
2.2.2.3. Quan điểm của đô thị hóa
Theo tiến sĩ Guoming Wen, đô thị hoá là một quá trình chuyển đổi
mang tính lịch sử tư liệu sản xuất và lối sống của con người từ nông thôn vào
thành phố. Thường quá trình này được nhìn nhận như là sự di cư của nông
dân nông thôn đến các đô thị và quá trình tiếp tục của bản thân các đô thị.
10
11
Ông cũng cho rằng, trong thực tế đô thị hoá là một quá trình phức tạp hơn
nhiều. Bởi tiến trình này đã bộc lộ không ít dấu hiệu của tình trạng quá nóng
và những vấn đề tiềm ẩn, như áp lực gia tăng đối với việc làm và an ninh xã
hội, tình trạng bong bóng xà phong trong lĩnh vực bất động sản buộc Chính
phủ Trung Quốc phải hãm phanh xu hướng này thông qua việc xem xét một
cách cẩn trọng và từng bước kiểm soát đối với quá trình đô thị hoá. (Gayl D.
Ness và cs, 2005)[13].
TS Toshio Kuroda (Nhật Bản) cho rằng đô thị hoá trên tổng số dân cư
trú ở thành phố hoặc dựa trên quan điểm về các vùng có mật độ dân cư đông.

Nghiên cứu thực tế nước Nhật, ông cho rằng đô thị hoá không đơn thuần là
một hiện tượng xảy ra sau chiến tranh ở Nhật Bản mà là một quá trình trình
diễn ra từ đầu thế kỷ XX. Sau năm 1945 quá trình đô thị hoá diễn ra ở Nhật
Bản khá rõ do yêu cầu của việc tái thiết nhanh chóng và tăng trưởng kinh tế
đã đẩy nhanh quá trình đô thị hoá. Sự di chuyển của một lượng lớn dân số trẻ
từ nông thôn ra thành thị, chủ yếu những người đi tản cư về. Quá trình này
diễn ra đặc biệt nhanh chóng từ cuối thập kỷ 50, đầu thập kỷ 60 do người
nhập cư mong muốn có cuộc sống tốt đẹp hơn (Gayl D. Ness và cs, 2005)
[13].
TS Jung Duk (Hàn Quốc) cho rằng đô thị hoá là sự gia tăng dân số chủ
yếu từ nông thôn ra thành thị mà trước đây, thế hệ trẻ rời bỏ nông thôn với
mục đích tìm kiếm việc làm, cơ hội giáo dục và những thú vui, tiện nghi nơi
đô thị, trong giai đoạn ban đầu công nghiệp hoá (1967-1975) (Gayl D. Ness
và cs, 2005)[13].
2.2.2.4. Các tiêu chí đánh giá mức độ và quá trình đô thị hóa
Quá trình ĐTH sẽ được đánh giá thông qua một số tiêu chí như sau:
- Tốc độ tăng dân số cơ học: ĐTH gắn liền với tăng dân số khu vực
thành thị, tuỳ theo số lượng dân số kết hợp với cơ sở hạ tầng của khu vực
thành thị đó mà được nhà nước quy định cấp độ đô thị theo 5 loại từ loại 1
đến loại 5. Như vậy có thể thấy tốc độ tăng dân số cơ học là một tiêu chí quan
trọng để đánh giá mức độ ĐTH.
- Tỷ lệ dân số nông nghiệp/ tổng dân số: Quá trình đô thị hoá gắn liền
với CNH do vậy số nhân khẩu, lao động sống bằng các nguồn thu chính từ
11
12
nông nghiệp và phi nông nghiệp sẽ giúp ta đánh giá được mức độ ĐTH của
một địa phương, thông thường với các khu đô thị lớn tỷ lệ dân số nông
nghiệp/ tổng số dân là rất nhỏ.
- Cơ cấu thu nhập: một chỉ tiêu quan trọng khác để đánh giá mức độ
ĐTH đó là tỷ trọng thu nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp trong tổng thu

