Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận cao học lịch sử tư tưởng chính trị phân tích cơ sở hình thành tư tưởng chính trị hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.91 KB, 18 trang )

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU

Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức,là biểu hiện của con người
với thế giới xung quanh. Trong thuật ngữ “Tư Tưởng Hồ Chí Minh”, khái niệm
này lại có ý nghĩa ở tầm khái quát triết học. Đó là một hệ thống quan điểm tồn
diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lê Nin vào điều kiện lịch sử cụ thể
nước ta,là sự kết tinh tinh hoa văn hóa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Để có thể vận dụng đứng đắn Tư tưởng Hồ Chí Minh vào cơng cuộc đổi
mới và phát triển này thì chúng ta cần phải hiêu rõ Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì
và nguốn gốc cơ sở hình thành TTHCM như thế nào?
Vì vậy em chọn đề tài: Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng chính trị Hồ
Chí Minh

2


NỘI DUNG
NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.

I.
1.

Giá trị truyền thống
Lịch sử hang ngàn năm dung nước và giữa nước đã hình thành cho Việt
Nam các giá trị truyền thống dân tộc phong phú, vững bền. đó là ý thức chủ


quyền quốc gia dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, yêu nước, kiên cường, bất
khuất… tạo thành mạnh mẽ của đất nước; là tinh than tương thân tương ái, nhân
nghĩa, thủy chung, khoan dung, độ lượng; là sáng tạo , thông minh, quý trọng
hiền tài, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm phong phú văn hóa dân tộc…
Trong nguồn giá trị tinh thần truyền thống đó, chủ nghĩa u nước là cốt lõi, là
dịng chảy chính của tư tưởng văn hóa truyền thống Việt Nam, xuyên suốt
trường kì lịch sử, là động lực mạnh mẽ cho sự trường tồn và phát triển của dân
tộc. Chính sức mạnh truyền thống tư tưởng và văn hóa đó của dân tộc đã thúc
giục Hồ Chí Minh ra đi tìm đường tìm tịi, học hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại để làm giàu cho tư tưởng cách mạng và văn hóa của Người

2.

Tinh hoa văn hóa nhân loại.
Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Hồ Chí Minh đã biết
làm giàu vốn văn hóa của mình bằng cách học hỏi, tiếp thu tu tưởng văn hóa
phương Đơng và phương Tây
Về tư tưởng và văn hóa phương Đơng, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những
mặt tích cực của Nho giáo về triết lý hành động, nhân nghĩa, ước vọng về một
xã hội bình trị; về một triết lý nhân sinh, tu nhân, tế gia; đề cao văn hóa trung
hiếu “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”.
Về Phật giáo, Người đã tiếp thu tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu nạn, cứu
khổ; coi trọng tinh thần bình đẳng, chống phân biệt đẳng cấp, chăm lo điều
thiện…

3


Về tư tưởng và văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tiếp thu
văn hóa dân chủ và cách mạng của cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ.

Về tư tưởng dân chủ của cách mạng pháp, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư
tưởng của các nhà khai sáng: Vonte (Voltaire), Rútxô (Rousso). Đặc biệt Người
chịu ảnh hưởng sâu sắc về tư tưởng tự do, bình đẳng của Tun ngơn nhân
quyền và dân quyền năm 1791 của Đại cách mạng Pháp.
Về cách mang Mỹ, Người đã tiếp thu giá trị về quyền sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập năm 1776, quyền của
nhân dân kiểm sốt chính phủ.
3.

