Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

pháp trị Hàn phi tử trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay TIỂU LUẬN CAO HỌC LỊCH sử tư TƯỞNG QUẢN lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.73 KB, 36 trang )

Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

MỞ ĐẦU
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia mà đại biểu
xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất
nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Nội dung cơ bản
của tư tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp
luật hà khắc để trị nước. Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong thời gian
ngắn vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
Bất cứ một xã hội nào từ cổ đại cho đến hiện đại muốn tồn tại và phát
triển được đều phải dựa vào các quy tắc chặt chẽ, rõ ràng của pháp luật. Pháp
luật luôn là điều cần thiết để duy trì sự ổn định xã hội chính vì vậy mà tư tưởng
Pháp trị của Hàn Phi Tử luôn được đánh giá cao ở mọi thời đại.
Hiện nay, trong giai đoạn toàn cầu hóa thì vấn đề cốt lõi đặt ra đó là xây
dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân, Để làm được điều đó cần phải có pháp luật nghiêm minh.
Trong quá trình xây dựng xã hội hiện nay, chúng ta nên tham khảo, tiếp
thu những hạt nhân tiến bộ của học thuyết này, như: đề cao pháp luật, coi pháp
luật như một tiêu chuẩn để phân biệt đúng sai; pháp luật phải phù hợp với đời
sống xã hội; và pháp luật phải được thi hành triệt để, nghiêm minh.

1

Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ
1.1.Hàn Phi Tử - Cuộc đời và tư tưởng:


1.1.1. Cuộc đời Hàn Phi Tử:
Hàn Phi sống cuối đời Chiến Quốc, trong giai đoạn Tần Thủy Hoàng đang
thống nhất Trung Hoa. Ông thuộc dòng dõi quý tộc nước Hàn (được gọi là
"công tử"), thích cái học "hình danh." - Gốc của học thuyết này là ở Hoàng Đế,
Lão Tử. Hàn Phi có tật nói ngọng, không biện luận khá nhưng giỏi về mặt viết
sách.
Trong bảy nước thời Chiến Quốc, tổ quốc của Hàn Phi “vốn là nước nhỏ,
phải chống sự công kích ở bốn phía, chúa nhục, tôi khổ” (Tồn Hàn, Hàn Phi
Tử). Làng giềng lại có cường Tần hung bạo nên tình hình đã khổ càng thêm khổ;
theo Hợp Tung thì bị Tần đánh, theo Liên Hoành lại bị các nước đánh. Hàn Phi
muốn phò vua Hàn nhưng không được trọng dụng, nhiều lần dâng kế sách
nhưng không được sử dụng. Ông nhận thấy vua Hàn “không sửa đổi làm rõ pháp
chế” sẽ tạo nên tình trạng các nhà nho dùng văn làm rối loạn pháp luật, còn hiệp
sĩ dùng võ phạm vào điều cấm.
Sau này Vua Tần thấy nhìn thấy sự tài hoa của Hàn Phi nên nhân lúc Vua
Hàn sai Hàn Phi đi sứ qua Tần đã mời Hàn phi ở lại Tần để giúp Thủy Hoàng
thực hiện việc thống nhất thiên ha. Nhưng Hàn Phi chỉ giúp vua Tần được ít lâu.
Vì vua Tần chưa tin dùng ông lắm, hoặc do Lý Tư ganh ghét không cho phép
ông tiếp cận vua Tần thường, hoặc do cả hai nguyên nhân. Lợi dụng việc Hàn
Phi là công tử nước Hàn, Lý Tư đã lập âm mưu hãm hại và cuối cùng vua Tần
đã ban Hàn Phi thuốc độc để tử tự.
Những tác phẩm của Hàn Phi:
Hàn Phi thương xót những người thanh liêm, chính trực không được bọn
tôi gian tà dung tha, nhìn những sự biến đổi tồn vong của các nước ngày xưa,
viết Cô Phẫn (sự phẫn nộ của con người cô độc), Ngũ Đố (năm thứ sâu mọt),
Nội Ngoại Trữ Thuyết (sưu tập những lời bàn về việc trong và việc ngoài),

2

Lớp: Cao học QLXH – K19



Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

Thuyết Làm, Thuyết Nan (cái khó trong việc du thuyết), tất cả hơn mười vạn
chữ. Ông cũng tổng hợp tư tưởng của các pháp gia trước ông, các nhà nghị luận
thời Chiến Quốc, mà viết bộ sách Hàn Phi Tứ.
1.1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng dùng Pháp Trị của Hàn Phi :
Lịch sử Trung Quốc đã từng kiểm nghiệm vai trò các học thuyết “Nhân
trị”, "Đức trị", "Vô vi trị", "Kiêm ái"... Song tất cả đều tỏ ra bất lực vì không đáp
ứng được yêu cầu thời cuộc. Vào lúc tưởng chừng bế tắc đó, học thuyết pháp trị
đã xuất hiện trên vũ đài lịch sử với tư cách là đường lối chiến lược chính trị lấy
pháp luật làm công cụ chủ yếu.
Trong qúa trình xây dựng học thuyết của mình, Hàn phi phê phán mạnh
mẽ lý thuyết chính trị của Nho Gia. Ông cho rằng cách cai trị dựa trên tinh thần
nhân đức của nhà cầm quyền là trái với thực tế và nếu áp dụng quan điểm đó sẽ
làm loạn đất nước. Đối với ông nền tảng của việc cai trị đất nước chính là sự chế
ước bản thân, một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính quyền sẽ tự nhiên mang
lại hòa bình và ổn định cho đất nước.
Hàn Phi quan niệm nhà vua cũng là người bình thường như bao người
khác, cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua nước đó ra sao mà
là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Then chốt của việc xây dựng đất nước
giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật, có pháp luật được thi hành một cách phổ
biến và đúng đắn thì xã hội mới được ổn định, là một tiền đề quan trọng để xây
dựng đất nước giàu mạnh cho dân chúng được yên bình hạnh phúc. Từ chỗ cho
rằng « Không có nước nào luôn luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn
yếu. Hễ những người thi hành pháp luật yếu thì nước yếu ». Vì những suy nghĩ
như vậy ông đã đề xuất tư tưởng « trị nước bằng pháp luật » với chủ trương «
luật pháp không phân biệt sang hèn ». Ông hết sức coi trọng pháp luật và cố
gắng xây dựng một lý luận hoàn chỉnh, trong đó lấy « Pháp » làm hạt nhân, và

kết hợp chặt chẽ với Pháp, Thế, Thuật.

3

Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

1.2. Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử:
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của tư tưởng pháp gia:
Học thuyết Pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều
thời kỳ bởi những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại,
Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử.
Người có công khởi xướng cho phái Pháp gia là phải kể đến Quản Trọng
(?-645 TCN), sống vào thời Xuân Thu, ông là tướng quốc của nước Tề. Tư
tưởng về pháp trị của Quản Trọng được ghi trong bộ Quản Tử, bao gồm 86 thiên
(còn lại), với những điểm chủ yếu:
1- Lời bàn luận không cao xa mà dễ thi hành.
2- Mục đích trị quốc là làm cho quốc phú, binh cường. Ông chú trọng
đến sự phú quốc vì "Kho lẫm đầy rồi mới biết lễ tiết, y thực đủ mới biết vinh
nhục".
3- Để cho quốc phú, binh cường ông có chủ trương “ngụ binh ư nông”
tức đem việc binh vào nghề nông.
4- Chủ trương phép trị nước phải đề cao "Luật, hình, lệnh, chính".
Luật là để định danh phận cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm,
Hình là để trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo
đường ngay lẽ phải.
5-