nhập của một địa phương, thường quá trình ĐTH tăng sẽ kéo theo sự gia tăng
của tỷ trọng thu nhập các ngành nghề phi nông nghiệp trong tổng thu nhập.
2.2.3. Quản lý nhà nước về đất đai trong quá trình đô thị hóa
Quá trình đô thị hoá tác động tới mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, tác động
tới hoạt động sản xuất, công ăn việc làm, giá cả, thu nhập, văn hoá đô thị
hoá tác động nhiều đất đai, đất dùng để xây dựng công trình đường giao
thông, xây dựng trụ sở cơ quan nhà nước, xây dựng trường học, trung tâm y
tế, đô thị hoá đặc biệt làm đất nông nghiệp bị suy giảm và chuyển qua những
mục đích khác. Nhà nước vừa thực hiện chức năng là đại diện chủ sở hữu
toàn dân về đất đai, vừa thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, đồng thời với
bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước còn có nhiệm vụ rất quan
trọng là phục vụ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân. Do đó quản lý
nhà nước về đất đai của quá trình ĐTH không chỉ nhằm mục tiêu phát triển đô
thị mà còn đảm bảo đáp ứng nhu cầu đời sống của người dân. Mặt khác trong
quá trình ĐTH, quan hệ đất đai có nhiều biến động mạnh về cả quyền chi
phối, quyền quản lý và quyền sử dụng, do chức năng đặc biệt quan trọng của
đô thị là chức năng về kinh tế tác động. Vì vậy, trong quá trình ĐTH vấn đề
tăng cường vai trò quản lý Nhà nước về đất đai là xuất phát từ nhân tố khách
quan do thực tiễn phát triển của đất nước đặt ra.
Dân số đô thị tăng lên đột biến, làn sóng nhập cư ồ ạt khiến cho các
thành phố trở nên quá tải, gây ô nhiễm môi trường, tắc nghẽn giao thông, mất
trật tự xã hội, gây khó khăn cho chính quyền, đối với Việt Nam và một số
nước trên thế giới thì dân số là cơ sở để phân loại đô thị trong công tác quản
lý và xác định quy mô đất đai của đô thị. Ở các nước phát triển, tốc độ tăng
trưởng dân số đô thị do nhập cư từ nông thôn không đáng kể, còn ở các nước
đang phát triển thì tỷ lệ này là chủ yếu, mà lý do chính là sức hấp dẫn từ sự
chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn, nguồn lao động này là sản
12
13
phẩm nền sản xuất giản đơn, nên công việc họ khi nhập cư chủ yếu là làm

công nhân, các công việc nặng nhọc, lao động thủ công giản đơn, chỉ một số ít
có trình độ tìm kiếm cơ hội đầu tư cho tương lai.
Khi quy mô của đô thị tăng lên, các nguồn lực tài chính cần thiết để xây
dựng mới và duy trì hệ thống cơ sở hạ tầng và dịch vụ đô thị là vô cùng lớn.
Yêu cầu phải có các biện pháp chiến lược cũng như kế hoạch cụ thể để huy
động có hiệu quả các nguồn lực đất đai đô thị, với chức năng cung cấp vốn
đầu tư cho sự phát triển của đô thị. vấn đề này cần có sự chỉ đạo hướng dẫn
của cơ quan nhà nước chuyên môn mới có thể thực hiện và mang lại hiệu quả.
Có rất nhiều vấn đề nẩy sinh trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế -
xã hội, để giải quyết vấn đề đó cần sự quản lý, chỉ đạo mang tính đồng bộ và
không có tổ chức hay cá nhân nào có thể thay thế được vai trò của nhà nước
trong quá trình đô thị hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.3. Thực tiễn đô thị hóa trên thế giới và ở Việt Nam
2.3.1. Tình hình đô thị hóa trên thế giới
Đô thị hóa phát triển trên cơ sở phát triển của công nghiệp hóa, khoa
học kỹ thuật, dịch vụ và của sự tiến bộ xã hội, trong đó công nghiệp hóa và
khoa học - kỹ thuật là những cơ sở tiên quyết. Chính vì thế, sự phát triển của
đô thị hóa diễn ra khác nhau về thời điểm, tốc độ và quy mô giữa các nước
trên thế giới.
Đô thị được hình thành và phát triển từ rất lâu, trước Công nguyên như
ở vùng Lưỡng Hà, Ai Cập, Trung Cận Đông, Trung Quốc, Ấn Độ từ thế kỷ
thứ hai, thứ ba trước công nguyên,… Song đó mới chỉ là những đô thị đơn lẻ
dựa trên cơ sở của phát triển văn hóa tôn giáo quản lý xã hội và giao lưu hàng
hóa, dịch vụ. Chỉ sau khi có những phát minh về khoa học kỹ thuật cơ bản
(hơi nước, điện,…) trong thế kỷ 18, công nghiệp mới được phát triển và do đó
đô thị mới được hình thành và phát triển một cách đại trà ở nhiều nước trên
thế giới (Châu Âu, Bắc Mỹ,…)
Theo các chuyên gia nghiên cứu về đô thị hóa thì thời điểm bắt đầu của
quá trình đô thị hóa thế giới bắt đầu vào thế kỷ 19 và kéo dài đến hết thế kỷ
21. Đến thời điểm này đô thị hóa không còn có sự phát triển về lượng (ổn