Chủ Nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa Mác – Lê nin là nguồn gốc lý luận trực tiếp quyết định bản
chất tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh khẳng định :
“Chủ nghĩa Lê nin đối với chúng ta những người cách mạng và nhân dân
Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ , không những là kim chỉ
nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng ,
đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”. Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin ở Hồ Chí Minh ra trên nền tảng của những tri thức văn hóa tinh túy được
chắt lọc, hấp thụ và một vốn chính trị, vốn hiểu biết phong phú, được tích lũy
qua thực tiễn hoạt động đấu tranh vì mục tiêu cứu nước và giải phóng dân tộc.
Bản lĩnh trí tuệ đó đã nâng cao khả năng độc lập tự chủ và sáng tạo ở
Người khi vận dụng những nguyên lý cách mạng của thời đại vào hoàn cảnh
điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã nắm vững cái cốt lõi,
linh hồn sống của nó, là phương pháp biện chứng duy vật; học tập lập trường,
quan điểm, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin để giải quyết
các vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam.

4


Các tác phẩm, bài viết của Hồ Chí Minh phản ánh bản chất cách mạng tư

tưởng của Người theo thế giới quan, hương pháp luận của chủa nghĩa Mác –
Lênin.
4.

Nhân tố chủ quan.

-

Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chi Minh. Những năm tháng hoạt động trong
nước và bôn ba khắp thế giới để học tập, nghiên cứu, Hồ Chí Minh đã khơng
ngừng quan sát, nhận xét thực tiễn, làm phong phú thêm sự hiểu biết của mình,
đồng thời hình thành những cơ sở quan trọng để tạo dựng nên những thành công
trong lĩnh vực hoạt động lý luận của Người về sau.
Trong quá trình tìm đường cứu nước. Hồ Chí Minh khám phá các quy luật
vận động xã hội, đời sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn
cảnh cụ thể để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn
và được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Nhờ vào con đường nhận thức chân lý
như vậy mà lý luận của Hồ Chí Minh mang giá trị khách quan, cách mạng và
khoa học.

-

Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn
Mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, sự tác động mạnh mẽ của thời đại
và sự nhận thức đúng đắn về thời đại đã tạo điều kiện để Hồ Chí Minh hoạt động
có hiệu quả cho dân tộc và nhân loại
Có được điều đó là nhờ vào nhân cách, phẩm chất và tài năng trí tuệ siêu
việt của Hồ Chí Minh. Phẩm chất, tài năng đó được biểu hiện trước hết là ở tư
duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt
trong việc nhận xét, đánh giá các sự vật, sự việc xung quanh; là ở bản lĩnh kiên

định, ln tin vào nhân dân: khiêm tốn. bình dị, ham học hỏi; nhạy bén với cái
mới, có phương pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn.
Phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh cịn biểu hiện: khổ cơng học tập để
chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức nhân loại; là tâm hồn của một nhà yêu nước chân
5


chính, một :chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước
thương dân, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, hạnh phúc
của đồng bào.

CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.

II.
1.

Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

a)

Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước thế giới có
nhiều biến động.
Trong nước, chính quyền triều nguyễn đã từng bước khuất phục trước
cuộc xâm lược của tư bản Pháp, lần lượt kí kết các hiệp ước đầu hàng, thừa nhận
nền bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam.
Cho đến cuối thế kỉ XX, các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu
“Cần vương” do các sĩ phu,văn thân lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. Hệ tư
tưởng phong kiến đã tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.
Các cuộc khai thác của thực dân Pháp khiến cho xã hội nước ta có sự biến

chuyển về phân hóa, giai cấp cơng nhân, tầng lớp tiểu tư sản bắt đầu xuất hiện,
tạo ra nhiều tiền đề bên trong cho phong trào yêu nước giải phóng dân tộc Việt
Nam đều thế kỷ XX.
Cùng vào thời điểm lịch sử đó, các “tân thư”, “tân văn” và những ảnh
hưởng của trào lưu cải cách ở Nhật Bản, Trung Quốc tràn vào Việt Nam, phong
trào yêu nước của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, mỗi khi Tổ
quốc lâm nguy thì non song đất nước ta lại sản sinh ra anh hùng dân tộc, đáp
ứng yêu cầu của lịch sử, tiêu biểu cho sự phát triển của lịch sử. Phát huy truyền
thống yêu nước của dân tộc, các sĩ phu Nho học có tư tưởng tiến bộ, tức thời,

