Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

tiểu luận cao học lịch sử báo chí Sự nghiệp báo chí và quá trình hoạt động báo chí của nhà thơ,nhà văn, nhà báo tản đà nguyễn khắc hiếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.73 KB, 21 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA BÁO CHÍ

Tiểu Luận
Lịch sử Báo chí Việt Nam
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Lê Thúy Hằng
Sinh viên: Trần Anh Phương
Khoa: Báo chí
Lớp: Báo Ảnh K30

Hà Nội ,ngày 28 tháng 12 năm 2012

1


Tiểu luận môn
Lịch sử báo chí Việt Nam.
*****

Đề bài: Sự nghiệp báo chí và quá trình hoạt động báo chí của
nhà thơ,nhà văn, nhà báo Tản Đà- Nguyễn Khắc Hiếu.
2

2


Tản Đà (1889-1939)

3

3




I. Lý do chọn đề tài:
Từ thuở sơ khai, khởi đầu của sự xuất hiện “báo chí” ở nước ta. Hàng
loạt tên tuổi những người làm báo nổi lên như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn
Vĩnh, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Thúc Kháng, Thúc Tề, Sương Nguyệt Anh,
Nguyễn An Ninh, Nguyễn Tường Tam, Lan Sơn v.v…Làng báo non trẻ của
nước ta đã đón nhận rất nhiều những nhà thơ tên tuổi đứng ra làm báo, người
tiêu biểu phải kể đến là Tản Đà- Nguyễn Khắc Hiếu.
Cuộc đời văn chương và thân thế của thi sĩ Tản Đà gồm nhiều giai thoại lý
thú đáng ghi nhớ. Trên văn đàn Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX , có lẽ Tản Đà là tác
giả chuyên nghiệp được giới nghiên cứu, sáng tác cũng như đông đảo đọc giả
bình thường tìm hiểu, phát biểu nhiều hơn ai hết. Theo tài liệu tham khảo, từ
những trang báo đầu tiên trên Đông Dương tạp chí ( 1917), Nam Phong (1918)của
Phạm Quỳnh, thì cho đến nay bài viết về Tản Đà xuất hiện không ít trên các tuần
báo, nguyệt san, tập san… trong và ngoài nước. Sách nghiên cứu về Tản Đà cũng
xuất hiện khá nhiều, chưa kể những trường hợp ông được đề cập trong các tác
phẩm văn học lịch sử, lý luận phê bình văn học,…
Mục đích của việc nghiên cứu sự nghiệp báo chí và quá trình hoạt động
báo chí của nhà thơ,nhà văn, nhà báo Tản Đà- Nguyễn Khắc Hiếu nhằm giúp
sinh viên báo chí tăng thêm lượng thông tin kiến thức về một trong những nhân
vật lịch sử có tầm ảnh hưởng đến nền báo chí và văn học Việt Nam. Giúp sinh
viên rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân, có cách nhìn nhận lại phong cách
làm báo của bản thân, rút kinh nghiệp từ nhân vật tìm hiểu.
Đối tượng nghiên cứu là nhà thơ, nhà báo Tản Đà.
Phạm vi nghiên cứu gồm sự nghiệp báo chí và quá trình hoạt động báo
chí của nhà thơ,nhà văn, nhà báo Tản Đà- Nguyễn Khắc Hiếu.

4


4


II. Giới thiệu về Tản Đà:
Tản Đà (1888–1939) tên thật Nguyễn Khắc Hiếu ,là một thi sĩ, văn sĩ,
kịch tác gia lãng mạn người Việt Nam. Trên văn đàn của văn học Việt Nam
trong hơn 3 thập niên đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng,
vừa độc đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tạo. Ông là một cây bút phóng khoáng,
xông xáo trên nhiều lĩnh vực, đi khắp miền đất nước, ông để lại nhiều tác phẩm
với nhiều thể loại. Ông đã từng làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp
chí.
Trong văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao
sáng, vừa độc đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tác. Ông là một cây bút phóng
khoáng, xông xáo trên nhiều lĩnh vực. Đi khắp miền đất nước, ông đã để lại
nhiều tác phẩm với nhiều thể loại. Ông đã từng làm chủ bút tạp chí Hữu
Thanh, An Nam tạp chí. Với những dòng thơ lãng mạn và ý tưởng ngông
nghênh, đậm cá tính, ông được đánh giá là người chuẩn bị cho sự ra đời của
thơ mới trong nền văn học Việt Nam, là "gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ
điển và hiện đại".
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu quê tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt,
tỉnh Sơn Tây (nay là xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội), nguyên quán
ở làng Lủ tức làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì thuộc phủ Thường Tín, tỉnh Hà
Đông (nay là phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội).
Ông thuộc dòng dõi quyền quý, có truyền thống khoa bảng. Tổ tiên ông
xưa kia có nhiều đời làm quan dưới triều Lê. Sau Gia Long lên ngôi, dòng họ
này thề sẽ không đi thi, không làm quan với tân triều. Đến thời cha ông là
Nguyễn Danh Kế ,do hoàn cảnh gia đình cực khổ, lại phải nuôi mẹ già, đành
lỗi ước với tổ tiên. Nguyễn Danh Kế thi đỗ cử nhân, làm quan cho triều
Nguyễn đến chức Ngự sử trong Kinh, giữ việc án lý, nổi tiếng là người có tài
văn án trong triều. Ông Kế vốn là người phong lưu tài tử, thường lui tới chốn

bình khang và quen với bà Lưu Thị Hiền .Bà là một đào hát tài sắc ở Hàng
Thao - Nam Định, bà lấy lẽ ông Nguyễn Danh Kế khi ông làm tri phủ Xuân
5