Trong khi đề cao luật pháp, cần chú trọng đến đạo đức, lễ, nghĩa,

liêm... trong phép trị nước
Sang nửa đầu thời kì Chiến Quốc, tiếp nối Quản Trọng là Thân Bất Hại
(401-337 TCN), là người gốc ở đất Kinh, nước Trịnh. Chuyên học về hình danh,
ông được vua nước Hàn dùng làm tướng quốc. Ông đưa ra chủ trương ly khai
"Đạo đức" chống "Lễ" và đề cao "Thuật" trong phép trị nước. Ông cho rằng
"Thuật" là cái "bí hiểm" của vua, theo đó nhà vua không được lộ ra cho kẻ bề tôi
biết là vua sáng suốt hay không, biết nhiều hay biết ít, yêu hay ghét mình... bởi
điều đó sẽ khiến bề tôi không thể đề phòng, nói dối và lừa gạt nhà vua
Cũng trong thời kì này, khác hẳn các tư tưởng khác của Pháp gia, Thận
Đáo

(370-290 TCN) thuần túy là một tư tưởng gia. Ông người nước Triệu và
4

Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

chịu ảnh hưởng một số tư tưởng triết học về đạo của Lão Tử, nhưng về chính trị
ông lại đề xướng đường lối trị nước bằng pháp luật. Thận Đáo cho rằng Pháp
luật phải khách quan như vật "vô vi" và điều đó loại trừ thiên kiến chủ quan,
riêng tư của người cầm quyền. Trong phép trị nước, đặc biệt Thận Đáo đề cao
vai trò của "Thế".
Ông cho rằng: "Người hiền mà chịu khuất kẻ bất tiếu là vì quyền thế nhẹ,
địa vị thấp: kẻ bất tiếu mà phục được người hiền vì quyền trọng vị cao”.
Một đại biểu khác của Pháp gia là Thương Ưởng (390-338 TCN). Ông
người nước Vệ, sau sang Tần và giúp vua Tần cải cách pháp luật hành chính và

kinh tế làm cho nước Tần trở nên hùng mạnh. Trong phép trị nước Thương
Ưởng đề cao "Pháp" theo nguyên tắc "Dĩ hình khử hình" (dùng hình phạt để trừ
bỏ hình phạm). Chủ trương của ông là pháp luật phải nghiêm, ban bố khắp trong
nước cho ai cũng biết, và từ trên xuống dưới ai cũng phải thi hành, không phân
biệt giai cấp; Pháp đã định rồi thì không ai được bàn ra bàn vào, không được
“dùng lời khéo mà làm hại pháp”.
Và cuối thời Chiến quốc, người có công tổng kết và hoàn thiện tư tưởng
trị nước của pháp gia đã kể trên là Hàn Phi (280-233 TCN). Ông người nước
Hàn, chủ trương đề cao vai trò của pháp trị. Theo ông, thời thế hoàn cảnh đã
thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn theo "đạo đức" của Nho, "Kiêm ái"
của Mặc, "Vô vi nhi trị" của Đạo gia như trước, mà cần phải dùng Pháp trị. Hàn
Phi đưa ra quan điểm tiến hóa về lịch sử, ông cho rằng lịch sử xã hội luôn trong
quá trình tiến hoá và trong mỗi thời kỳ lịch sử thì mỗi xã hội có những đặc điểm
dấu ấn riêng. Vì thế, không có một phương pháp cai trị vĩnh viễn, cũng như
không có một thứ pháp luật luôn luôn đúng trong hệ thống chính trị tồn tại hàng
ngàn năm. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng Pháp gia thành một
đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ.
1.2.2. Những tư tưởng cơ bản trong thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử:
Ba cơ sở của thuyết Pháp trị của Hàn Phi:
Một là, thừa nhận sự tồn tại của lý - tính quy luật hay những lực lượng
khách quan trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên xã hội. Ông
5

Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

yêu cầu con người phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biên hóa mà hành động
phù hợp.

Hai là, thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội. Do không có chế độ xã
hội nào bất di bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Theo
ông người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, dựa vào
đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách trị nước
sao cho thích hợp. Ông cho rằng không có thứ pháp luật nào là luôn luôn đúng
trong mọi thời đại mà nó luôn có sự thay đổi.
Ba là, thừa nhận bản tính con người là ác: do bản tính con người là ác và
trong xã hội người tốt thì ít, với nhiều kẻ xấu như vậy để xây dựng được một xã
hội bình yên không nên trong chờ vào số ít mong họ làm việc thiện mà phải xuất
phát từ số đông ngăn chặn không cho họ làm điều ác (thực hiện pháp trị)
Nội dung cơ bản trong của thuyết Pháp trị:
Nếu như trong phép trị nước Thận Đáo đề cao “Thế”, Thân Bất Hại đề
cao “Thuật”, Thương Ưởng đề cao “Pháp” thì học thuyết Pháp trị của Hàn Phi
lại coi trọng cả ba yếu tố Thế, Thuật, và Pháp. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải
thống nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó,
"Pháp" là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là
công cụ, phương tiện tạo nên sức mạn; còn "Thuật" là phương pháp cách thức để
thực hiện nội dung chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.
Đầu tiên ta sẽ tìm hiểu về Pháp, Pháp được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa
rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là chế độ chính trị xã hội của đất nước; Nghĩa
hẹp "Pháp" là những điều luật, luật lệ, những luật lệ mang tính nguyên tắc và
khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển tư tưởng Pháp trị của pháp gia thời trước, Hàn
Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh công bố ở các công sở, thưởng hay phạt đều
được dân tin chắc là thi hành, thưởng người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ
phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo Pháp". Tính cách của pháp luật theo Hàn Phi,
trên cơ sở chủ trương của Pháp gia, là vua tượng trưng cho quốc gia, nên vua
nắm hết uy quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuy vậy, khi lập pháp vua cũng
phải dựa trên những nguyên tắc chính như:
6


Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

1- Pháp luật phải hợp thời.
2- Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ hiểu, dễ thi hành.
3- Pháp luật phải công bằng.
4- Pháp luật có tính cách phổ biến.
Với Hàn Phi, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh
phận, phải trái, tốt, xấu, thiện, ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về
một mối, đều lấy pháp làm chuẩn, và mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
Chủ trương của Pháp gia là bậc vua chúa phải làm cho dân theo đúng
pháp luật, như vậy là nước trị.
Tiếp đến sau đó là Thế, Thế là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị.
Pháp gia cho rằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối
tôn trọng thi hành thì nhà vua phải có "Thế". Trọng Thế tức trọng sự cưỡng chế,
cho nên chủ trương:
1- Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người
là vua;
2- Vua phải được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm
cách mạng, không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là
bất trung.
3- Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương
tiện hiệu nghiệm nhất để cưỡng chế. Muốn cho nước trị thì vua chỉ cần dùng
thưởng phạt chứ không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc.
Hàn Phi cho cách thưởng phạt là mầm trị hay loạn của quốc gia, trong đó
dựa theo nguyên tắc: Thưởng thì phải tín, phạt thì phải tất; Thưởng thì phải
trọng hậu, phạt thì phải nặng; Sự thưởng phạt phải theo đúng phép nước, chí

công vô tư; Vua phải nắm hết quyền thưởng phạt.
"Thế" có vị trí quan trọng đến mức có thể thay thế được hiền nhân: "Chỉ
có bậc hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc
hiền vậy... "Thế" không chỉ là địa vị, quyền hành của vua mà còn là sức mạnh
của dân, của đất nước, của vận nước. Hàn Phi giải thích: "Cái ná yếu lại bắn
7

Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

được mũi tên lên cao là nhờ có "gió kích động", và nếu không có sự trợ giúp của
quần chúng thì làm sao kẻ kém tài lại cai trị được thiên hạ”.
Và cuối cùng là Thuật, thuật được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách
thức, mưu lược khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà
không hiểu người sai dùng họ như thế nào. Nhiệm vụ chính của thuật cai trị là
phân biệt quan lại trung thành, tận tâm và những quan lại ma giáo, thử năng lực
của họ kiểm tra công trạng và những sai lầm của họ với mục đích tăng cường bộ
máy cai trị trên cơ sở bộ máy luật pháp và chế độ chuyên chế.
Theo Hàn Phi “Thuật” có hai khía cạnh: kỹ thuật và tâm thuật. Kỹ thuật:
là phương án để tuyển, dùng, xét khả năng quan lại. Tâm thuật tức mưu mô để
chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm của họ ra.
Tâm thuật: có rất nhiều và thiên biến vạn hóa, thường không theo quy tắc
nào ngoài quy tắc gạt bỏ người sao cho có kết quả. Chẳng hạn như: Làm bộ như
ra lệnh và ra lệnh giả; Giấu điều mình biết rồi mà hỏi để biết thêm những điều
khác; Nói ngược lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người; Ngầm
hại những kẻ bề tôi mình không cảm hóa được.
Cũng như Tâm thuật, Kỹ thuật được Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là
thuật trừ gian và dùng người. Ông kể ra những hạng gian thần và có thể làm loạn

là: kẻ thân thích của vua và quần thần. Đó là hai hạng đều đánh vào tình cảm thị
dục, nhược điểm của vua để lung lạc, che giấu vua. Để ngăn cấm bọn đó, Pháp
gia chủ trương, vua phải: Không để lộ sự yêu thích, giận ghét của mình; Không
cho họ biết mưu tính của mình; Nếu không phải việc riêng thì không để họ tự ý
hành động, việc gì cũng phải hỏi mình trước; Bắt họ phải theo đúng luật mà
chính vua cũng phải theo đúng pháp luật trong việc thưởng phạt họ; Xem hành
động của họ có hợp với lời nói của họ không… Tìm kẻ gian thì khi một việc xảy
ra, hại cho nước hoặc cho người khác thì xét xem ai là kẻ có lợi. Muốn kiềm chế
hạng người có địa vị cao, trách nhiệm lớn thì:
1- Nếu là người hiền thì có thể bắt người thân yêu của họ làm con tin;
2- Nếu là kẻ tham lam thì cho họ tước lộc thật hậu để an định họ;

8

Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

3- Nếu là kẻ gian thì phải làm cho họ khốn khổ bằng cách trừng phạt.
Nếu dùng những cách đó mà vẫn không cảm hóa được họ thì phải trừ họ, bằng
cách mượn tay kẻ thù của họ hoặc đầu độc để mình không bị thương tổn danh
tiếng. Nhưng cách tốt nhất là không dùng những người không nên dùng để khỏi
phải đề phòng họ. Hàn Phi cho biết một số hạng người không nên dùng: Hạng
người coi khinh tước lộc, dễ dàng bỏ chức vụ mà đi nơi khác; Hạng đặt lời giả
dối trái pháp luật; Hạng người lánh đời, ở ẩn, chê bai vua; Hạng vì tư lời mà làm
thân các chư hầu; Hạng vì người thân quen mà làm việc riêng tư. Tuy nhiên Hàn
Phi cũng cho rằng có kẻ rất tài giỏi lại là gian thần, nếu vua có thuật để khống
chế họ thì vẫn có thể dùng.
"Thuật" còn thể hiện trong "thuật dùng người". Quy tắc cơ bản của thuật

dùng người theo Pháp gia là thuyết Hình danh và Chính Danh, Thực Danh.
Thuyết này là Pháp gia kế thừa từ Khổng Tử, và Phái Danh gia. Nhưng Hàn Phi
có óc thực tế, không bàn về tri thức luận mà đem học thuyết của Nho gia vào
chính trị, ông chỉ thu hẹp vào việc dùng người, gạt bỏ những vấn đề về đạo đức,
luân lí. Ở đây danh là lời nói và hình là việc thực hiện. Chẳng hạn như một
người hứa đến thăm ta, lời hứa đó là "Danh" và hành động tới thăm là "Hình"
hay "Thực" vậy. Nếu người đó đến thăm thực thì chứng tỏ danh và hình (hay
danh và thực) hợp nhau gọi là chính danh, ngược lại danh và thực nếu không
hợp nhau, tức là chỉ có danh mà không có hình hay không có thực nghĩa là
không chính danh, từ đó sẽ căn cứ thưởng phạt một cách nghiêm minh. Nếu
pháp luật là danh thì sự việc là hình, sự việc hợp pháp luật thì danh và thực hợp
nhau. Nếu quan vị là danh thì chức vụ là hình, chức vụ không hợp với quan vị
thì danh và hình không hợp nhau. Thuật phải nắm được cái cốt yếu là lấy danh
làm đầu, danh chính thì vật định, danh lệch thì vật đổi.Vua nắm lấy danh còn bề
tôi làm ra hình. Hàn Phi cho quy tắc hình và danh hợp nhau là quan trọng nhất
trong việc trị quan lại, nếu không theo thì sao có thể phân biệt được kẻ hay
người dở, người giỏi kẻ gian, khó thưởng phạt đúng được, như vậy nước khó mà
trị được.

9

Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

Ngoài các yếu tố "Pháp", "Thế", "Thuật", tư tưởng Pháp gia còn coi trọng
việc xây dựng quân đội hùng mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác.
Pháp gia cũng rất chú trọng phát triển nông nghiệp, tích trữ lương thực và của
cải làm cho đời sống của xã hội no đủ.

Như vậy, tư tưởng pháp trị đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng
Trung Quốc cổ đại. Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc
lúc bấy giờ đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới trong
đó tư tưởng về "Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được phát triển hoàn thiện vừa thống
nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân
phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao
nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được. Học
thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần Thủy Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa
nước Tần đến thành công trong việc thống nhất được đất nước Trung Quốc sau
những năm dài chiến tranh khốc liệt.

10

Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI
TỬ LÊN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
2.1. Ảnh hưởng tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử với xã hội phong kiến
Tư tưởng về đường lối trị nước là sự phản ánh ý chí, chủ trương của các
triều đại phong kiến trong lịch sử, đồng thời quyết định sự tồn vong của mỗi
triều đại. Trong lịch sử Việt Nam gắn với các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý,
Trần, tư tưởng về đường lối trị nước được hình thành và phát triển cùng với sự
hoàn thiện của bộ máy nhà nước phong kiến.
Nhà Trần đã để lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử dân tộc về lĩnh vực đấu
tranh bảo vệ đất nước, làm nên hào khí “Đông A” vẻ vang. Hào khí ấy thấm
đậm tinh thần Nho giáo được khởi nguồn từ “ý trời, lòng dân” trong Chiếu dời

đô và “chủ quyền quốc gia” trong Nam quốc sơn hà thời Lý, lại được tiếp sức
bởi đường lối đoàn kết toàn dân, xây dựng đội quân cha con hùng mạnh, tư
tưởng tôn trọng những giá trị thiêng liêng của con người và đặt ra những vấn đề
vinh nhục trong cuộc sống của nó dưới thời Trần.
Đường lối trị nước ở thời Trần so với thời Lý là một bước phát triển mạnh
mẽ. Đó không còn đơn thuần là đường lối “đức trị” với tinh thần “từ bi bác ái”
của nhà Phật như thời Lý, mà là đường lối kết hợp “đức trị” với “pháp trị” trên
tinh thần “đức chủ, pháp bổ”, đường lối “đức trị” giữ vị trí chủ đạo trong cách
cai trị của nhà Trần. Chỉ mấy năm sau khi lên ngôi, năm 1230 Lê Thái Tông đã
lập tức cho “khảo xét các luật lệ của triều trước soạn thành Quốc triều thông chế
và sửa đổi hình luật lễ nghi, gồm 20 quyển”. Đến đời Trần Dụ Tông, vua lại sai
Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn biên định bộ Hình thư. Đồng thời với
việc biên soạn luật pháp, nhà Trần còn quan tâm đến việc hoàn chỉnh các cơ
quan chuyên trách về tư pháp và thể lệ xét xử. So với thời Lý thì thời Trần có
bước phát triển hơn cả về việc biên soạn luật lẫn việc kiện toàn bộ máy pháp
luật. Ở trung ương, nhà Trần có cơ quan chuyên xét việc kiện tụng gọi là viện
Thẩm hình, ngoài ra còn có viện Đăng văn Kiểm pháp làm nhiệm vụ xét hỏi của
các cơ quan xét xử. Cùng với việc làm đó là sự tuyển chọn và bổ nhiệm những