6


tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã cố gắng tổ chức và vận động
cuộc đấu tranh yêu nước chống Pháp theo mục tiêu và phương pháp mới. Song,
chủ trương cầu ngoại viện, dung bảo lực để khôi phục độc lập của Phan Bội
Châu đã thất bại. Chủ trương “ý Pháp cầu tiến bộ”, khai thơng dân trí, nâng cao
dân khí trên cơ sở đó mà lần lần tính chuyện giải phóng…của Phan Chu Trinh
cũng khơng thành cơng. Người anh hung Yên Thế - Hoàng Hoa Thám nổi dậy,
dung cảm trong đấu trang chống Pháp, song “còn nặng cốt cách phong kiến”,
chưa có phương hướng chính xác, chưa có lối thốt rõ ràng. Cuộc nổi dậy thất
bại. Con thuyền Việt Nam còn lênh đênh chưa rõ bờ bến phải đi tới. Phong trào
cứu nước của dân ta muốn giành được thắng loiwk phải đi theo con đường mới.
b)

Bối cảnh thời đại (quốc tế)
Trong khi con thuyền Việt Nam còn lênh đênh chưa rõ bờ bến phải đi tới,
việc cứu nước như trong đêm tối “khơng có đường ra” thì lịch sử thế giới trong
giai đoạn này cũng đang có những chuyển biến to lớn,

Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển sang giai đoạn độc
quyền đã xác lập quyền thống trị chúng trên phạm vi toan thế giới. Chủ nghĩa đế
quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa.
Có một thực tế lịch sử là trong quá trình xâm lược và thống trị của các
nước thực dân tại các nước nhược tiểu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ
Latinh, sự bóc lột phong kies trước kia vẫn được duy trì và bao trùm lên nó là sự
bóc lột tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh các giai cấp cơ bản trước kia, đã xuất hiện
thêm các giai cấp, tầng lớp xã hội mới, trong đó có giai cấp cơng nhân và giai
cấp tư sản
Từ cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản chủ nghĩa cuối
thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã dẫn đến một cao trào của cách mạng thế giới đỉnh
cao là cách mạng Tháng Mười Nga nắm 1917. Chính cuộc cách mạng vĩ đại này
đã lamg thức tỉnh các dân tộc châu Á.

7


Cách mạng Tháng Mười Nga đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập chính
quyền Xơ viết, mở ra một thời kì mới trong lịch sử lồi người.
Cuộc cách mạng vô sản ở nước Nga thành công đã nêu một tâm gương
sáng về sự giải phong các dân tộc bị áp bức, “ mở ra trước mắt họ thời đại cách
mạng chống đế quốc thời đại giải phóng dân tộc”.
Với thắng lợi của cách mạng Tháng Mười, nhiều dân tộc vốn là thuộc địa
của đế quốc Nga đã được tự do, được hưởng quyền dân tộc tự quyền, hình thành
nên các quốc gia dân tộc độc lập và dẫn đến sự ra đời của Liên bang Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Xôviết (1922).
Từ sau cách mạng Tháng Mười Nga, với sự ra đời của quốc tế cộng sản
(tháng 3- 1919), phong trào công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa phương
Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phương Đơng càng
có quan hệ mật thiết với nhau hơn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thu chung là

chủ nghĩa đế quốc.
2.

Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước, thương nòi (trước năm 1911)
Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh lớn lên và sống trong nỗi đau của người dân
mất nước, được sự giáo dục của gia đình, q hương, dân tộc về lịng u nước
thương dân; sớm tham gia phong trào đấu tranh chống Pháp; băn khoăn trước
những thất bại của các sĩ phu yêu nước chống Pháp; ham học hỏi, muốn tìm hiểu
những tinh hoa văn hóa tiên tiến của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở Châu
Âu, muốn đi ra nước ngồi xem họ làm gì để trở về giúp đồng bào thốt khỏi
vịng nơ lệ. Trong thời kỳ này , ở Hồ Chí Minh đã hình thành tư tưởng u nước,
thương dân, tha thiết bảo vệ những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc,
ham muốn học hỏi những tư tưởng tiến bộ của nhân loại.