5


Trường (Nam Định). Bà là người hát hay, có tài làm thơ chữ Nôm. Tản Đà là
con trai út của cuộc lương duyên giữa tài tử và giai nhân này.
Trong những người anh em còn lại, có người anh ruột (cùng cha khác
mẹ) với Tản Đà là Nguyễn Tái Tích, là người có nhiều những ảnh hưởng to lớn
tới cuộc đời sau này của Tản Đà. Ông Tích sinh năm 1864, nối nghiệp cha đi
thi đỗ Phó bảng và ra làm quan. Ông là người thanh liêm chính trực, nên đường
hoạn lộ cũng không yên ổn, sau làm ở cục Tu thư, rồi Hiệu trưởng trường Tân
Quy, Đốc học Vĩnh Yên. Tản Đà từ nhỏ sống với ông, phải nhiều lần di chuyển
tới những nơi ông Tích được bổ nhiệm: Yên Mô - Ninh Bình, Vụ Bản - Nam
Định, Quảng Oai - Sơn Tây, Vĩnh Tường - Vĩnh Yên.
Thời niên thiếu của Tản Đà trải nhiều giai đoạn khóc cười. Năm lên 3
tuổi, bố mất, cuộc sống gia đình trở nên cùng túng. Năm sau, vì bất hoà với nhà
chồng, bà Nghiêm bỏ đi, trở lại nghề ca xướng. 8 năm sau, xảy ra chuyện chị
ruột ông cũng theo mẹ làm nghề đó (năm Tản Đà 13 tuổi). Những sự kiện đã
để lại nhiều dấu ấn khó phai trong tâm hồn.
Tản Đà hấp thụ nền Nho giáo từ nhỏ, được ông Tích nhiệt tình hướng
vào con đường cử nghiệp. Theo hồi ký trong 1 bài thơ thì 5 tuổi ông học Tam
tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi, Dương tiết,... 6 tuổi học Luận ngữ, kinh, truyện
và chữ quốc ngữ, 10 tuổi biết làm câu đối, 11 tuổi làm thơ văn. Ông rất thích
làm văn, lại được anh hết lòng chỉ dẫn, nên 14 tuổi đã thạo các lối từ, chương,
thi, phú. Lúc còn học ở trường Quy thức - một trường học thực nghiệm cải
cách của Pháp mở ở Hà Nội- , ông viết bài "Âu Á nhị châu hiện thế" bằngHán
văn, được các báo ở Hồng Kông đăng trong mục xã thuyết. Năm 15 tuổi, ông

đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn Tây.
Giai đoạn niên thiếu của Tản Đà phần lớn giành cho chuyện thi cử, đến
năm 19 tuổi, ông mới có những rung cảm tình ái đầu đời. Đó là mối tình với
con gái nhà tư sản Đỗ Thận. Năm sau ông lại yêu con gái ông tri huyện phủ
Vĩnh Tường. Nhưng 2 mối tình này đều không được trả lời.

6

6


Năm 1909 (Kỷ Dậu), ông tham dự kỳ thi hương ở Nam Định, rồi trượt
trong lần đi thi đầu tiên này. Ông về lại nhà ở Phủ Vĩnh Tường ôn tập. Trong
thời gian này, ông say mê một cô gái bán tạp hoá ở phố hàng Bồ. Vì nhà nghèo,
không có tiền hỏi cưới, ông đành nuôi hy vọng bằng cách tiếp tục đường khoa
cử. Kỳ thi xảy đến, ông dùng bằng Ấm sinh để thi hậu bổ, nhưng bị rớt vì môn
vấn đáp bằng tiếng Pháp. Mùa thu năm ấy, ông lại đi thi hương, nhưng lại
trượt. Chuyện tình với cô bán sách tan vỡ, cô đi lấy chồng. Ông chán nản bỏ về
Hòa Bình tìm khuây lãng. Tại đây nhờ sự giới thiệu của anh rể là nhà thơ trào
phúng Nguyễn Thiện Kế, Tản Đà kết giao với nhà tư sản Bạch Thái Bưởi. Hai
người bạn mới gặp đã như quen, cùng vào dãy Hương Sơn, ngọn Chùa Tiên,
đêm ngày uống rượu, làm thơ, đọc sách, thưởng trăng, sống theo lối "tịch cốc".
Lúc này lần đầu tiên ông đọc Tân thư, sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải
Siêu, tìm hiểu về cách mạng Tân Hợi. Nhiều bài thơ và tư tưởng đặc biệt của
ông ra đời trong giai đoạn này.
Năm 1913, anh cả Nguyễn Tài Tích mất. Tản Đà về Vĩnh Yên làm nghề
báo, tờ báo ông cộng tác đầu tiên là "Đông Dương tạp chí" của Nguyễn Văn
Vĩnh, phụ trách mục "Một lối văn nôm".
Đến năm 1915, ông lấy vợ là bà Nguyễn Thị Tùng, con gái ông Nguyễn
Mạnh Hương tri huyện ở tỉnh Hà Đông, trở thành anh em cột chèo với nhà

