Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Đề án phát triển hàng hóa trong nông nghiệp và nông thôn hiện nay và các giải pháp.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.37 KB, 32 trang )

ĐỀ ÁN
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀNG
HOÁ TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN HIỆN NAY.
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương I : Những vấn đề lý luận về kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp.
Kinh tế nông thôn.
Khái niệm.
Đặc điểm.
Kinh tế hàng hoá trong khu vực nông thôn.
Kinh tế hàng hoá.
Khái niệm, điều kiện ra đời và tồn tại.
Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá.
Ý nghóa của phát triển kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp.
Chỉ tiêu đánh giá trình độ sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp.
Các nhân tố chủ yếu ảnh hưỡng đến trình độ sản xuất hàng hoá trong nông
nghiệp.
Vai trò của kinh tế nông thôn trong nền kinh tế quốc dân.
Xu hướng phát triển của kinh tế hàng hoá khu vực nông thôn.
Chương II : Thực trạng phát triển kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp
và nông thôn những năm qua ở nước ta.
2.1. Thành tựu và hạn chế của phát triển kinh tế hàng hoá ở khu vực nông
nghiệp nông thôn trong thời gian qua.
2.2. Thuận lợi và khó khăn trong phát triển kinh tế hàng hoá ở khu vực
nông nghiệp nông thôn nước ta.
Chương III : Giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế hàng hóa trong nông
nghiệp, nông thôn.
Quá trình hinh thành quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế hàng hoá ở
khu vực nông nghiệp nông thôn.
3.2 Các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp
nông thôn hiện nay.


Kết luận
Chương I:
Những lý luận về kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp nông
thôn.
Kinh tế nông thôn :
Khái niệm :
Nông nghiệp là một trong những ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế
quốc dân,là một bộ phận trọng yếu của tái sản suất xã hội.
Sản xuất nông nghiệp hiểu theo nghóa rộng có :trồng trọt,chăn nuôi,thuỷ
sản và lâm nghiệp.
Trồng trọt bao gồm việc sản xuất cây lương thực,cây công nghiệp,cây ăn
quả,rau,cây thức ăn gia súc và cây thuốc …
Chăn nuôi bao gồm việc chăn nuôi đại gia súc,gia cầm và các vật nuôi
khác.
Thuỷ sản bao gồm việc nuôi trồng và khai thác nguồn động thực vật thuỷ
sinh trong môi trường nước mặn,nước lợ và nùc ngọt.
Lâm nghiệp bao gồm việc bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên thực vật
và động rừng – cho gỗ và những sản phẩm ngoài gỗ.
Trong nông nghiệp,việc tái sản xuất sản phẩm không chỉ gắn liền với các
quá triình kinh tế, xã hội mà còn gắn với các quá trình tự nhiên của sinh vật và
môi trøng sống của nó.
Đặc điểm :
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội.
Sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm riêng mà các ngành sản xuất khác
không thể có đó là:
1- Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên đòa bàn rộng lớn, phức tạp,
phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên mang tính khu vực rõ rệt. Đặc điểm trên cho
thấy ở đâu có đất và lao động thì có thể tiến hành sản xuất nông nghiệp. Thế
nhưng ở mỗi vùng, mỗi quốc gia có điều kiện đất đai và thời tiết - khí hậu rất khác
nhau. đã làm cho nông nghiệp mang tính khu vực rất rõ nét.

2- Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay
thế được Ruộng đất bò giới hạn về mặt diện tích,do đó con người không thể tăng
lên theo ý muốn chủ quan, nhưng sức sản xuất ruống đất là không có giới hạn,
nghóa là con người có thể khai thác chiều sâu của ruộng đất nhằm thoả mãn nhu
cầu tăng lên của mình về nông sản phẩm.
3- Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cơ thể sống: cây trồng và vật
nuôi. Các loại cây trồng và vật nuôi phát triển theo qui luật sinh học nhất đònh
(sinh trưởng, phát triển và diệt vong). Chúng rất nhạy cảm với yếu tố ngoại
cảnh,vì thế mọi sự thay đổi về điều kiện thời tiết, khí hậu đều tác động trực tiếp
đến sự phát triển và diệt vong của cây trồng, vật nuôi,tác động đến kết quả thu
hoạch sản phẩm cuối cùng. Cây trồng và vật nuôi với tư cách là tư liệu sản xuất
đặc biệt được sản xuất trong bản thân nông nghiệp bằng cách sử dụng trực tiếp sản
phẩm thu được ở chu trình sản xuất trước làm tư liệu sản xuất cho chu trình sản
xuất sau. Để chất lượng giống cây trồng và vật nuôi tốt hơn, đòi hỏi phải thường
xuyên chọn lọc, bồi dục các giống hiện có, nhập nội những giống tốt, tiến hành lai
tạo để tạo ra những giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt thích hợp với điều
kiện từng vùng và từng đòa phương.
4- Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao. Đó là nét đặc thù điển hình
nhất của sản xuất nông nghiệp, bởi vì một mặt của quá trình sản xuất nông nghiệp
là quá trình tái sản xuất kinh tế kết hợp với quá trình tái sản xuất tự nhiên, thời
gian hoạt động và thời gian sản xuất xen kẽ vào nhau, song lại không hoàn toàn
trùng hợp nhau, sinh ra tính thời vụ cao trong nông nghiệp. Tính thời vụ trong nông
nghiệp là tất yếu không thể xoá bỏ được, trong quá trình sản xuất chỉ tìm cách hạn
chế nó. Mặt khác do sự thay đổi về điều kiện thời tiết - khí hậu, mỗi loại cây trồng
có sự thích ứng nhất đònh với điều kiện đó, dẫn đến những mùa vụ khác nhau.Như
vậy, tính thời vụ có tác động rất quan trọng đối với nông dân. Tạo hoá đã cung cấp
nhiều yếu tố đầu vào thiết yếu cho nông nghiệp, như: ánh sáng, ôn độ, độ ẩm,
lượng mưa, không khí. Lợi thế tự nhiên đã ưu ái rất lớn cho con người, nếu biết lợi
dụng hợp lý có thể sản xuất ra những nông sản với chi phí thấp chất lượng. Để
khai thác và lợi dụng nhiều nhất tặng vật của thiên nhiên đối với nông nghiệp đòi