định về tỷ lệ dân đô thị và nông thôn) mà chỉ còn phát triển về chất, nên quy
ước đó là thời điểm kết thúc của quá trình đô thị hóa.
13
14
Bảng 2.1. Dự báo sự phát triển của đô thị thế giới
so với tổng dân số (theo A.Zimm)
Năm 1800 1850 1900 1950 1980 2000 2100
% 3,2 6,9 14 29,4 46,2 51 90
Cùng với sự tăng trưởng dân số đô thị nói chung, quy mô dân số, số
lượng của các đô thị cũng tăng lên, đô thị khổng lồ với hàng chục triệu
dân xuất hiện ngày càng nhiều trên thế giới (chủ yếu là ở các nước đang
phát triển).
Do thời điểm bắt đầu và tốc độ phát triển của công nghiệp hóa khác
nhau, nên sự phát triển của đô thị hóa hiện nay cũng khác nhau giữa các quốc
gia trên thế giới. Trong khi ở các nước phát triển, đô thị hóa tập trung vào
phát triển về chất thì ở các nước đang phát triển lại chủ yếu phát triển về
lượng. Theo các tài liệu thống kê, tỷ lệ đô thị hóa của một số nước phát triển
và đang phát triển hiện nay như sau (số liệu năm 1995):
Các nước phát triển: Bỉ: 95%, Ôxtrâylia: 86% , Đức: 94%, Đan Mạch:
84%, Anh: 91%, Niu Dilân: 84%, Tây Ban Nha: 91%, Thụy Điển: 84%, Ai
len: 90%, Nhật Bản: 78%
Các nước đang phát triển trong khu vực (năm 2000):
Trung Quốc: 25,1% , Indônexia: 36,5%, Philipin: 40%, Mianma: 28,2%, Thái
Lan: 25,9%, Malaixia: 50,1%.
Năm 1950 tổng dân số thế giới là 2.503 triệu người trong đó dân số đô thị
là 735 triệu người, tỷ lệ đô thị hóa là 29,36%. Năm 1975 tổng dân số thế
giới là 4.078 triệu người trong đó dân số đô thị là 1.561 triệu người, tỷ lệ
đô thị hóa là 38,28%.
Năm 2000 tổng dân số thế giới là 6.129 triệu người trong đó dân số đô thị
là 2.953 triệu người, tỷ lệ đô thị hóa là 48,18%. Năm 2008 dân số đô thị của thế

giới vượt qua ngưỡng 50%. Dự kiến năm 2025 tổng dân số thế giới là 7.998
triệu người trong đó dân số đô thị là 5.107 triệu người, tỷ lệ đô thị hóa là 63,85%.
14
15
2.3.2. Thực tiễn đô thị hóa ở Việt Nam
Quá trình đô thị hoá ở Việt Nam tuy diễn ra khá sớm, trước thời kì đổi
mới ĐTH hầu như không có biến động, quá trình ĐTH diễn ra chậm chạp,
mức độ phát triển dân cư thành thị thấp.
Thời kỳ sau đổi mới mở ra bước phát triển mới của đô thị hoá ở Việt
Nam. Đặc biệt, sau khi Quốc hội Việt Nam ban hành Luật Doanh nghiệp (năm
2000), Luật Đất đai (năm 2003), Luật Đầu tư (năm 2005); Chính phủ ban
hành Nghị định về Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất (năm 1997)…
nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng
vọt, gắn theo đó là sự hình thành trên diện rộng, số lượng lớn, tốc độ nhanh
các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị mới và sự cải thiện đáng kể kết
cấu hạ tầng ở cả thành thị và nông thôn. Làn sóng đô thị hoá đã lan toả, lôi
cuốn và tác động trực tiếp đến nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
Trong hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, quá trình đô thị hoá
diễn ra hết sức nhanh chóng nhất là trong 10 năm trở lại đây, đặc biệt ở các
thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ năm 1990 các đô thị Việt Nam bắt đầu phát triển, lúc đó cả nước
mới có khoảng 500 đô thị (tỷ lệ đô thị hoá vào khoảng 17 - 18%), đến năm
2000 con số này lên 649 và năm 2003 là 656 đô thị. Tính đến nay, cả nước có
khoảng 700 đô thị bao gồm 2 đô thị đặc biệt: TP Hồ Chí Minh, Hà Nội; 4 đô
thị loại 1: Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, và Huế; 13 đô thị loại 2; 36 đô thị
loại 3; 39 đô thị loại 4 và 635 đô thị loại 5 (đạt tỷ lệ đô thị hoá xấp xỉ 27%).
Theo dự báo của Bộ Xây dựng, tỷ lệ đô thị hoá của Việt Nam vào năm
2020 sẽ đạt khoảng 40%, tương đương với số dân cư sinh sống tại đô thị
chiếm trên 45 triệu dân. Mục tiêu đề ra cho diện tích bình quân đầu người là
100m2/người. Nếu đạt tỷ lệ 100 m2/người, Việt Nam cần có khoảng 450.000