văn Phan Khôi. Ông Hương là thân sinh của nhà văn Nguyễn Tiến Lãng. Cũng
năm này ông có tác phẩm hay, đăng trên "Đông dương tạp chí", nhanh chóng
có được tiếng vang trên văn đàn. Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà là tên
ghép giữa núi Tản, sông Đà, và chính thức chọn con đường của một người viết
văn, làm báo chuyên nghiệp.
III. Quá trình hoạt động báo chí của Tản Đà:
Từ 1915 đến 1926 là những năm tháng đắc ý nhất của Tản Đà. Năm
1915, cuốn sách đầu tiên của Tản Đà được xuất bản, gây tiếng vang lớn, đó là
tập thơ "Khối tình con I".
Sau thành công đó, ông viết liền cuốn "Giấc mộng con" (cho in năm
7

7


1917) và một số vở tuồng: "Người cá", "Tây Thi", "Dương Quý Phi", "Thiên
Thai" (diễn lần đầu năm 1916 tại Hải Phòng).
Năm 1917, Phạm Quỳnh sáng lập ra "Nam Phong tạp chí" , và bài của
Tản Đà có trên tạp chí này từ số đầu tiên. Năm 1918, Phạm Quỳnh ca ngợi
cuốn "Khối tình con I" và phê phán cuốn "Giấc mộng con I", cả khen lẫn chê
đều dùng những lời lẽ sâu cay, biến Tản Đà trở thành một hiện tượng trên văn
đàn. Sau bài phê phán tư tưởng của "Giấc mộng con", Tản Đà thôi cộng tác với
Nam Phong tạp chí và mở một số cuộc hội đàm để chống lại những lời phê
phán đó, sự kiện này cũng được nhiều giới quan tâm.
Từ 1919 tới 1921, Tản Đà viết một loạt sách; truyện thì có "Thần tiền",
"Đàn bà Tàu" (1919); sách giáo khoa, luân lý thì có "Đài gương", "Lên sáu"
(1919), "Lên tám" (1920), thơ thì có tập "Còn chơi" (1921). Thời kỳ này ông
quen với một nhà tư sản nữa là ông Bùi Huy Tín, cùng nhau du lịch khắp Bắc,
Trung kỳ và làm chủ bút "Hữu thanh tạp chí" một thời gian.
Năm 1922, Tản Đà thành lập "Tản Đà thư điếm" (sau đổi thành "Tản Đà

thư cục"), đây là nhà xuất bản riêng đầu tiên của ông. Tại đây đã xuất và tái
bản hết những sách quan trọng trong sự nghiệp của Tản Đà; "Tản Đà tùng văn"
(tuyển cả thơ và văn xuôi, trong đó có truyện "Thề Non Nước", 1922); "Truyện
thế gian" tập I và II (1922), "Trần ai tri kỷ" (1924), "Quốc sử huấn nông
(1924), và tập "Thơ Tản Đà" (1925). Ngoài ra thư cục này còn cho xuất bản
sách của Ngô Tất Tố, Đoàn Tư Thuật.
Năm 38 tuổi (1926), Hữu Thanh tạp chí đình bản, Tản Đà cho ra đời "An
Nam tạp chí" số đầu tiên với tòa soạn ở phố Hàng Lọng. Sự ra đời của "An
Nam tạp chí", tờ báo mà Tản Đà dành hết tâm huyết, đã bắt đầu quãng đời lận
đận của ông.
Thời kỳ đầu làm chủ "An Nam tạp chí", Tản Đà chưa thiếu thốn nhiều,
ông thường đi du lịch: khi thì lên đề thơ ở núi Non Nước - Ninh Bình (bài Vịnh
hòn đá), khi thì vào trung kỳ thăm Phan Sào Nam, khi thì ở Sài Gòn gặp Diệp
Văn Kỳ, ra Bình Định thăm mộ cũ nhà Tây Sơn, về Hải Phòng sống với con
8