11

Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

quan lại thanh liêm vào các cơ quan pháp luật. Những người được lựa chọn vào
làm việc ở các cơ quan luật pháp phải thông qua thi cử, trong đó có thi về hình
luật (thi thủ phân, hỏi về phép đối án).
Đường lối kết hợp đức trị với pháp trị từ nhà Trần đến nhà Lê sơ là một

bước phát triển mới trong lĩnh vực chính trị - xã hội so với các thời kỳ trước đó.
Nếu ở nhà Trần đường lối “đức trị” là chủ đạo có sự hỗ trợ của pháp luật thì đến
thời Lê sơ, vai trò của pháp luật đã được nâng lên ngang tầm với yếu tố đức trị.
Nói cách khác, đó là đường lối trị nước đức trị kết hợp với pháp trị theo đúng
nghĩa của nó. Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện thực tiễn cụ thể, có khi tư
tưởng pháp trị đã vượt lên và được đề cao hơn cả đức trị. Chẳng hạn, vua Lê
Thái Tổ khẳng định: “Từ xưa đến nay trị nước phải có pháp luật, không có pháp
luật thì sẽ loạn. Cho nên học tập đời xưa đặt ra pháp luật, để dạy các tướng hiệu,
quan lại, dưới đến dân chúng trăm họ, biết thế nào là thiện ác, điều thiện thì làm,
chẳng lành thì tránh, chớ để đến nỗi phạm pháp”. Chính vì vậy, ngay từ những
ngày đầu lên ngôi, việc lập pháp đã được vua Lê Thái Tổ đặc biệt chú trọng.
Năm 1428, ông đã “hạ lệnh cho các quan… bàn định pháp lệnh cai trị quân dân,
để người làm tướng biết phép trị quân, quan các lộ biết phép trị dân, cũng để răn
quân dân biết có pháp luật”.
Nổi bật trong đường lối pháp trị của Lê Thái Tổ là việc đề cao pháp luật
mà trọng tâm là việc thưởng phạt nghiêm minh. Hình phạt dưới thời Lê Thái Tổ
mặc dù chưa chặt chẽ, song, có thể nói là rất nghiêm khắc, bởi tình hình đất
nước khi đó hết sức phức tạp, chưa ổn định sau nhiều năm chiến tranh loạn lạc.
Bộ Quốc triều hình luật nổi tiếng được hoàn thành dưới triều đại của ông
và được sử dụng, kế thừa trong nhiều triều đại sau này với nội dung chủ yếu là
bảo vệ vương quyền, chế độ quan liêu, trật tự đẳng cấp và gia đình phụ hệ gia
trưởng thông qua cơ chế pháp luật. So với Hình thư của nhà Trần thì bộ Quốc
triều hình luật - Bộ luật Hồng Đức có sự phát triển cả về qui mô, nội dung, tính
nghiêm khắc lẫn tính thực tiễn của nó. Tuy nhiên, dù bộ Quốc triều hình luật là
bộ luật nghiêm khắc, song nó vẫn chứa đựng những yếu tố đạo đức như những

12

Lớp: Cao học QLXH – K19



Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

nguyên tắc nhân đạo, được vận dụng khi xử lý một số đối tượng, như phụ nữ,
người già, trẻ em, người tàn tật (các điều 1, 16, 17, 18, 19… của bộ luật).
Đường lối trị nước kết hợp giữa đức trị với pháp trị dưới thời Lê sơ được
các triều đại sau kế thừa. Nhà Mạc đã kế thừa gần như trọn vẹn các chủ trương,
đường lối của thời Lê Thánh Tông về tổ chức bộ máy nhà nước quan liêu cũng
như hệ thống giáo dục khoa cử của nó. (15)
Nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam ngay
từ khi nắm quyền cai trị đất nước, đã thực hiện sự độc tôn Nho giáo lần thứ hai,
thể hiện sự tiếp tục phát triển đường lối trị nước của nhà Lê sơ, bởi khi đó nhà
Nguyễn, đứng đầu là Nguyễn Ánh dù được người Pháp giúp đỡ lật đổ nhà Tây
Sơn, nhưng không vì thế mà học tập và xây dựng mô hình nhà nước phương
Tây. Việc Nguyễn Ánh ra lệnh cho các quần thần biên soạn bộ Hoàng triều luật
lệ (Luật Gia Long) trên cơ sở kế thừa Luật Hồng Đức và tham khảo luật lệ nhà
Thanh cho thấy ảnh hưởng của đường lối trị nước thời Lê sơ đối với triều
Nguyễn đến mức nào. Những thay đổi ở một số điều khoản của Luật Gia Long
so với Luật Hồng Đức cũng là điều dễ hiểu, bởi ý chí và chủ trương về đường
lối trị nước của bất kỳ triều đại nào cũng đều bị qui định bởi sự tồn tại của xã
hội và của chính triều đại đó.
Từ những điều trên, ta có thể thấy rằng, Việt Nam chịu ảnh hưởng các tư
tưởng từ Trung Hoa cổ đại, đặc biệt là tư tưởng Đức trị của Nho giáo, Pháp trị
của Hàn Phi Tử. Từ xa xưa, các vị vua đã thấy được ưu điểm của Pháp trị, biết
lấy Đức trị để khắc phục nhược điểm của Pháp trị, và đã sử dụng chúng một
cách tài tình trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Từ những điều này, đã tạo
ra những bước tiền đề tốt đẹp cho xã hội Việt Nam ngày nay.
2.2. Ảnh hưởng tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử với xã hội ngày nay:
2.2.1. Bối cảnh xã hội ngày nay:
Trải qua hàng ngàn năm vận động và phát triển, xã hội loài người có

nhiều bước biến chuyển đáng kinh ngạc. Từ khi khai thiên lập địa, con người từ
thời kỳ đồ đá, chuyển sang thời kỳ phong kiến, phong kiến suy vong rồi chủ
nghĩa tư bản ra đời, thống trị thế giới, và cuối cùng lại đến với xã hội chủ nghĩa.
13

Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

Mỗi thời kỳ xã hội, mỗi quá trình có những thành tựu và khó khăn nhất định, cái
mới đi lên thay thế cho cái cũ không phù hợp, tuy nhiên, những chân lý luôn
luôn tồn tại và được học hỏi không ngừng. Và Pháp gia của Hàn Phi Tử là một
trong những chân lý đó, mặc dù nó có những điểm không tích cực, nhưng nó
luôn được vận dụng trong mọi xã hội, đặc biệt là ngày hôm nay, trong thời đại
kinh tế thị trường. Pháp quyền không thể đặt bên cạnh các giá trị về tinh thần
như chân lý khoa học, sự tận thiện về đạo đứa hay kinh bổn của tôn giáp. Nó chỉ
có ý nghĩa tương đối, nội dung của nó một phần nào đó được quyết định bởi
những điều kiện kinh tế và xã hội luôn luôn biến đổi. Tuy nhiên, nó lại có ý
nghĩa to lớn trong việc ổn định xã hội. Khác với bối cảnh xã hội thời Hàn Phi Tử
- thời Xuân Thu – Chiến quốc, xã hội loạn lạc, việc phát hiện sắt đã tạo ra một
bước phát triển mới của loài người, đem đến sự phồn vinh về mặt kinh tế, tuy
nhiên điều đó tạo ra sự giao tranh giữa các vương triều lúc bấy giờ. Thời đại
ngày nay thì khác, không còn có sự thống trị của chế độ phong kiến, theo kinh
nghiệm của nhiều nước phát triển cho thấy nền kinh tế thị trường có ba trụ cột:
Nhà nước pháp quyền, thị trường và xã hội dân sự; đất nước phồn vinh, nhân
dân hạnh phúc phải dựa trên sự phát triển đồng bộ, hài hòa của cả ba trụ cột ấy.
Điều này cho thấy pháp luật rất quan trọng trong mọi thời đại.
Ngày nay, kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự tương thích của pháp luật quốc gia với các

không gian pháp lý có tính quốc tế đang đòi hỏi mỗi quốc gia phải đẩy mạnh
việc đổi mới công tác lập pháp. Bên cạnh đó, xã hội phát triển theo hướng tự do,
dân chủ, pháp luật càng đóng một vai trò quan trọng trong việc điều tiết các mối
quan hệ của xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội và mỗi cá nhân.
Điều này cho thấy, tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử không chỉ có ích cho
Trung Quốc trong khoảng thời gian đó, mà còn đem lại nhiều giá trị tư tưởng bổ
ích đến tận ngày hôm nay.

14

Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

2.2.2. Ảnh hưởng của Pháp trị lên đời sống xã hội ngày nay:
Qua thời gian, tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử đã cho thấy được những
điều tích cực cũng như những hạn chế, tồn tại. Tuy nhiên, những tư tưởng ấy
của ông đã góp phần đặt nên nền móng để xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện
nay, một thể chế nhà nước mà các nước đang hướng tới. Nhà nước pháp quyền
được xây dựng trên nền tảng của chế độ pháp trị.
Nhưng cũng phải nhận thấy rằng, chế độ pháp trị gắn liền với nhà nước
pháp quyền hiện nay có những khác biệt so với chế độ pháp trị theo tư tưởng của
Hàn Phi Tử. Theo tư tưởng Pháp trị của vị triết gia Trung Quốc cổ đại, pháp luật
chỉ là công cụ của Nhà nước, và nhà nước đứng trên pháp luật, có quyền ban
hành mọi thứ luật mà nhà nước đó muốn và cần để cai trị. Còn pháp trị gắn với
nhà nước pháp quyền thể hiện quan điểm là pháp luật cai trị chứ không phải con
người cai trị. Trong trường hợp này, không ai có thể đứng trên pháp luật, kể cả
Nhà nước.
Việc cai trị, điều hành đất nước theo tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử,

thông qua nhà nước pháp quyền hiện nay và thông qua hệ thống pháp luật, luôn
luôn chứa đựng cả những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực lên đời sống kinh tế, xã
hội hiện đại mà chúng ta sẽ xem xét sau đây.
* Những ảnh hưởng tích cực:
Thứ nhất, Pháp trị giúp củng cố quyền lực đồng thời hạn chế sự độc đoán
của nhà nước.
Nhà nước và pháp luật, hai thành tố của thượng tầng chính trị - pháp lý,
luôn có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời nhau. Nhà nước là một tổ
chức đặc biệt của quyền lực chính trị, những quyền lực đó chỉ có thể được triển
khai và phát huy có hiệu lực trên cơ sở của pháp luật. Pháp luật là hệ thống các
quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành, luôn phản ánh những quan điểm và đường
lối chính trị của lực lượng nắm quyền; và ngược lại pháp luật chỉ phát sinh, tồn
tại và có hiệu lực khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực Nhà nước.
Nhà nước quản lý xã hội bằng Pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật trên
quy mô toàn xã hội, đưa pháp luật vào đời sống của xã hội và của từng người
15

Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

dân. Một hệ thống pháp luật tốt (thể hiện qua tính toàn diện, tính thống nhất và
tính phù hợp) sẽ giúp Nhà nước quản lý tốt những vấn đề nảy sinh trong tất cả
các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, bắt kịp được với trình độ phát triển
kinh tế xã hội, phù hợp với các quan hệ xã hội. Một khi xã hội vận hành tốt
trong khuôn khổ hệ thống pháp luật ấy, vai trò, quyền lực của nhà nước sẽ được
tăng cường và củng cố. Ngoài ra, trong bối cảnh nước ta khi mà nhiều thế lực
thù địch tăng cường việc chống phá chế độ, phá hoại sự nghiệp xây dựng xã hội
chủ nghĩa như hiện nay thì phải cần đến sự nghiêm minh của pháp luật để ngăn

chặn và ngăn ngừa những hành động phá hoại đó.
Bên cạnh đó, pháp trị ngày nay gắn liền với nhà nước pháp quyền mà theo
đó, không có một ai kể cả Nhà nước, được đứng trên pháp luật. Hoạt động của
Nhà nước cũng phải chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật mà nó ban hành.
Điều này giúp kiểm soát những hoạt động của nhà nước.
Thứ hai, pháp luật hỗ trợ việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức và
định hướng ứng xử.
Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý Nhà nước hữu hiệu, mà còn
tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, lành mạnh hóa
đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới. Trong xã hội hiện
đại ngày nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật được đặt ra như một tất yếu
khách quan. Điều đó không chỉ nhằm để xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ
cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo vệ và phát triển các giá trị chân chính,
trong đó có ý thức đạo đức và hành vi ứng xử.
Giữa đạo đức và pháp luật luôn có mối quan hệ qua lại, tác động tương hỗ
lẫn nhau. Để nâng cao vai trò và phát triển ý thức đạo đức, ngoài các biện pháp
tích cực khác, thì không thể thiếu vai trò của pháp luật và ý thức pháp quyền.
Pháp luật càng chặt chẽ, càng đầy đủ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức
càng được đề cao, khả năng điều chỉnh và giáo dục của đạo đức càng được mở
rộng và ảnh hưởng một cách toàn diện, tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan
hệ giữa con người và con người, giữa con người với xã hội.