ha đất đô thị, nhưng hiện nay, diện tích đất đô thị chỉ có 105.000 ha, bằng 1/4
so với yêu cầu (Bộ Ngoại giao, 2008)[2].
Trước tình hình đô thị hoá như hiện nay Việt Nam đang phải đối mặt
với nhiều vấn đề. Di dân từ nông thôn sang thành thị khiến cho mật độ dân cư
tăng cao, sẽ có it cơ hội việc làm cho người lao động, từ đó nảy sinh những
tiêu cực trong xã hội. Theo thống kê của Quỹ dân số Liên hợp quốc
15
16
(UNFPA), người di dân nông thôn chiếm 1/3 dân số của TP Hồ Chí Minh
và 1/10 dân số của Hà Nội. Nhà ở không đáp ứng đủ nhu cầu cho người
dân, không tìm kiếm được việc làm khiến cho chênh lệch giàu nghèo trở
nên rõ rệt, đô thị hoá khiến cho môi trường bị huỷ hoại nghiêm trọng,
diện tích đất nông nghiệp suy giảm thay thế vào đó là các khu công
nghiệp, dự án, đường giao thông…
Đô thị hoá là con đường để phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia,
đô thị hoá mang lại thu nhập cao hơn cho người dân, điều kiện sống, lao
động, học tập trở nên tốt hơn. Bên cạnh đó cũng mang lại những mặt tiêu cực,
vấn đề đặt ra là cần những chiến lược cụ thể, hiệu quả của nhà nước để phát
huy nhiều nhất những lợi ích của quá trình đô thị hoá, đồng thời phải giảm
thiểu tối đa những tác động tiêu cực của nó, để hướng tới mục tiêu phát triển
bền vững.
2.3.3. Các công trình nghiên cứu về đô thị hoá trên thế giới và Việt Nam
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về các hình thái đô thị và quá trình
ĐTH trên thế giới và khu vực.
Từ cuối thế kỷ XIX, Cerda - kỹ sư người Catalan vẽ quy hoạch thành
phố Barcelone đặt ra thuật ngữ “Urbanization”. Ông tin rằng ĐTH là một kế
hoạch và tồn tại nhiều nguyên lý cơ bản chi phối sự kiến thiết đô thị. Ông
cũng ý thức về tầm quan trọng của việc quản lý thành phố một cách toàn diện
với sự huy động kế hoạch về lĩnh vực của quản lý đô thị (Bassan, Michel,
2001)[12]. Trong nửa đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu khoa học đã có