8


tướng Cần Vương đô thống Thuật. Ông vừa làm báo vừa đi chơi do đó tạp chí
"An Nam" cũng ra rải rác, thất thường. Dần dần, ông túng quẫn, những cuộc đi
là để trốn nợ hoặc giải sầu, hoặc là tìm người tài trợ cho báo.
Thời kỳ này ông viết cũng nhiều, các tập "Nhàn tưởng" (bút ký triết học,
1929), "Giấc mộng lớn" (tự truyện, 1929), "Khối tình con III" (in lại thơ cũ),
"Thề non nước" (truyện), "Giấc mộng con II" (truyện), lần lượt ra đời.
Năm 1931-1932, Tản Đà có cuộc bút chiến nổi tiếng với Phan Khôi về
luân lý và Tống Nho. Ông có câu nói đi vào lịch sử khi kết án Phan Khôi: "vu
hãm tiên hiền, loạn ngôn hoặc chúng, bại hoại phong quá" và đòi đem Phan
Khôi ra Văn Miếu quất roi vào đít.
Năm 1933, khi phong trào Thơ Mới đang nổi lên, thì "An Nam tạp chí"

của Tản Đà chính thức đình bản sau 3 lần đình bản và 3 lần tái bản. Sự kiện
này khi đó bị nhiều người thuộc phe "thơ mới" đem ra cười cợt, trong đó có Tú
Mỡ Hồ Trọng Hiếu, đã viết một bài "văn tế An Nam tạp chí" với lời lẽ xỏ lá.
Thời kỳ đầu của phong trào thơ mới, Tản Đà im lặng. Mãi đến năm 1934, ông
mới có một vài lời khuyên nhẹ nhàng gửi các nhà thơ Mới.
Tuy vậy, với vai trò là nhà thơ nổi tiếng nhất trong làng thơ cũ đương
thời, Tản Đà vẫn là một đối tượng chính để những người thuộc phe thơ mới tìm
cách đánh đổ. Tờ Phong hóa của Tự Lực văn đoàn rất hăng hái chê ông, chê
mọi thứ, từ tính nghiện rượu, nói nhiều lúc say, hay say, cho đến cái mũi ửng
đỏ của Tản Đà cũng bị chê nốt.
Do ảnh hưởng của phong trào Thơ Mới và phong trào theo Tân học, Tản
Đà, con người thuộc phe cựu học, làm thơ cũ đã dần dần trở nên cô độc. Tên
tuổi ông gần như bị đẩy lui vào dĩ vãng, nhường chỗ cho các nhà thơ mới:
Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư... Cộng với việc "An Nam tạp chí" đình bản
vĩnh viễn, cuộc sống của Tản Đà vốn nghèo túng lại càng trở nên thiếu thốn
hơn, phải chạy ngược chạy xuôi để kiếm sống. Có khi người ta thấy ông ở khu
Bạch Mai dạy chữ Nho. Có lúc ở Hà Đông, đăng quảng cáo lên mấy tờ báo:
"Nhận làm thuê các thứ văn vui, buồn, thường dùng trong xã hội - Tản Đà
9

9


Nguyễn Khắc Hiếu". Năm 1938, ông còn mở cả một phòng đoán số Hà Lạc để
xem bói.
a) Tản Đà trong thơ văn:

Từ thập niên 1920 cho đến nửa đầu thập niên 1930, văn đàn Việt Nam
không có một nhà thơ nào nổi tiếng và được yêu mến như Tản Đà. Kể cả khi
phong trào thơ mới xảy ra, thì Tản Đà, sau khi "phái thơ mới" bị đả kích kịch liệt

lại được chính những người đả kích mời về ngồi chiếu trên. Trong cuốn "Thi nhân
Việt Nam", cuốn sách bình luận thơ mới rất giá trị, Hoài Thanh và Hoài Chân đã
đặt bài tưởng niệm Tản Đà lên những trang đầu, với lời lẽ tôn kính.
Thơ cũng là lĩnh vực quan trọng nhất trong sự nghiệp phong phú của Tản
Đà. Ông được coi là một thi sĩ, hơn hết các nghề khác. Ông sáng tác rất nhiều
thơ, nhiều thể loại - cả về nội dung lẫn hình thức. Thơ ông hay diễn tả cảm giác
say sưa, chán ngán đời thực, đắm chìm trong cõi mộng, những mối tình với
người tri kỷ xa xôi, song cũng có những bài mang tính ẩn dụ, ngầm phê phán
hiện thực.
Thơ Tản Đà thường làm theo thể cổ phong, cũng có khi làm bằng Đường
luật, đường luật phá thể, lục bát, song thất lục bát. Ông còn có tài sáng tác thơ
dựa trên từ khúc, một hình thức âm nhạc của Trung Hoa, những bài "Tống
biệt", "Cảm thu tiễn thu" nhờ sự phá cách, phối hợp nhiều thể loại thơ, có thể
coi là cách tân về hình thức khá táo bạo. Một kiểu văn vần đặc biệt nữa mà ở
đó, Tản Đà được sánh ngang với Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Cao Bá
Quát..., là hát nói hay ca trù (nay được xem như một thể loại thơ). Hát nói của
Tản Đà thể hiện một triết lý sống phóng khoáng, một tâm hồn hay mơ mộng,
hoài cổ nhưng man mác nỗi sầu nhân thế.
Ngoài thơ tự sáng tác, thơ dịch của Tản Đà cũng được đánh giá rất cao.
Những bài thơ lục bát dịch từ thơ Đường của Tản Đà thường được cho là hay
hơn các bản dịch khác, có bài hay hơn cả nguyên tác, vì sự tự nhiên, không bị
gò bó mà chuyển tải cả tâm hồn mình vào đó. Ngoài thơ Đường, ông còn dịch
những bài thơ dài như Trường Hận ca, dịch ra thể Song thất lục bát, được đánh
10