3.

Thời kỳ tìm tịi con đường cứu nước, giải phóng dân tộc (1911 – 1920)
Tháng 7-1911, Hồ Chí Minh đặt chân lên đất Pháp. Tiếp đó Người cịn
đến nhiều nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh và các nước đế
8


quốc như Mỹ, Anh để nghiên cứu và tìm lời giải đáp cho câu hỏi lúc ra đi. Cuộc
hành trình vạn dặm ấy đã giúp Người tìm ra mọi cội nguồn những khổ đau của
nhân loại là các nước đế quốc “chính quốc”
Giữa lúc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất ở vào thời kỳ ác liệt cuối năm
1917, Người từ nước Anh trở lại nước Pháp. Ngày 11-1917, Cách mạng xã hội
chủ nghĩa Tháng Mười nổ ra và thắng lợi, Hồ Chí Minh có cảm tình sâu sắc với
cuộc cách mạng ấy và với lãnh tụ Lênin.
Chiến tranh kết thúc năm 1919, các nước đế quốc họp hội nghị ở Vécxây

(Pháp). Thực chất của hội nghị là các nước thắng trận chia lại thuộc địa được
dấu dưới những lời lẽ “tự do”, “cơng bằng”, “nhân đạo”, theo chương trình 14
điều của Uynxơn - Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ.
Thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái
Quốc đã gửi đến hội nghị “Yêu sách của nhân dân An Nam” đòi các cường quốc
thừa nhận quyền tự do, dân chủ, bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Qua hội nghị
Vécxây, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: ““Chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là một trò bịp
bợm lớn” ; các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức lực của
bản thân mình. Nhờ nhận thức rút ra từ thực tiễn gần 10 năm lăn lộn tìm đường
cứu nước nên khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa của Lênin (7-1920), Hồ Chí Minh tìm thấy những lời giải
đáp đầy thuyết phục cho những câu hỏi của mình. Người viết: “Luận cương của
Lênin làm cho tôi rất cảm động phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tơi vui
mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang
nói trước quần chúng đơng đảo: “Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái
cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” . Đến đây, Hồ
Chí Minh khẳng định con đường cứu nước của mình: giải phóng dân tộc bằng
con đường cách mạng vơ sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp vơ
sản. Hồ Chí Minh rời bỏ Đảng Xã hội theo quan điểm Đệ nhị quốc tế để đến với
Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập (3-1919).
9


Tháng 12-1920, đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp gắn liền với
việc Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản đánh dấu bước ngoặt trong quá trình
phát triển tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng của Người - chủ nghĩa yêu
nước chân chính đã gặp chủ nghĩa quốc tế vơ sản chân chính.
4.

Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về cách ạng Việt Nam (1921 – 1930)

Những năm bôn ba, lăn lộn trong phong trào u nước, phong trào cơng
nhân “chính quốc” và các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã mở rộng quan hệ xã
hội và tri thức của mình. Nhờ thơng hiểu nhiều ngoại ngữ và giao tiếp rộng với
nhiều bạn bè quốc tế mà Người tiếp thu được kiến thức cổ, kim, đông, tây, nắm
được cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin. Do tích cực tham gia các hoạt động
quốc tế và các buổi sinh hoạt lý luận bàn về chiến lược sách lược cách mạng thế
giới, qua thực tiễn công tác, tổng kết kinh nghiệm nhiều cuộc cách mạng, Hồ
Chí Minh đã tích lũy được nhiều tri thức cách mạng, dần dần trong tư duy của
Người hình thành nên một luận điểm đúng đắn: Giải phóng dân tộc gắn liền với
giải phóng giai cấp vơ sản và các dân tộc thuộc địa, giải phóng nhân loại. Cũng
từ đó, lý luận, chiến lược cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa nửa phong
kiến, đã từng bước hình thành trong tư duy Hồ Chí Minh.
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ
của Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Nơng dân…, Hồ Chí
Minh đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của mình về nước chuẩn
bị cho việc thành lập một Đảng cộng sản ở Việt Nam. Các bài viết trên báo
Người cùng khổ (1922), báo Thanh niên (1925), báo Nhân đạo, Tạp chí Cộng
sản, Đời sống thợ thuyền, Thông tin quốc tế, các tác phẩm Bản án chế độ thực
dân Pháp (1925), Đường Cách mệnh (1927),… của Hồ Chí Minh là những cơng
cụ quan trọng trong việc giáo dục những người Việt Nam yêu nước từng bước
chuyển từ yêu nước truyền thống thành yêu nước theo lập trường cách mạng vô
sản.