những quyết định khác nhau về các mô hình đô thị. Năm 1925, nhà xã hội học
Ernest Burgess (Mỹ) đã đem ra “mô hình làn sóng điện”. Theo mô hình này
thì thành phố chỉ có một trung tâm và 5 vùng đồng tâm. Đặc điểm chung của
mô hình đô thị này là tất cả các lĩnh vực đều có xu hướng mở rộng. “Mô hình
thành phố đa cực” được hai nhà địa lý Marris và ullman đưa ra vào năm 1945.
Mô hình chủ yếu tính đổi các dạng đô thị mới phát sinh do sự phát triển của
phương tiện giao thông (Bassan, Michel, 2001)[12]. Vào năm 1939, “Mô hình
phát triển theo khu vực” do chuyên gia địa chính Hamer Hoyt đưa ra chủ yếu
tính đến các dạng đô thị phát triển với sự ĐTH các quá trình giao thông và
nhiều thành phần phát triển theo kiểu khu phố. Có thể nói đây là hệ thống
hoàn chỉnh nhất vì nó đã tính đến các trục giao thông lớn.
16
17
Có nhiều quan điểm khác nhau trong quá trình phát triển đô thị.
Francois Perrous với quan điểm “thuyết kinh tế chủ đạo” hay còn gọi là
“thuyết về các cực tăng trưởng”. Ông cho rằng chỉ ở trung tâm đô thị của hai
vùng có sự phát triển các ngành công nghiệp, có sức bành trướng mạnh mới
có khả năng tăng trưởng lớn nhất. Nông nghiệp trọng tâm đô thị ấy là những
cực tăng trưởng. đây chính là quan điểm phát triển đô thị lấy tăng trưởng kinh
tế làm trọng tâm. Tuy nhiên theo nghiên cứu của David C. Korkn cần phát
triển đô thị lấy con người làm trung tâm. Ông cho rằng “phát triển là một tiến
trình trong đó các thành viên của xã hội tăng được khả năng cá nhân và định
chế của mình để huy động các nguồn lực, tạo ra những thành quả bền vững và
được phân phối công bằng nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống phù hợp với
cuộc sống của họ” (Bassand, Michel, 2001)[12].
Trong những năm gần đây các ngành khoa học xã hội và nhân văn cũng
đã có những công trình nghiên cứu về ĐTH ở Việt Nam. Công trình nghiên
cứu về những vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh trong quá trình đô thị hoá thành
phố Hồ Chí Minh, trong chương trình nghiên cứu khoa học tổng kết thực tiễn
cấp bộ, chủ nhiệm chương trình này là TS Vương Cường, cơ quan chủ trì là

học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (năm 2007). Chương
trình này đã cung cấp cơ sở khoa học cho các cơ quan liên quan đến việc
hoạch định những chính sách đóng góp cho quá trình đô thị hoá của đất nước.
Đại diện Ngân hàng thế giới cũng đã giới thiệu “Báo cáo đánh giá đô
thị hoá tại Việt Nam”, đây là một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới về quá
trình đô thị hoá tại Việt Nam với các đại diện ban ngành và báo chí (2012).
Báo cáo nhấn mạnh, đô thị hoá là động lực phát triển kinh tế xã hội. Gần như
tất cả các nước trên thế giới đều phải trải qua đô thị hoá ít nhất 50% trước khi
đạt mức thu nhập trung bình. Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi đô
thị hoá từ sơ khai sang giai đoạn cao hơn với tốc độ nhanh. Tuy nhiên, báo
cáo cũng nêu ra những thách thức, tồn tại trong quá trình đô thị hoá, như vấn
đề ùn tắc giao thông ô nhiễm môi trường đã tác động tiêu cực đến sự phát
17
18
triển ở Việt Nam. Người dân tiếp cận với các dịch vụ cơ bản như nước sạch
và vệ sinh môi trường vẫn ở mức thấp. Hệ thống quy hoạch đô thị của Việt
Nam vẫn chủ yếu dựa trên những nguyên tắc thiết kế, chứ chưa hỗ trợ cho
việc phát huy chức năng của thị trường nhà đất và chuyển động đô thị.
Qua những nghiên cứu trong và ngoài nước ta có thể thấy được sự quan
tâm của các nhà nhiên cứu đối với đô thị hoá ngày càng được nâng cao. Mong
rằng sẽ có nhiều công trình nghiên cứu sâu rộng về vấn đề này, để đô thị hoá
không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới hướng tới mục tiêu bền vững, giúp
bảo vệ và phát triển môi trường sống của toàn nhân loại trong tương lai.
18
19
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những vấn đề về lý luận và về thực tiễn về đô thị, đô thị hóa và ảnh