10


giá rất cao, Bùi Giáng trong cuốn "Đi vào cõi thơ" tuy không đề cao thơ Tản
Đà nhưng gọi bản dịch này là "vô tiền khoáng hậu".

b) Con đường làm báo của Tản Đà:

Con đường đến với báo chí văn chương của Tản Đà là một sự lạ lùng.
Sống trong hoàn cảnh bần hàn nhưng cao vọng của Tản Đà là muốn đem tài
năng của mình thực hành để mong giúp ích cho văn chương xã hội và báo chí
nước nhà. Tuy chưa nổi tiếng trên văn đàn buổi đầu nhưng có những nhà văn,
nhà báo ở Hà Nội biết tiếng Tản Đà, thường mời tiên sinh hợp tác. Người bước
vào trường báo chí Việt Nam bằng thơ ca và những bài bút luận.
Chưa ra Hà Nội làm báo, nhưng liền trong mấy năm ở quê nhà Bất Bạt,
Tản Đà đã kịp gây dựng cho mình một lâu đài văn chương khá hoành tráng, mà
sau này vì vậy thanh thế người lẫy lừng.


Đông Dương tạp chí:

Đông Dương tạp chí ra số đầu tiên vào ngày 15 tháng 5 năm 1913 và
đình bản vào năm 1917. Cũng có nhiều tài liệu cho rằng số cuối cùng của tạp
chí được ra ngày 15 tháng 9 năm 1919, nhưng qua khảo cứu những số báo hiện
11

11


nay Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I còn lưu thì không thấy số báo nào của năm
1919. Đây là một phụ bản của tờ Lục Tỉnh tân văn (xuất bản ở Sài Gòn), ra vào
thứ 5 hàng tuần tại Hà Nội và phổ biến rộng ở Bắc kỳ và Trung kỳ.
Đông Dương tạp chí đã có những đóng góp không nhỏ trong việc tìm
cách phổ biến chữ Quốc ngữ trong mọi tầng lớp dân chúng. Đây cũng là tờ báo
đầu tiên mà Tản Đà tham gia với vai trò cộng tác.
Ngay từ những ngày đầu xâm lược Việt Nam, báo chí đã được

thực dân Pháp sử dụng như một công cụ phục vụ quá trình xâm lược của Pháp.
Lịch sử cũng như nội dung các báo thời kì này phản ánh rõ quá trình xâm lược
của thực dân Pháp cũng như vai trò phục vụ công cuộc xâm lược của báo chí.
Ví dụ ngay trong quá trình xâm lược Nam Kỳ, Pháp đã ra tờ Nam kì viễn chinh
công báo năm 1861. Đến năm 1865 sau khi ba tỉnh còn lại của Nam Kỳ bị thôn
tính thì tên báo được đổi là Nam Kỳ thuộc Pháp công báo và đến năm 1889,
khi nền thống trị của Pháp được xác lập trên toàn cõi Việt Nam thì báo lại được
đổi tên Đông Dương thuộc Pháp công báo...

12

12




Hữu Thanh tạp chí:

Số đầu tiên ra ngày 1.8.1921 tại Hà Nội, là cơ quan của Hội Bắc Kỳ
Công Thương Đồng nghiệp tức là Hội Ái hữu của các viên chức ngành thương
nghiệp và công nghiệp Bắc Kỳ, ra mỗi tháng hai kì, mỗi kì 60 trang. Chủ
nhiệm là Nguyễn Duy Hợi, sau là Trần Quang Huy rồi Nghiêm Vịnh; chủ bút
là Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu), vv. Tạp chí tuyên truyền tinh thần hữu ái, dành
một phần quan trọng cho văn học, khoa học, đăng nhiều bài về luân lí đạo đức;
dành nhiều trang để phản ánh hoạt động của hộ
Năm 1921, có người bạn xin được giấy phép ra tờ Hữu Thanh, Tản Đà
lúc này được mời làm chủ bút và chính thức bước vào làng báo khi đã ở tuổi
35.
Nửa năm làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, có lẽ bất đồng quan niệm với
người chủ nhiệm báo mà Tản Đà bỗng nhiên từ chức. Tòa soạn Hữu Thanh ai

cũng luyến tiếc, cố nài thi sĩ lưu lại nhưng ông một mực ra đi… Và trước khi
rời tòa báo, vẫn còn mấy câu thơ đăng lên báo tỏ tấm tình với bạn hữu:
13

13


Mới nửa năm trời báo Hữu Thanh
Biệt ly lai lãng xiết bao tình
Chút tình hữu ái không ly biệt
Tiếng gọi đàn xa núi Tản xanh.
Sau khi rời Hữu Thanh tạp chí, Tản Đà gắn bó với báo Đông Pháp trong
khoảng thời gian ngắn.