10


Hồ Chí Minh đã có thời kỳ hoạt động thực tiễn và lý luận sôi nổi , phong
phú ở Pháp (1921 – 1923), ở Liên Xô (1923 -1924), ở Trung Quốc (1924 –
1927), ở Thái Lan (1928 – 1929)... Trong thời gian này, Hồ Chí Minh cách mạng
Việt Nam đã hình thành cơ bản. Hồ Chí Minh đã kết hợp nghiên cứu xây sưng lý

luận, kết hợp với tuyên truyền tư tưởng giải phóng dân tộc và vận động tổ chức
quần chúng đấu tranh, xây dựng tổ chức cách mạng, chuẩn bị thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam,
Những tác phẩm như “ Đường Kách mệnh” (1927) và những bài viết của
Hồ Chí Minh trong thời kỳ này đã để lại đã thể hiện những quan điểm lớn và
độc đáo, sáng tạo về con đường cách mạng Việt Nam. Có thể tóm tắt những nội
dung như:
-

Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời kì đại mới phải đi theo con đường cách
mạng vơ sản . Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao
động, giái phóng giai cấp công nhân, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội.

-

Cách Mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có quan hệ mật thiết
với nhau. Cách mạng thuôc địa không lệ thuộc vào cách mạng ở chính quốc mà
có tính chủ động, độc lập. Cách mạng thuộc địa có khả năng dành thắng lợi
trước cách mạng ở chính quốc và giúp cho cách mạng ở chính quốc trong nhiệm
vụ giải phóng hồn tồn.

-

Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách mệnh”, đánh đuổi đế
quốc xâm lược, giành lại độc lập, tự do.

-

Giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng; phải tạo hợp lực lượng dân

tộc thành một sức mạnh lớn để chống đế quốc và tay sai.

-

Phải đoàn kết và liên minh với các lực lượng cách mạng quốc tế, song nêu cao
tinh thần tự lực, tự cường, không được ỷ lại chờ đợi sự giúp đỡ của quốc tế.

11


-

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, của cả dân tộc đại đoàn kết, Phải tổ
chức quần chúng, lãnh đạo và tổ chức đấu tranh bằng các hình thức và khẩu hiệu
thích hợp. Phương pháp đấu tranh để giành chính quyền, giành lại độc lập tự do
là bằng bạo lực của quần chúng và có thể bằng phương thức khởi nghĩa dân tộc.

-

Cách mạng muốn thành công trước hết phải có đảng cách mạng lãnh đạo, vận
động và tổ chức quần chúng đấu tranh. Đảng có vững cách mạng mới thành
cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy đúng hướng, tới đích.
Đảng phải có lý luận làm cốt...
Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh
trong những năm 20 của thế kỷ XX được truyền bá vào Việt Nam, làm cho
phong trào dân tộc và giai cấp ở nước ta trở thành một phong trào tự giác, dẫn
đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930, thông qua Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng.

5.