hưởng của nó tới phát triển kinh tế - xã hội của xã Cao Ngạn.
- Quá trình đô thị hóa tại xã Cao ngạn.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu trên địa bàn xã Cao Ngạn, Thành
Phố Thái Nguyên.
- Phạm vi thời gian: Trong giai đoạn năm 2005-2011.
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm: Xã Cao Ngạn.
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2005 đến năm 2011.
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Tình hình cơ bản của xã Cao Ngạn
- Đặc điểm về điều kiện tự nhiên của xã Cao Ngạn.
- Đặc điểm kinh tế - xã hội tại địa phương.
- Đánh giá tiềm năng, cơ hội và hạn chế của điều kiện tự nhiên, kinh tế
xã hội đến sự phát triển kinh tế - xã hội và đô thị hoá của xã Cao Ngạn.
3.3.2. Thực trạng quản lý, sử dụng đất và biến động đất đai
- Sơ lược về tình hình quản lý đất đai trên địa bàn.
- Sơ lược về hiện trạng sử dụng đất và biến động đất giai đoạn từ 2005 - 2011
3.3.3. Tác động của đô thị hóa
3.3.3.1. Ảnh hưởng của đô thị hóa đến sử dụng đất nông nghiệp
Ảnh hưởng của đô thị hoá đến biến động diện tích đất nông nghiệp qua
các giai đoạn:
- Giai đoạn 2005 - 2010
- Giai đoạn 2010 - 2011
- Đánh giá chung
19
20
3.3.3.2. Ảnh hưởng của đô thị hóa đến đời sống của hộ nông dân mất đất
nông nghiệp
* Ảnh hưởng ĐTH tới đời sống kinh tế - xã hội của hộ gia đình:

+ Ảnh hưởng của ĐTH tới biến động đất đai của hộ.
+ Ảnh hưởng của ĐTH tới nghề nghiệp của hộ.
+ Ảnh hưởng của ĐTH tới thu nhập của hộ.
+ Tình hình sử dụng tiền bồi thường đất đai của hộ.
* Đánh giá sự ảnh hưởng của ĐTH tới đời sống kinh tế - xã hội của các
hộ thông qua câu hỏi định tính
* Tìm hiểu và đánh giá kế hoạch của hộ trong tương lai
3.3.3.3. Đánh giá chung tác động của đô thị hóa
3.3.4. Đề xuất giải pháp nhằm đảm bảo đời sống của hộ nông dân mất đất
nông nghiệp, tăng cường vai trò quản lý nhà nước trong quá trình đô thị
hóa tại xã Cao Ngạn
- Định hướng phát triển ĐTH trên địa bàn xã Cao ngạn tới năm 2020.
- Những giải pháp chủ yếu hạn chế mất đât nông nghiệp và đảm bảo
đời sống kinh tế hộ nông dân bị mất đất nông nghiệp trong khu vực đô thị hoá
- Một số giải pháp cơ bản tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đối
với đất đai trong quá trình đô thị hoá tại xã Cao Ngạn.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp thu thập tài liệu thông tin
3.4.1.1. Tài liệu thứ cấp (tài liệu đã được công bố)
Bao gồm :
- Các sách, báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu đã được xuất bản,
các tài liệu trên internet, các văn kiện nghị quyết của trung ương và địa
phương
- Tài liệu, số liệu được công bố của sở tài nguyên và Môi trường Tỉnh
Thái Nguyên, phòng Tài nguyên và Môi trường Thành phố Thái Nguyên,
phòng địa chính UBND xã Cao Ngạn, và một số ban ngành có liên quan
20
21
3.4.1.2. Tài liệu sơ cấp
- Số liệu sơ cấp thu thập qua phỏng vấn hộ nông dân có đất bị thu hồi

bằng bảng câu hỏi phỏng vấn, phiếu điều tra. Phân các hộ điều tra thành 3
nhóm có diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi khác nhau:
Nhóm 1: Các hộ bị thu hồi dưới 30% đất nông nghiệp.
Nhóm 2: Các hộ bị thu hồi từ 30% đến dưới 70% đất nông nghiệp.
Nhóm 3: Các hộ bị thu hồi từ 70% trở lên đất nông nghiệp.
Tổng số hộ điều tra gồm 60 hộ, mỗi nhóm điều tra 20 hộ.
+ Đối tượng phỏng vấn: Các hộ bị thu hồi đất nông nghiệp trong giai
đoạn 2005 - 2011.
+ Nội dung phỏng vấn: Tình hình kinh tế sau thu hồi đất nông nghiệp
và ý kiến của hộ về mức độ tác động của quá trình ĐTH.
+ Mục đích phỏng vấn: Đánh giá được ảnh hưởng của ĐTH tới đời
sống kinh tế hộ nông dân tại xã Cao Ngạn.
+ Phương pháp: Phỏng vấn trực tiếp với bộ câu hỏi.
3.4.2. Phương pháp xử lý số liệu
3.4.2.1. Phương pháp thống kê so sánh
3.4.2.2. Phương pháp tổng hợp
21
22
Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của xã Cao Ngạn
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Cao Ngạn là một xã nằm ở ngoại thành phía Bắc thành phố Thái
Nguyên. Ngày 31 tháng 7 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số
84/2008/NĐ - CP về điều chỉnh địa giới hành chính huyện Đồng Hỷ để mở
rộng thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên Tháng 9 năm 2008, xã Cao
Ngạn (Đồng Hỷ) chính thức được sáp nhập về Thành phố Thái Nguyên.
Xã Cao Ngạn cách trung tâm thành phố 10 km về phía Bắc. Tổng diện
tích tự nhiên của xã là 851,76 ha, với các vị trí tiếp giáp như sau:

- Phía Bắc giáp xã Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ.
- Phía Tây giáp xã Sơn Cẩm, huyện Phú Lương.
- Phía Đông giáp thị trấn Chùa Hang, huyện Đồng Hỷ.
- Phía Nam giáp phường Quang Vinh, thành phố Thái Nguyên.
4.1.1.2. Địa hình, địa mạo
Cao Ngạn là một xã nằm về phía Đông Bắc thành phố Thái Nguyên.
Địa hình chủ yếu là đồi núi xen lẫn với đồng bằng.
Nằm ven sông Cầu là con sông chính của tỉnh và gần như chia Thái
Nguyên ra thành hai nửa bằng nhau theo chiều Bắc Nam.
Hướng dốc chính của địa hình : Bắc - Nam.
Độ cao trung bình +1,6m đến 4,0m.
Đây là vùng có vị trí địa lý tương đối thuận lợi cho việc phát triển công
nghiệp, bố trí cơ cấu cây trồng trong sản xuất nông nghiệp.
4.1.1.3. Khí hậu, thời tiết
Theo số liệu quan trắc của Trạm khí tượng thủy văn Thái Nguyên cho
thấy xã Cao Ngạn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết chia
làm 4 mùa; Xuân - Hạ - Thu - Đông, song chủ yếu là 2 mùa chính; Mùa mưa
và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến
tháng 3 năm sau, cụ thể:
22
23
+ Mùa hè: Nóng ẩm, mưa nhiều được kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10.
+ Mùa đông: Lạnh, khô hanh thường kéo dài từ tháng 11 năm trước đến
tháng 3 năm sau.
Chế độ nhiệt: Hàng năm có nhiệt độ trung bình là 25°C. Chênh lệch giữa
các tháng nóng nhất (tháng 6: 35.0
0
C) và tháng lạnh nhất (tháng 1: 10.0
0
C).

- Nắng: Tổng số giờ nắng trung bình năm dao động từ 1300 - 1750 giờ;
phân bố đều cho các tháng trong năm.
- Lượng mưa: Lượng mưa tập trung chủ yếu từ tháng 5 - 10. Lượng
mưa trung bình 2.000 - 2.500 mm.
- Độ ẩm không khí: Độ ẩm không khí trung bình năm là 87,58%.
4.1.1.4. Thủy văn
Xã Cao Ngạn có 46,41 ha sông suối nằm rải rác trên toàn xã. Bên cạnh
đó, trên địa bàn xã có sông Cầu bao quanh cả vùng ranh giới phía Tây. Lượng
nước tăng giảm theo mùa, mùa mưa thường hạn hán gây khó khăn cho việc
sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, mùa mưa nước lên to gây ngập úng và đôi
khi còn xảy ra hiện tượng ngập lụt. Một phần nguồn nước này phục vụ cho
nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của nhân dân trong xã.
4.1.1.5. Tài nguyên thiên nhiên
* Tài nguyên đất:
Cao Ngạn có tổng diện tích tự nhiên 851,76 ha, trong đó nhóm đất
nông nghiệp 579,06 ha hiếm 67,98%, nhóm đất phi nông nghiệp 240,04 ha,
chiếm 28,18%, đất chưa sử dụng là 32,66 ha, chiếm 3,84%.
* Tài nguyên nước
Toàn xã có 46,41 ha sông suối. Đây là nguồn nước mặt tự nhiên quý giá
phục vụ chính cho mọi nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Hiện nay
nguồn nước này đã được khai thác sử dụng có hiệu quả. Nguồn nước ngầm ở
độ sâu trung bình từ 10 - 30 m, đây là nguồn nước sạch cung cấp nước sinh
hoạt cho nhân dân trong xã.
* Tài nguyên rừng
Theo số liệu thống kê đến năm 2010 diện tích rừng của xã Cao Ngạn là
43,42 ha, toàn bộ diện tích này là rừng sản xuất phục vụ khai thác nguyên liệu
gỗ. Các loại cây rừng chủ yếu là bạch đàn và keo tai tượng.
23
24
* Tài nguyên nhân văn