An Nam tạp chí:

Số đầu tiên ra ngày 1 tháng 7 năm 1926, Tản Đà làm chủ báo, thư ký tòa
soạn là Ngô Tất Tố. Tờ báo xem như gắn liền với sự nghiệp làm báo của Tản
Đà, song nó không hoạt động yên ổn như ý, cho đến ngày chính thức “chết”, tờ
báo đã trải qua ba lần đình bản. “An Nam tạp chí” đình bản lần đầu tiên vào
tháng 3 năm 1927, sau khi ra được 10 số. Sau đó, đến năm 1929, Tản Đà hợp
14

14


tác với một người ở Hàng Gai, cho tái bản tạp chí. Theo ông Lâm Tuyền
Khách, sự tái bản này là ý của người kia, ra tạp chí để có dịp thu nợ vì Tản Đà
nợ ông một món không dễ trả. Trên bìa “An Nam tạp chí” lúc ấy ghi Tản Đà là

“chủ sự”, còn ông nọ là “chủ nhân”. Cũng theo ông Lâm Tuyền Khách, còn
một lý do nữa là nếu ngày ấy An Nam tạp chí không tái bản thì sẽ bị thu giấy
phép. Lần tái bản này chỉ ra được vài số rồi lại đình bản. Đến tháng 4 năm
1931, “An Nam tạp chí” lại tái bản, lần này hoạt động đến ngày 1 tháng 3 năm
1933 thì đình bản vĩnh viễn vì lý do tài chính. Tản Đà là cây bút chủ lực của
“An Nam tạp chí”, cách làm báo của ông có thể coi là khá đặc biệt. Theo Lâm
Tuyền Khách, ban ngày ông không làm việc, chỉ uống rượu, nói chuyện hay
đọc sách, đến hai – ba giờ đêm ông mới trở dậy thắp đèn viết cho đến sáng.
Trong tờ báo nhiều khi độc giả thấy những bài viết đang liền mạch, tự nhiên bị
bỏ dở trong 1 thời gian dài mới thấy Tản Đà xuất hiện viết tiếp. Tờ “An Nam
tạp chí” tuy tổng cộng chỉ có 48 số, lại hoạt động thất thường, thiếu chuyên
nghiệp nhưng được coi là một trong những tờ đầu tiên có những đóng góp tích
cực vào sự phát triển của văn học Việt Nam thời cận đại theo khuynh hướng
hiện thực. Bên cạnh đó nó thể hiện một cách kín đáo lòng yêu nước của Tản
Đà, qua những bài tiểu luận, bài thơ đăng rải rác.
Làm báo chí là một phần trong sự nghiệp rất phong phú của Tản Đà.
Ông có phong cách làm báo đặc biệt, thường xuất hiện trong những cuộc bút
chiến với những giọng điệu khó lẫn. Từng là cộng tác viên cho “Nam Phong”,
sau đó do bất đồng với Phạm Quỳnh mà sang làm chủ bút cho “Hữu Thanh”.
An Nam tạp chí do Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu sáng lập năm 1926. Đây là tờ
tạp chí chuyên về văn học đầu tiên của Việt Nam, ngoài ra nó cũng giữ một kỷ
lục về số lần đình bản và tái xuất . An Nam tạp chí cổ vũ cho văn chương tiến
bộ và phong trào yêu nước. Tuy nhiên, tạp chí chỉ ra được chừng mươi số và
gây nhiều dấu ấn trong làng văn, làng báo yêu nước thì bị chính quyền thực
dân Pháp nhòm ngó và bị đình bản.
Đến năm 1930, ông cho tái bản An Nam tạp chí nhưng chỉ được hai số
15

15



thì lại bị đình bản. Tháng 4-1931, ông tái bản tạp chí nhưng lại nhanh chóng bị
đình bản… Như vậy, An Nam tạp chí có tới 6 lần xuất hiện và tái xuất - một kỷ
lục trong ngành in ấn, xuất bản Việt Nam.
Có thể nói sự nghiệp báo chí của Tản Đà, cũng như cuộc đời của ông,
thường gặp gian nan trắc trở. Song những đóng góp của ông trong thời buổi sơ
khai của báo chí Việt Nam, là một cái giá trị mà người ta phải công nhận.


Gia Định báo:

Gia Định báo là tờ báo đầu tiên bằng tiếng Việt mới (chữ Quốc ngữ),
được ra mắt vào ngày 15 tháng 4 năm 1865 tại Sài Gòn. Đây là phương tiện
truyền thông đầu tiên hoàn toàn mới mẻ, làm cho tiếng Việt mới có cơ hội phổ
biến trong dân chúng. Gia Định báo được phát hành số đầu tiên vào ngày
15.04.1965 , bên trên cùng có dòng chữ "REPUBLQUE FRANCAISE"(cộng
hòa Pháp), phía dưới là dòng chữ to in đậm GIA ĐỊNH BÁO. Thời gian
đầu, Gia Định báo ra mỗi tháng 1 kỳ vào ngày 15 hàng tháng. Sau báo ra
mỗi tháng 2 kỳ, rồi mỗi tuần 1 kỳ. Tuy ra mỗi tuần 1 kỳ, nhưng Gia Định báo
lại không có ngày ra cố định, khi thì thứ ba, thứ tư, lúc lại thứ bảy. Việc in ấn
16