hỏi phải thực hiện nghiêm khắc những khâu công việc ở thời vụ tốt nhất như thời
vụ gieo trồng, bón phân, làm cỏ, tưới tiêu v.v Việc thực hiện kòp thời vụ cũng
dẫn đến tình trạng căng thẳng về lao động đòi hỏi phải có giải pháp tổ chức lao
động hợp lý, cung ứng vật tư - kỹ thuật kòp thời, trang bò công cụ, máy móc thích
hợp, đồng thời phải coi trọng việc bố trí cây trồng hợp lý, phát triển ngành nghề
dòch vụ, tạo thêm việc làm ở những thời kỳ nông nhàn.
Ngoài những đặc điểm chung của sản xuất nông nghiệp nêu trên,nông
nghiệp nước ta còn có những đặc điểm riêng cần chú ý đó là:
Nông nghiệp nước ta đang từ tình trạng lạc hậu,tiến lên xây dựng nền nông
nghiệp sản xuất hàng hoá theo đònh hùng XHCN không qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghóa.Đặc điểm này cho thấy xuất phát điểm của nền nông nghiệp
nứoc ta khi chuyển lên xây dựng,phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá là
rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới.Đến nay nhiều nước có nền
kinh tế phát triển, nông nghiệp đã đạt trình độ sản xuất hàng hoá cao, nhiều khâu
công việc được thực hiện bằng máy móc, một số loại cây con chủ yếu được thực
hiện cơ giới hoá tổng hợp hoặc tự động hoá. Năng suất ruộng đất và năng suất lao
động đạt trình độ cao, tạo ra sự phân công lao động sâu sắc trong nông nghiệp và
toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tỷ lệ dân số và lao động nông nghiệp giảm xuống
cả tương đối và tuyệt đối. Đời sống người dân nông nghiệp và nông thôn được
nâng cao ngày càng xích gần với thành thò.Trong khi đó, nông nghiệp nước ta với
điểm xuất phát còn rất thấp, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, kết cấu hạ tầng nông
thôn còn yếu kém, lao động thuần nông còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lao
động xã hội, năng suất ruộng đất và năng suất lao động còn thấp v.v Từ khi
chuyển sang nền kinh tế thò trường, khẳng đònh phát triển nền nông nghiệp nhiều
thành phần và hộ nông dân được xác đònh là đơn vò tự chủ, nông nghiệp nước ta đã
có bước phát triển và đạt được những thành tựu to lớn, nhất là về sản lượng lương
thực. Sản xuất lương thực chẳng những trang trải được nhu cầu trong nước, có dự
trữ mà còn dư thừa để xuất khẩu. Bên cạnh đó một số sản phẩm khác cngx phát
triển khá, như cà phê, cao su, chè, hạt điều v.v đã và đang là nguồn xuất khẩu
quan trọng. Nông nghiệp nước ta đang chuyển từ tự cung, tự cấp sang sản xuất