Thời kì thử thách, kiên trì giữ vững quan điểm, nêu cao tư tưởng độc lập,
tự do và quyền dân tộc cơ bản (1030 – 1945)
Những đường lối, chủ trương mà Hồ Chí Minh vạch ra trong Cương lĩnh
đầu tiên của Đảng thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều
kiện Việt Nam. Trong sự vận dụng sáng tạo đó có những vấn đề thuộc lý luận,
chiến lược cách mạng vô sản ở nước thuộc địa mà Lênin cũng như Quốc tế
Cộng sản có đề cập nhưng chưa đi sâu. Hơn nữa, vào cuối những năm 20, nửa
đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị
chi phối bởi những sai lầm tả khuynh, tư tưởng biệt phái, hẹp hịi. Điều đó được
thể hiện rõ nhất qua Nghị quyết Đại hội lần thứ VI Quốc tế Cộng sản (9-1928).
Mặt khác, Quốc tế Cộng sản vì khơng sát tình hình các nước thuộc địa,
nên đã phê phán đường lối cách mạng Việt Nam do Hồ Chí Minh vạch ra.
Tuy bị phê phán, song đường lối cách mạng của Hồ Chí Minh đã được
thực tiễn chứng minh là đúng đắn. Đó là cơ sở để Thường vụ Trung ương ra chỉ

12


thị thành lập Hội phản đế đồng minh (18-l l-1930), tiếp đó là Chỉ thị về vấn đề
thanh Đảng ở Trung kỳ (20-5-1931). Những chỉ thị này đã uốn nắn quan điểm xa
rời thực tiễn Việt Nam, làm cho toàn Đảng thấy được sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước và vai trò của Mặt trận phản đế trong sứ mệnh đoàn kết toàn dân đưa
cách mạng đến thắng lợi.
Phải đến Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản (7-1935), trước nguy cơ
của chủ nghĩa phátxít và chiến tranh thế giới mới, khi Quốc tế Cộng sản đã
nghiêm khắc tự phê bình về những sai lầm “tả” khuynh trong Nghị quyết Đại
hội VI của mình, thì những quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về cách mạng
Việt Nam, về đoàn kết các lực lượng cách mạng chống đế quốc đã trình bày
trong Cương lĩnh mới được Quốc tế Cộng sản thừa nhận.

Cuối tháng 9-1939, Quốc tế Cộng sản đã quyết định điều động Người về
công tác ở Đông Dương. Sau gần 30 năm xa Tổ quốc, ngày 28-1-1941 Hồ Chí
Minh vượt qua cột mốc 108 trên biên giới Việt - Trung về nước. Đây là điều
kiện thuận lợi để Hồ Chí Minh biến tư tưởng của mình thành sức mạnh quần
chúng đưa cách mạng đến thắng lợi.
Trên cơ sở tư tưởng về con dường cách mạng Việt Nam đã hình thành về
cơ bản, trong mấy năm đầu của những năm 1930, Hồ Chí Minh đã kiên trì giữ
vững quan điểm của mình, vượt qua khuynh hướng “tả” đang chi phối Quốc tế
Cộng sản, chi phối ban Chấp hành Trung ương Đảng, phát triển thành chiến lược
cách mạng giải phóng dân tộc, xác lập tư tưởng độc lập, tự do, dẫn đến thắng lợi
của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đã ra đời. Tun ngơn độc lập dp Hồ Chí Minh trịnh trọng cơng bố trước quốc
dân đơng bào và tồn thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hịa – Nhà nước của dân, do dân, vì dân đã khẳng định về mặt pháp lý quyền tự
do, độc lập của dân tộc Việt Nam. Đây là mốc lịch sử không chỉ đánh dấu kỷ
nguyên tự do, độc lập mà còn là nước phát triển mở rộng tư tưởng dân quyền và
nhân quyền của cách mạng tư sản thành quyền tự do, độc lập trên thế giới. Nhân
13


quyền Việt Nam nêu cao ý chí dể bảo vệ quyền tự do, độc lập của mình. Đó là
“Tất cả mọi người dân sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy,có quyền được
sống , quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”… Suy ra, câu ấy có ý nghĩa
là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
6.