16


Gia Định báo thường tập trung tại các dinh quan, khi ở dinh quan Thượng Lạt
ở Saigon, lúc ở dinh quan Hiệp lý Nam kỳ, hoặc ở các phòng thông ngôn
c) Vị trí của Tản Đà với nền báo chí Việt Nam

Tản Đà là nhà thơ sinh ra và lớn lên trong hòan cảnh đất nước đang

ở ngưỡng cửa những cao trào cách mạng kháng chiến chống Pháp sôi động và
có nhiều chuyển biến mới. Tính cách mê ẩm thực và say rượu lẫn say thơ của
ông đã để lại cho đời nhiều thị phi
Có thể nói, trong tư cách một người làm báo, Tản Đà đã hào phóng đem
cuộc đời báo chí của mình cung hiến cho hậu thế hàng loạt giai thoại. Thú vị
đấy, song cũng không ít điều đáng để lắng lại, ngẫm nghĩ.
Đầu thế kỷ XX, với sự xuất hiện của báo chí và nhà xuất bản trong đời
sống, viết văn viết báo đã trở thành một nghề - theo cái nghĩa là một công việc
để người ta có thể làm và nhờ đó mà tồn tại (điều này chưa từng xảy ra ở xã hội
Việt Nam trước đó). Tản Đà thuộc thế hệ những người làm văn làm báo đầu
tiên ấy.
Năm 1915, Tản Đà bắt đầu công bố tác phẩm trên Đông Dương tạp chí
của Nguyễn Văn Vĩnh, mở màn cho một cuộc đời "buôn văn bán chữ kiếm tiền
tiêu" đầy sóng gió.
Năm 1921, hội Bắc Kỳ công thương ái hữu thành lập, ra báo Hữu Thanh
làm cơ quan ngôn luận, Tản Đà được mời làm chủ bút. Nửa năm sau, do bất
đồng quan điểm với nhóm Nguyễn Huy Hợi và Nguyễn Mạnh Bổng, ông từ
chức chủ bút báo Hữu Thanh.
Năm 1926, Tản Đà mở An Nam tạp chí, tự lãnh vai trò chủ báo, mời
Ngô Tất Tố giữ chân thư ký toà soạn. Kể từ năm 1926 đến năm 1933, suốt bảy
năm ròng hầu như mọi hoạt động của Tản Đà đều dồn vào việc xuất bản, tái
bản An Nam tạp chí.
Ông chăm chút, tâm huyết với tờ báo, đương nhiên, nhưng theo cách
riêng của ông, vì thế mà nó long đong tới sáu lần đình bản, đến lần thứ sáu
(năm 1933) thì thật sự cáo chung: Tản Đà chấm dứt đời chủ báo!
17

17



Trong bài báo có tên "Người làm văn" in trên Đông Pháp thời báo (số
641, năm 1927), Tản Đà viết: "Các báo quán đã là một đạo quân tiên phong
trong trận tiến thủ của xã hội, thời phàm các người viết văn trong báo giới đều
là một tên lính ở trong đội tiên phong. Oai nghiêm thay! Hùng dũng thay! Một
ngọn bút sắt tung hoành có quan hệ đến vận hội của đồng bào hai mươi lăm
triệu".
Rải rác ở nhiều bài thơ, bài hát nói, Tản Đà cũng thường khẳng định
trách nhiệm to lớn của báo chí đối với đời sống, đối với nhân quần. Rõ ràng,
mang cao vọng trở thành một "Á châu Khổng phu tử chi đồ", lập một sự
nghiệp văn chương "có bóng mây hơi nước đến dân xã", làm báo với Tản Đà
không đơn giản chỉ là việc "nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng".
Thế nhưng, để tờ báo có thể thực hiện được trọng trách xã hội như ông
hằng kỳ vọng, trước hết nó phải không bị chết yểu. Mà muốn tờ báo không bị
chết yểu, người chủ báo trước hết phải biết và phải giải được những con toán
đơn giản về cân đối nguồn thu nguồn chi (tiền), rồi nguồn bài vở để báo ra đều
kỳ. Tản Đà có làm được điều đó không?
Trong "Giấc mộng lớn", Tản Đà kể lại về tình cảnh của An Nam tạp chí
trước khi bị đình bản lần đầu tiên: "Tiền ăn tiêu hàng tháng không có sổ chi
tiêu, một là tạp chí về công việc tòa báo, hai là nuôi người nhà làm, ba là cung
tiếp tân khách, lại bằng khi phóng phiếm vô ích, mỗi tháng không biết là bao
nhiêu? Vì mỗi tháng không biết bao nhiêu tiền chi tiêu, cho nên không bao lâu
mà tòa tạp chí An Nam lại như thể cái thành bị vây vậy".
Ngô Tất Tố, người cùng chèo chống con thuyền An Nam tạp chí với Tản
Đà qua bao sóng gió cũng xác nhận: "Trong những cái khác người của ông Tản
Đà, đức tiêu tiền cũng nên để ngang với tài thơ và tài rượu" (Tản Đà ở Nam Kỳ
- Tao Đàn, 1939).
Cũng trong bài viết ngay sau khi Tản Đà qua đời này, Ngô Tất Tố cho
biết thêm: "Đành rằng nếu không có rượu thì ông Tản Đà sẽ không phải là ông
Tản Đà, nhưng trong khi nó làm cho ông Tản Đà thành ông Tản Đà, chính nó
18