16

Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

Nền kinh tế thị trường đang lao đi với tốc độ chóng mặt, ngoài những điều

tích cực mang lại cho kinh tế - xã hội, thì nó còn kéo theo sự băng hoại, xuống
cấp về mặt đạo đức, hành vi ứng xử của một bộ phận không nhỏ người dân.
Trong một xã hội mà, ngoài những giá trị truyền thống, đồng tiền và lối sống
thực dụng đang được đề cao, thì sự suy đồi về mặt đạo đức là không thể tránh
khỏi. Vì đồng tiền, người ta sẵn sàng làm tất cả mọi thứ, bất chấp tất cả để có
được nó. Vì đồng tiền, tình cảm cha-con, anh-em, chồng-vợ, bạn bè, … bị đặt
xuống hàng thứ yếu, anh em dắt tranh giành đất đai phải dắt nhau ra tòa, bạn bè
vì tranh cãi vấn đề tiền bạc mà không nhìn mặt nhau nữa, …Quan hệ giữa con
người với nhau trong xã hội cũng bị hạ thấp đến mức báo động. Văn hóa ứng xử
nơi công cộng cũng bị lãng quên, người trẻ bất kính với người lớn đáng tuổi cha
tuổi chú mình; người ta sẵn sàng lao vào đấu đá nhau chỉ vì một mâu thuẫn nhỏ
ở trên đường, …Thậm chí còn nguy hại hơn, người ta ngày càng dửng dưng
trước nguy hiểm, trước sự an nguy tính mạng của đồng loại. Mới đây, đất nước
Trung Hoa đã phải chứng kiến hình ảnh một em bé gái hai tuổi gặp tai nạn nguy
hiểm đến tính mạng trước ánh mắt thờ ơ của nhiều người qua đường. Và cũng
chẳng cần phải nói đâu xa, ngay ở xã hội ta cũng đầy rẫy những chuyện như
vậy. Đó là, câu chuyện một người đàn ông trong lúc giằng co với tên cướp làm
túi tiền của mình quăng ra đường và ngay lập tức nhiều người đi đường thay
nhau “hôi của”; đó là câu chuyện một “hiệp sĩ” bắt cướp, sau khi quần nhau, tóm
gọn tên cướp, quay ra thì mới biết chiếc xe máy của mình đã “không cánh mà
bay”, …
Hành vi, ứng xử của con người là những vấn đề thuộc về phạm trù đạo
đức, thuộc về lương tri của mỗi người. Nhưng một khi đạo đức xuống cấp,
lương tri không còn sẽ dẫn đến một lối sống lệch lạc và vô cùng nguy hiểm. Thế
nên những hành vi, ứng xử này cần phải được luật hóa và quy định rõ ràng, kèm
theo những chế tài thích hợp để mang tính răn đe, buộc con người phải tuân theo
những quy tắc ứng xử đã được đề ra, dần dần góp phần củng cố những giá trị
đạo đức. Xin được dẫn chứng ra đây một ví dụ để thấy điều này là cần thiết, là
đòi hỏi của thực tế những năm qua; Điều 102 Bộ Luật Hình sự quy định “Người
17


Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có
điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh
cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm”.
Thứ ba, chế độ pháp trị là nền tảng của hòa bình, trật tự và công bằng
trong xã hội hiện đại.
- Xét trong phạm vi một quốc gia:
Các mối quan hệ xã hội rất đa dạng và vô cùng phức tạp liên quan đến
nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Trong nhịp sống hối hả ấy, con người cứ tất bật
lao đi và vì vậy sẽ vô tình hoặc cố ý giẫm đạp lên lợi ích của nhau, vượt qua
những chuẩn mực, những giới hạn mà xã hội đã đặt ra và gây ra tình trạng rối
loạn trong xã hội. Pháp luật sẽ quy định người ta được làm và không được làm
những gì, và đâu là giới hạn. Trong một xã hội mà hệ thống pháp luật vận hành
tốt, con người sẽ được đối xử bình đẳng với nhau, có những quyền lợi và nghĩa
vụ như nhau trước pháp luật.
- Xét trên bình diện quốc tế:
Sự xuất hiện của một hệ thống quốc tế dựa trên luật pháp đã tạo nên thế
cân bằng quan trọng trong các vấn đề toàn cầu. Việc tôn trọng và tuân thủ luật
pháp quốc tế đã giúp giữ gìn hòa bình và giải quyết xung đột. Luật pháp quốc tế
đã cho các quốc gia, không phân biệt địa vị chính trị, kinh tế hay quân sự, có
tiếng nói bình đẳng, loại bỏ việc sử dụng một cách bất hợp pháp vũ lực.
Mặc dù không thể phủ nhận rằng, với tiềm lực hùng mạnh về kinh tế, tài
chính, quân sự cũng như ảnh hưởng chính trị to lớn của mình, các cường quốc
như Hoa Kỳ, Trung Quốc,… đang cố gắng áp đặt, lèo lái cộng đồng quốc tế theo
đường lối của mình, và mặc dù ở một mức độ nhất định nào đó các nước này đã

thành công; nhưng cộng đồng quốc tế, thông qua các diễn đàn quốc tế đã góp
phần ngăn cản sự bành trướng, áp đặt của các quốc gia này. Chẳng hạn Trung
Quốc, vì những mưu lợi kinh tế-chính trị, muốn biến Biển Đông trở thành “sân
sau” của mình, liên tục gây bất ổn trong khu vực bất chấp những quy tắc ứng xử
về Biển Đông đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Rồi đến Hoa Kỳ, với sự

18

Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

hậu thuẫn của NATO, đã liên tục gây ra chiến tranh ở khắp nơi trên thế giới để
tìm kiếm các lợi ích kinh tế…
Việc tăng cường ảnh hưởng của các tổ chức quốc tế thông qua các diễn
đàn quốc tế, đảm bảo cho những nguyên tắc, luật lệ quốc tế được tôn trọng và
thực thi đầy đủ sẽ giúp tạo ra quy tắc ứng xử chung cho các nước, ngăn cản
tham vọng bá quyến, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của các cường quốc, tạo ra môi
trường bình đẳng cho tất cả các nước trong quan hệ quốc tế, góp phần duy trì
hòa bình và ổn định chính trị, xã hội trên thế giới.
Đó là trên phương diện chính trị, còn trong lĩnh vực thương mại, việc gia
nhập vào Tổ chức thương mại thế giới hay các liên kết kinh tế khu vực đã tạo ra
môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các nền kinh tế, giữa các doanh nghiệp
của các quốc gia thành viên.
Thứ tư, xét trong lĩnh vực kinh tế, hệ thống pháp luật giúp xây dựng và
bảo vệ các hoạt động, các mối quan hệ kinh tế.
Đứng trên góc độ doanh nghiệp, pháp luật quy định tất cả các doanh
nghiệp được quyền hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, được
quyền tiến hành những hoạt động mà pháp luật không cấm. Ngoài ra, để bảo vệ

các doanh nghiệp, luật pháp cũng quy định ngăn cấm các hoạt động cạnh tranh
không lành mạnh làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp khác. Từ đó, tạo ra môi
trường kinh doanh bình đẳng, khuyến khích các doanh nghiệp không ngừng mở
rộng hoạt động của mình.
Đứng trên góc độ người tiêu dùng, pháp luật có những quy định nhằm bảo
vệ quyền lợi của họ. Ở các nước phát triển, cùng với sự ra đời các Hiệp hội bảo
vệ quyền lợi của người tiêu dùng, Pháp luật có những quy định đầy đủ và chi tiết
về vấn đề này. Còn ở nước ta, chúng ta cũng dần dần cố gắng tiếp cận theo
hướng đi này.
* Những ảnh hưởng tiêu cực:
Thứ nhất, tình trạng lạm quyền, lợi dụng pháp luật:
Trong hình thức nhà nước pháp quyền mà nhiều nước trên thế giới hiện
nay đang hướng tới, pháp luật được đặt ở vị trí tối thượng và không có bất cứ
19

Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

một ai được đứng trên nó, kể cả Nhà nước. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho
Pháp luật một sự tôn trọng cao nhất và để tránh tình trạng lạm dụng pháp luật
của một bộ phận cán bộ, cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên trong thực tế, do nhận thức sai về điều này, cộng với sự thiếu
hiểu biết, e ngại pháp luật của một bộ phận người dân, đã dẫn đến tình trạng
nhiều cán bộ, cơ quan nhà nước hành xử vượt quá phạm vi quyền hạn của mình,
dùng pháp luật như một công cụ phục vụ cho những mục đích không chính
đáng. Đây là thực trạng mà hầu hết các nước gặp phải, từ các nước chậm và
đang phát triển cho tới các nước phát triển.
Và điều này cũng chính một trong những vấn đề nhức nhối của nước ta