Thời kỳ tiếp tục phát triển mới về tư tưởng kháng chiến và kiến quốc (1943
– 1969)

Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân ta
vừa tiế hành cuộc khánh chiến chống thực dân Pháp, vừa xây dựng chế độ dân
chủ nhân dân (1945 – 1954) mà đỉnh cao là chiến thắng Điện biên Phủ ; tiến
hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc. Thời kỳ này, tư tưởng Hồ Chí Minh có bước phát triển mới, trong đó
nổi bật là các nội dung lớn như sau:

-

Tư tưởng kết hợp kháng chiến với kiến quốc, tiến hành kháng chiến kết hợp với
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân; tiến hành đồng thời hai chiến lược cách
mạng khác nhau, đó là cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, thống nhất
Tổ quốc.

-

Tư tưởng chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính.

-

Xây dựng quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân và
vì dân.

-

Xây dựng Đảng Công snar với tư cách là một Đảng cầm quyền.
Trước thất bại của chiến tranh đặc biệt, năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển
sang chiến lược chiến tranh cục bộ. Chúng ào ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào
miền Nam, tăng cường chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân trên

miền Bắc, hòng khuất phục quân và dân ta. Trước hành động leo thang xâm lược
14


hết sức tàn bạo của đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng có thể đưa
50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược
ở miền Nam Việt Nam. Chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay, tăng cường
đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết khơng thể lay chuyển được chí khí sắt
đá, quyết tâm chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng. Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải
Phịng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam
quyết không sợ! Khơng có gì q hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân
dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, đồng bào và chiến sĩ cả nước phát huy
cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng giữ vững lòng tin tưởng tuyệt đối với
Người và Trung ương Đảng, nêu cao quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ.

Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta bản Di chúc thiêng liêng. Trong Di chúc, Người đã nói lên
niềm tin tất thắng vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước; tổng kết sâu sắc những bài
học đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam; đồng thời đề ra những
phương sách lớn để xây dựng lại đất nước sau chiến tranh nhằm thực hiện mục
tiêu: “Xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Di chúc là những lời căn dặn cuối cùng đầy nhiệt huyết, thắm đượm tình
người của Chủ tịch Hồ Chí Minh; một di sản tư tưởng vô cùng quý báu của dân
tộc và nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành, phát triển cùng chiều với quá trình
phát triển của xã hội Việt Nam và thời đại. Khi đã phát triển hoàn chỉnh về cơ
bản, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành cơ sở lý luận và thực tiễn cho đường lối


15


chính trị đúng đắn của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy tư tưởng Hồ Chí
Minh là tài sản tinh thần quý báu của dân tộc và nhân loại.

16


KẾT LUẬN

Từ những vấn đề nêu trên, ta nhận thấy Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên
trong hồn cảnh đất nước và thế giới có nhiều biến động. Khi đứng trước hồn
cảnh phức tạp, Người có tính nhạy cảm cao, cân nhắc, sáng tạo ra cái mới.
Trong quá trình tìm đường cứu nước. Là con người tiêu biểu cho tầng lớp nhân
dân yêu nước Việt Nam “trí – dũng song tồn”, Người cịn khiêm tốn tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu văn hóa dân tộc. Chính lịng u nước,
u dân tộc đã hình thành trong Người tư tưởng về một dân tộc độc lập và quyết
tâm tìm đường giải phóng dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ tư
tưởng u nước và một lịng muốn giải phóng dân tộc. Đó là cả một q trình
lâu dài. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tổng hòa của những điều kiện khách
quan và chủ quan, của truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân
loại. Cùng với thực tiễn dân tộc và thời đại được Hồ Chí Minh tổng kết, chuyển
hóa sắc sảo, tinh tế với một phương pháp khoa học biện chứng. Tư tưởng Hồ
Chí Minh đã trở thành tư tưởng Việt Nam hiện đại

17



TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh; nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội,
2011

2.

Hồ Chí Minh, tồn tập, nhà xuất bản Chính trị quốc gia ,Hà Nội, 2002

3.

Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đảng tồn tập , nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000

18



×