Tính đến hết năm 2009 dân số toàn xã là 6.827 khẩu và 1.784 hộ. Trên
địa bàn xã có một làng nghề làm bún bánh truyền thống ở Gò Chè. Nhân dân
trong xã đoàn kết, cần cù chịu khó.
* Cảnh quan môi trường
Xã Cao Ngạn thuộc địa phận Thành phố Thái Nguyên, nằm trong khu
vực miền núi phía đông bắc Việt Nam mang đặc trưng của vùng ven đô, các
rừng cây dần được thay thế bởi những toà nhà, các nhà máy, đường giao
thông…do tác động tiêu cực của việc sản xuất công nghiệp và sự thiếu ý thức
của một số người dân trên địa bàn đã gây ra tình trạng nguồn nước trên sông
Cầu bị ô nhiễm nghiêm trọng và lượng nước có xu hướng suy giảm qua các
năm, việc chặt phá cây rừng gây nên tình trạng xói mòn, rửa trôi ảnh hưởng
tới diện tích đất dùng cho sản xuất nông nghiệp trên địa bàn, do còn thiếu sự
đầu tư trong vấn đề bảo vệ môi trường nên trên địa bàn xã còn nhiều vấn đề
cần giải quyết, tiêu biểu là việc nhà máy xi măng, nhà máy sản xuất vật liệu
xây dựng chưa có những biện pháp xử lý rác thải, khí thải hiệu quả để bảo vệ
môi trường. đây là những vấn đề bức thiết rất cần sự quan tâm của các cấp có
thẩm quyền và sự hợp tác của lãnh đạo các nhà máy.
4.1.1.6. Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và cảnh quan môi
trường liên quan đến sử dụng đất đai
Nằm ở phía Bắc thành phố Thái Nguyên, xã Cao Ngạn có vai trò quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội chung của thành phố, quá trình
phát triển đô thị đã diễn ra mạnh mẽ, trên địa bàn xã được đầu tư xây dựng
nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức, công trình công cộng do vậy đang dần dần
mang dáng vóc của một đô thị. Cao Ngạn là xã ven đô đang trong quá trình
phát triển do vậy hạ tầng cơ sở kỹ thuật phát triển vẫn còn thiếu đồng bộ, còn
hạn chế về nhiều mặt.
Mật độ dân số trên địa bàn xã tập trung đông ở một khu vực, đặc biệt là
sinh viên của các trường đại học, trung cấp ở các tỉnh tập chung về học tập và
sự tăng nhanh về các phương tiện giao thông cũng như ảnh hưởng của nước
thải, khí thải, khói, bụi, tiếng ồn trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh đã gây

ô nhiễm môi trường không khí, nước, đất ở các mức độ khác nhau.
24
25
Bên cạnh đó, các điểm tập trung rác thải, quá trình vận chuyển, xử lý
chủ yếu vẫn là tập chung rác bằng phương tiện thô sơ, do vậy đôi khi việc vận
chuyển tập kết rác vẫn chưa kịp thời, thêm vào đó là ý thức của một bộ phận
người dân chưa cao đã phần nào ảnh hưởng tới môi trường của xã.
Ngày nay vấn đề môi trường cần phải được quan tâm và chú trọng
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, để đảm bảo phát triển luôn đi đôi
với phát triển bền vững. Vì vậy từ những vấn đề nêu trên trong tương cần phải
có những định hướng đúng trong quy hoạch phát triển, đồng thời tuyên truyền
cho nhân dân nâng cao ý thức trong vấn đề bảo vệ môi trường.
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội và thực trạng đô thị hóa
4.1.2.1. Cơ cấu kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế: tổng thu nhập đạt 106 tỷ đồng:
+ Sản xuất nông nghiệp : 55%.
+ Công nghiệp - xây dựng : 30%.
+ Dịch vụ : 15%.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp,
tăng dần tỷ trọng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ
là mục tiêu chủ yếu của xã.
4.1.2.1. Dân số, lao động và việc làm
* Dân số
- Hiện trạng dân số xã Cao Ngạn là 7039 người, tỷ lệ tăng dân số khống
chế là 1,65%.
Bảng 4.1. Biến động dân số xã qua các năm
Năm Dân số trung bình Tỷ lệ tăng tự nhiên (%)
2008 6695 1,65
2009 6805 1,65
2010 6907 1,65

2011 7039 1,65
(Nguồn: UBND xã Cao Ngạn, 2011)
25

×