trong những năm qua. Cùng với sự suy đồi về đạo đức, một số cán bộ đã lợi
dụng pháp luật như một công cụ để đe dọa nhân dân hay dùng vào mục đích
mưu cầu lợi ích cá nhân.
Thứ hai, pháp luật đôi khi mang tính áp đặt.
Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, và trong nhiều trường
hợp giai cấp cầm quyền không đại diện cho tất cả người dân. Ở nhiều nước trên
thế giới với sự tồn tại đồng thời của nhiều đảng phái chính trị, sự lên ngôi của
một đảng nào đó thường sẽ dẫn đến những thay đổi trong đường lối hoạt động
và ngay cả trong các chính sách pháp luật, phản ánh ý chí, nguyện vọng của một
bộ phận cầm quyền và những người ủng hộ và do đó cũng “bỏ rơi” một bộ phận
còn lại. Ngay cả ở Việt Nam chúng ta, mặc dù chỉ có một Đảng duy nhất được
thừa nhận nhưng không phải lúc nào những chính sách, văn bản pháp luật mà nó
ban hành cũng nhận được sự đồng tình từ tất cả người dân. Sự áp đặt của pháp
luật là tất yếu vì nó không thể phản ánh được nguyện vọng của tất cả người dân.
Thứ ba, cai trị đất nước đơn thuần bằng pháp luật, trong nhiều trường
hợp dẫn đến sự cứng nhắc và đôi khi không thể hiện tính nhân văn.
Trong một xã hội đề cao nguyên tắc sống và làm việc theo hiến pháp,
pháp luật thì tất cả mọi người phải hành xử dựa vào những quy định đã được đặt
ra. Những quy định này áp dụng cho tất cả mọi người, trong mọi trường hợp, và
như vậy nhiều khi sẽ dẫn đến những vận dụng cức nhắc, thiếu linh hoạt trong
20

Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

những tình huống cụ thể. Cùng là những tình huống và sự kiện giống nhau,
nhưng chịu tác động của những yếu tố khác nhau thì phải được xem xét riêng,
theo những cách thức không hoàn toàn giống nhau.Việc vận dụng pháp luật

trong thực tế mà không xem xét đến những yếu tố đó sẽ khó có thể tạo ra sự
thuyết phục và đồng tình từ dư luận.
2.3. Tư tưởng Pháp Trị của Hàn Phi - Những mặt tồn tại và giải pháp
2.3.1 Những mặt tồn tại của Pháp trị:
Pháp gia thất bại là do bản thân cách làm của Pháp gia (trong đó có Hàn
Phi) tồn tại nhiều điểm quá cực đoan:
1. Học thuyết của Hàn Phi thể hiện sự coi thường trí tuệ và sức mạnh
của nhân dân.
Nhưng học thuyết của Hàn Phi với nhãn quan của một đại quý tộc, đã thể
hiện một sự coi thường sâu sắc trí tuệ cũng như sức mạnh của nhân dân. Dân
không phải ngu xuẩn không biết lợi ích lâu dài mà không chịu ra sức làm công
trình công cộng, chỉ vì kẻ cầm quyền thường lấy việc công để làm lợi riêng. Học
thuyết của Hàn Phi xem con người là ai cũng vì mình, để khuyên vua không nên
tin người mà chỉ nên tin vào chính mình, tin vào quyền thế bản thân. Nhưng ở
khía cạnh khác, học thuyết của Hàn Phi dựa nhiều vào niềm tin, cụ thể là niềm
tin của dân vào tính công minh của pháp luật: theo phép công nhất định được
thưởng, trái pháp luật sẽ bị phạt. Cá nhân Hàn Phi có lẽ cũng đã quá tin vào
những người cầm quyền. Nhận biết lợi ích chung khác với lợi ích riêng, Hàn Phi
chỉ đề ra biện pháp uốn nắn tư lợi của người dưới, không đưa ra cách đề phòng
trường hợp kẻ làm vua dùng quyền thế phục vụ lợi ích riêng. Hàn Phi có lẽ tin
rằng, kẻ làm vua có trí tuệ nên ý thức được lợi ích lớn nhất của mình là đất nước
được giàu mạnh, không để dục vọng nhất thời làm hỏng lợi ích vĩnh viễn.
Như vậy là Hàn Phi đã quá đề cao kẻ cầm quyền, ông cho rằng con người
đều có ham muốn cá nhân, nhưng lại tuyệt đối tin vào kẻ làm vua, coi thường
nhân dân, chỉ có nhân dân mới tư lợi cho riêng bản thân mà không hề nghĩ rằng
bất cứ một ai cũng đều sẽ có bản tính này. Chính niềm tin mù quáng này đã
phần nào làm cho các bậc đế vương càng trở nên bạo tàn, dùng quyền thế để tư
21

Lớp: Cao học QLXH – K19



Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

lợi, để phục vụ cho lợi ích, ham muốn của riêng bản thân, bỏ qua lợi ích chung
của đất nước, của con dân, xem dân chúng là công cụ phục vụ cho nhu cầu của
riêng mình.
2. Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các
hình phạt nghiêm khắc.
Pháp gia quá nhấn mạnh đến biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ nhận tình
cảm đạo đức, thủ tiêu văn hóa giáo dục… là đi ngược lại xu hướng phát triển
của văn minh nhân loại.
Pháp gia cho rằng, ngoài pháp luật là chỗ dựa duy nhất để nhà vua tin cậy,
tất cả các quan hệ khác như: vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng… đều tuyệt đối
không thể tin tưởng và luôn phải cảnh giác. Mọi thứ tình cảm như sự kính trọng,
thủy chung, trung hiếu… đều không hề tồn tại, là huyễn hoặc xa vời. Đây là
một điểm hạn chế, vì rõ ràng trên thực tế những tình cảm này là hoàn toàn có tồn
tại.
Pháp trị cho rằng bản chất của con người vốn dĩ là tà ác, luôn tranh giành,
xâu xé lẫn nhau về lợi ích, cho nên những lời ca ngợi sự tin tưởng giữa con
người với con người đều là giả dối, ngây thơ, không đáng tin cậy. Vì vậy, chủ
trương dùng hình phạt nghiêm khắc để trừng phạt và răn đe được đặt lên hàng
đầu, bỏ qua tất cả những gì gọi là nhân đạo, tình người.
Với các nhà Pháp trị, pháp luật được đặt ở vị trí tối thượng và thực sự là
thứ đạo đức không có tình cảm. Tuy rằng hình phạt có tác dụng răn đe, nhưng
hình phạt quá hà khắc sẽ làm cho dân chúng oán kẻ cầm quyền, hình phạt càng
nặng bao nhiêu thì kẻ dưới càng oán kẻ trên nhiều bấy nhiêu. Để đến lúc hình
phạt làm cho dân chúng không còn chịu đựng được nữa thì họ sẽ vùng dậy
chống đối lại những kẻ cầm quyền. Trong lịch sử đã có trường hợp chứng minh
cho điều này, đế quốc Tần đã kết thúc do phong trào của Trần Thắng, Ngô

Quảng, Lưu Bang, cả ba người này đều do dẫn phu đi lao dịch không đến đúng
hạn, sợ bị quan quân nhà Tần trừng trị mà nổi dậy chống lại bạo Tần.