18


cũng là thủ phạm làm cho An Nam tạp chí không có bài đưa nhà in. Bấy giờ An
Nam tạp chí xuất bản mỗi tháng hai kỳ, nhưng mấy tháng sau nó đã đảo lại:
mỗi kỳ hai tháng".
Bấy nhiêu chi tiết đó có lẽ đã đủ để hình dung về cung cách Tản Đà quản
lý và vận hành tờ An Nam tạp chí trong vai trò của một ông chủ báo. Và nó cắt
nghĩa cho ta hiểu, tại sao trong sáu lần An Nam tạp chí đình bản, duy có lần
đầu tiên là bị đình bản (vì bài viết "Một cuộc chiến tranh người An Nam khởi
đầu từ năm Đinh Mão" - ANTC số 10 năm 1926).
Những lần còn lại đều là tự đình bản. Vì thiếu tiền. Vì Tản Đà đã quản lý
tờ báo, đã làm báo với sự lãng mạn còn lớn hơn sự lãng mạn mà một thi sĩ cần
phải có để trở thành một thi sĩ.
Thật ra, dự phần vào số phận ba chìm bảy nổi của An Nam tạp chí, ngoài
cái cách quản lý trên mây trên gió của ông chủ báo, ngoài lối làm việc ngật
ngưỡng, tuỳ hứng và tuỳ tiện của Tản Đà "thi sĩ tửu đồ" - một Epicurien (người
tôn thờ chủ nghĩa khoái lạc) theo cách nói của Trương Tửu về Tản Đà, còn có
một nguyên nhân nằm ở phần nền của mọi chuyện: Tản Đà vốn là một nhà Nho
từ trong căn cốt.

19

19


IV. Bài học kinh nghiệm:
Tản Đà- Nguyễn Khắc Hiếu sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đất nước
đang trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Cơ duyên của ông với văn chương

gặp nhiều trắc trở. Là một thi sĩ tiếng tăm nhưng lại viết báo , làm chủ bút
không thành công. Với tư cách người viết báo, những tòa soạn ông đã tham gia
như :Gia Định báo, An Nam tạp chí, báo Hữu Thanh,… chiếm giá trị quan
trọng trong nền báo chí Việt Nam đương thời., viết trên nhiều chuyên mục
trong suốt hai thập niên. Vì thế, Tản Đà không xa lạ với thời sự của đời thường
và ông không ngần ngại chĩa ngòi bút thơ đả kích vào những lối sống, cách
hành xử lố lăng, kệch cỡm của các quan lại phong kiến cao cấp lúc đó, như: Từ
Đạm (tuần phủ Ninh Bình), Đào Trọng Vận (tuần phủ Vĩnh Yên)... Tản Đà từ
lúc làm thơ cho đến khi viết báo, ông không giấu “cái tôi ngông” của mình, nó
như một thứ sức mạnh để ông dám viết về những vấn đề khó của xã hội mà
không ai dám nói đến. Một nhà báo dám nghĩ, dám làm, dám viết lên mà không
sợ bị đe dọa. Đây chính là điều mà những nhà báo trẻ như chúng tôi cần học
hỏi.
Trong cuộc sống hiện đại, đôi khi con người ta quá thèm khát ảo vọng
và làm mất đi những giá trị đích thực của bản thân. Báo chí là nơi để phát triển
định hướng tư tưởng truyền đạt hiệu quả nhất. Khi tìm hiểu về Tản Đà, tôi cảm
thấy mình cần phải dũng cảm hơn nữa để đương đầu với nghề báo. Nghề báo
không đơn thuần là đưa tin về một vấn đề, nghề báo còn là nơi để phản ánh mặt
trái của xã hội. Lên án và chỉ trích tiêu cực giúp cho xã hội được “thanh lọc” và
trở nên tốt đẹp hơn.
Tâm huyết của Tản Đả với Nam Phong tạp chí khiến nhiều người
ngưỡng mộ nhưng có lẽ cái duyên đã chưa đến với ông. Sau nhiều lần đình bản
và tái bản, vấn đề của báo chính là tài chính. Việc cân bằng tài chính chiếm vị
trí rất quan trong để duy trì sự tồn tại của tòa soạn. Tản Đà tuy có cái tâm với
nghề nhưng ông lại chưa có sự nhạy bén trong quản lý tòa soạn của mình,
chính vì vậy An Nam tạp chí mắc phải “đường cùng”. Đó cũng là một bài học
quý báu của những nhà báo tương lai.
20

20



21

21


MỤC LỤC

22

22



×