22

Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

3. Quan niệm về pháp luật của Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng
quá máy móc và cứng nhắc, hoàn toàn không có tính linh hoạt trong việc sử
dụng pháp luật.
Cứng nhắc ở đây được thể hiện ở chỗ, có công chắc chắn sẽ được thưởng,
còn có tội thì nhất định phải phạt, giữa thưởng và phạt, chú trọng sử dụng cưỡng
chế nhiều hơn. Sử dụng hình phạt một cách cứng nhắc, không tạo điều kiện cho
kẻ phạm tội có cơ hội sửa chữa, bù đắp cho tội lỗi của mình.
Trong xã hội tồn tại rất nhiều dạng người, do đó động cơ phạm tội của
mọi người không phải là hoàn toàn giống nhau. Có những người tâm địa xấu xa,
phạm tội vì lợi ích riêng cho bản thân, coi thường sức khỏe và sinh mạng của kẻ
khác, nhưng cũng có những người bản chất vốn không xấu, nhưng do hoàn cảnh
tác động, hoặc do quá trình trưởng thành không được chỉ dẫn điều hay lẽ phải,
lầm đường lạc lối, nếu như áp dụng cùng một loại hình phạt cho hai loại người
trên, thì đã làm mất đi tính công bằng được coi là nguyên tắc hàng đầu của Pháp
gia.
Pháp luật của Pháp gia đặt ra chỉ có một khuôn mẫu duy nhất, áp dụng
cho mọi đối tượng phạm tội không phân biệt cao thấp sang hèn. Về nguyên tắc,
điều này đã đảm bảo được tính công bằng của luật pháp. Nhưng trên thực tế, có
rất nhiều trường hợp khác nhau xảy ra, cùng một tội danh giết người, nhưng có
loại sẵn sàng giết người để chiếm đoạt tài sản, giết người diệt khẩu, thủ tiêu

nhân chứng, che giấu hành vi phạm tội của mình… nhưng cũng sẽ có người chỉ
giết người để tự vệ, để bảo vệ cho người thân… Việc áp dụng pháp luật và hình
phạt một cách cứng nhắc như trên, tuy rằng sẽ trừng phạt được kẻ xấu, có tác
dụng răn đe cho những người còn lại, nhưng sẽ có khả năng trách lầm người tốt,
bỏ qua nhân tài của đất nước, thậm chí gây nên oán hận trong lòng dân chúng, từ
đó dẫn đến khó khăn trong việc trị quốc.
4. Chính sách Pháp trị của Hàn Phi còn có nhược điểm là chưa xét một
cách đầy đủ nhu cầu của con người.
Hàn Phi nhận ra rằng con người có lòng ham muốn và thích hư danh,
nhưng ông đã hoàn toàn bỏ qua ảnh hưởng của các yếu tố còn lại. Hàn Phi xem
23

Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

động cơ hành động của con người chỉ bao gồm lòng hiếu lợi và thói hiếu danh.
Thực tế động lực của chúng ta còn bao gồm nhiều thứ khác. Nếu trong xã hội
tồn tại những kẻ bệnh hoạn giết người hàng loạt mà không có động cơ, vui
sướng trên sự đau đớn của đồng loại thì ngược lại, xã hội cũng tồn tại những
người vô cùng vị tha, nhiệt tình giúp người không đòi hỏi sự đền đáp. Cảm giác
hạnh phúc khi giúp đỡ người khác là một cảm giác mà người bình thường ai
cũng có. Nó xuất phát từ tình thương yêu đồng loại, từ ý muốn kết thân với đồng
loại, lưu tâm đến đồng loại, nghĩ đến họ cũng như đang tự nghĩ đến mình. Lòng
nhân từ là một tình cảm tự nhiên có ảnh hưởng đến hành động của chúng ta.
Đối với Hàn Phi, người dân trong lúc đất nước thịnh vượng chỉ cần được
ăn no, được sống yên ổn là đủ, người có học thì phải ra làm quan để giúp ích cho
đất nước. Vì thế Hàn Phi, về sản xuất chỉ coi trọng việc binh, nông, coi thường
công thương, kẻ sĩ có học nhưng không ra làm quan là kẻ sâu mọt làm hại đất

nước. Số lượng người có học vì vậy chỉ cần đủ để làm quan, dân hiếu học là
điềm mất nước. Chủ nghĩa thực dụng hẹp hòi này vì vậy không những không thể
phát triển toàn diện con người mà còn kiềm hãm khoa học phát triển. Tuy học
vấn phải được đưa ra ứng dụng nhưng người học cũng cần phải vươn lên khỏi
những cái ích lợi tầm thường trước mắt mới có thể đặt cho mình một căn bản
học vấn sâu rộng, từ đó mới mang đến cho nhân loại một sự ứng dụng lớn lao
hơn.
5. “Công bằng” trong Pháp trị của Hàn Phi chưa thật sự được gọi là
công bằng.
Theo quan niệm hiện đại, hàm nghĩa của “Pháp” có hai mặt tích cực và
tiêu cực. Tiêu cực được thể hiện ở chỗ có tính phòng ngừa, pháp đã quy định
sẵn, ttrường hợp phạm vào lệnh cấm nào, thì phảo chịu theo hình phạt ấy. Còn
về mặt tích cực, có những điều khoản bảo đảm quyền lợi chính đáng cho người
dân. Tuy nhiên, nhìn vào cái “Pháp” mà Hàn Phi luôn luôn nhấn mạnh, thì chỉ
có mặt tiêu cực. Nói cách khác, Pháp của Hàn Phi, chỉ có những điều do kẻ
thống trị đòi hỏi ở nhân dân, ngược lại, nhân dân chẳng có quyền đòi hỏi điều gì
ở kẻ thống trị.
24

Lớp: Cao học QLXH – K19


Đề tài: Pháp trị trong hoạt động quản lý xã hội ngày nay

Xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị nên nội hàm của khái niệm công
bằng theo Hàn Phi còn phiến diện và khác xa so với hiện nay bởi đó mới chỉ là
quy định công bằng trong phục tùng nghĩa vụ giữa các thành viên trong xã hội,
còn công bằng về quyền lợi chưa được đề cập đến. Do vậy mà pháp luật chỉ
được chú trọng đến quyền lợi của Nhà nước mà xem nhẹ quyền lợi của người
dân và các biện pháp chế tài cũng thường tuyệt đối hoá mặt trừng trị mà chưa

nhìn thấy một chức năng không kém phần quan trọng của pháp luật là giáo dục.
Trong tư tưởng của Hàn Phi, chữ Pháp hay gắn liền với chữ Cấm. Cái gọi
là Pháp đều là lệnh cấm, là những gì mà kẻ thống trị đòi hỏi một chiều ở người
dân, ai làm đúng với lệnh đó thì được thưởng, trái với lệnh đó là phải thọ phạt.
Thưởng và Phạt chính là hai cái cán, giúp cho kẻ thống trị kiểm soát, thậm chí
nô dịch nhân dân.
Hàn Phi cho rằng pháp luật là công cụ đắc lực và hiệu nghiệm nhất để duy
trì và củng cố quyền lực chính trị của nhà vua – công cụ của đế vương, chỗ dựa
vững chắc nhất để đảm bảo an toàn cho sự ngự trị của vua, nên theo ông, nhà
vua sáng suốt phải đặt pháp luật lên trên đức hạnh và trên cả người hiền.
2.3.2 Giải pháp khắc phục:
Pháp trị của Hàn Phi đề cao tính công bằng nhưng công bằng ở đây lại
không bao gồm thương dân, chủ yếu dùng luật pháp để củng cố địa vị của nhà
cầm quyền. Chính vì vây, kết hợp Đức trị - dùng đạo đức, với Pháp trị - dùng
pháp luật, để trị quốc là điều hết sức cần thiết không chỉ trong thời xưa mà còn
trong thời đại ngày nay.
Chính từ điểm hạn chế của Pháp trị là dùng hình phạt quá nghiêm khắc để
trừng phạt, răn đe, sử dụng kết hợp Đức trị sẽ giúp gạt bỏ điểm hạn chế này và
hoàn thiện hơn trong chính sách cai trị đất nước. Có công sẽ được thưởng, có tội
sẽ bị phạt là lẽ công bằng đương nhiên, nhưng việc áp dụng Đức trị trong các
hình thức xử phạt giúp cho nhà cầm quyền không chỉ răn đe được kẻ phạm tội
mà còn củng cố niềm tin của dân chúng, có tác dụng hướng thiện cho người lầm
đường lạc lối, tạo cho người có thiện chí một cơ hội thay đổi mình, sửa chữa sai
lầm, bù đắp tội lỗi đã gây ra.
25

Lớp: Cao học QLXH – K19



×