hàng hoá. Nhiều vùng của đất nước đang chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
và nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp tăng sản phẩm phi
nông nghiệp.
Nền nông nghiệp nước ta là nền nông nghiệp nhiệt đới, có pha trộn tính
chất ôn đới, nhất là ở miền Bắc và được trải rộng trên 4 vùng rộng lớn, phức tạp:
trung du, miền núi, đồng bằng và ven biển. Đặc điểm này đem lại cho nông
nghiệp nhiều thuận lợi cơ bản, đồng thời cũng có những khó khăn rất lớn trong quá
trình phát triển sản xuất nông nghiệp. Thời tiết, khí hậu của nước ta có những
thuận lợi rất cơ bản. Đó là hàng năm có lượng mưa bình quân tương đối lớn, đảm
bảo nguồn nước ngọt rất phong phú cho sản xuất và đời sống, có nguồn năng
lượng mặt trời dồi dào (cường độ, ánh sáng, nhiệt độ trung bình hàng năm là 23
0
C
v.v ), tập đoàn cây trồng và vật nuôi phong phú, đa dạng. Nhờ những thuận lợi đó
mà ta có thể gieo trồng và thu hoạch quanh năm với nhiều loại cây trồng và vật
nuôi phong phú,có gia trò kinh tế cao như : cây công nghiệp lâu năm, cây công
nghiệp ngắn ngày,cây ăn quả. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi nếu trên,điều
kiện thời tiết – khí hậu nước ta cũng có nhiều khó khăn lớn như; mưa nhiều và
lïng mưa thøng tập trung vào ba tháng trong năm gây lũ lụt, ngập úng.Nắng
nhiều thøng gây nên khô hạn,có nhiều nơi thiếu cả nước sinh hoạt cho người dân.
Khí hậu ẩm ướt,sâu bệnh,dòch bệnh lây lan gây ra những tổn thất lớn đối với mùa
màng.
Trong quá trình đưa nông nghiệp nước ta sản xuất hàng hoá.chúng ta tìm
kiếm mọi cách để phát huy những thuận lợi cơ bản nêu trên và hạn chế hững khó
khăn do điều kiện khắc nghiệt của thiên gây ra đảm bảo cho nông nghiệp phát
triển nhanh chóng và vững chắc.
Kinh tế hàng hoá trong khu vực nông thôn :
Kinh tế hàng hóa :
Điều kiện ra đời,tồn tại của sản xuất hàng hóa :
Sán xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó sản phẩm được sản

xuất ra không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính ngừoi trực tiếp sản
xuất ra nó mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác,thông qua việc trao
đổi, mua bán.
Sản xuất hàng hóa ra đời ,tồn tại được trên hai điều kiện :
Thứ nhất : Sự phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa sàn xuất ,phân chia lao
động xã hội thành các ngành,các lónh vực sản xuất khác nhau, là tiền đề của sản
xuất hàng hóa. Phân công lao động xã hội càng phát triển thì sản xuất và trao đổi
hàng hóa càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.
Thứ hai : Sự tách biệt tng đối về mặt kinh tế giữa những người
sản xuất. Những ngừơi sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất đònh
với nhau. Do đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh
tế,người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác phải thông qua
trao đổi,mua bán hàng hoá.
Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá :
Đặc trưng của sản xuất hàng hoá :
Sản xuất hàng hoá có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi, mua bán.
Trong lòch sử loài người tồn tại hai kiểu tổ chức kinh tế khác nhau là
sản xuất tự cung,tự cấp và sản xuất hàng hoá.Sản xuất tự cung, tự cấp là kiểu tố
chức kinh tế trong đó các sản phẩm đïc sản xuất ra nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của chính bản thân ngừoi sản xuất như sản xuất của ngøi dân trong thời kỳ
công xã nguyên thuỷ,sản xuất của những người nông dân gia trûng dứoi chế dộ
phong kiến Ngược lại, sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản
phẩm đïc sản xuất ra để bán chứ không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của chính người sản xuất ra nó,tức là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của ngừoi
khác,thông qua việc trao đổi,buôn bán.
Thứ hai,lao động của người sản xuất hàng hoá vừa mang tính tư
nhân,vừa mang tính xã hội.
Lao động của ngừoi sản xuất hàng hoá mang tính chất xã hội vì sản

phẩm làm ra để cho xã hội,đáp ứngnhu cầu của ngừoi khác trong xã hội.Nhưng với
sự tách biệt tng đối về kinh tế,và lao động của người sản xuất hàng hoá đồng
thời vẫn mang tính chất tư nhân,vì việc sản xuất cái gì, như thế nào là công việc
riêng mang tính độc lập của mỗi người trong tính chất tư nhân đó có thể phù hợp
hoặc không phù hợp với tính chất xã hội.
Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá.Mâu thuẫn giữa lao
động tư nhân và lao động xã hội là cơ sở,mầm mống của khủng hoảng trong nền
kinh tế hàng hoá.
Ưu thế của sản xuất hàng hoá :
So với sản xuất tự cung tự cấp, sản xuất hàng hoá có những ưu thế hơn hẳn:
Thứ nhất : sản xuất hàng hoá ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã
hội, chuyên môn hoá sản xuất.Do đó,nó khai thác đïc những lợi thế về tự
nhiên,xã hội, kỹ thuật của từng người,từng cơ sở sản xuất cũng như từng vùng,từng
đòa phương.Đồng thời, sự phát triển của sản xuất hàng hoá lại có tác động trở lại,
thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội,làm cho chuyên môn hoá lao
động ngày càng tăng,mối liên hệ giữa các ngành,các vùng ngày càng trở nên mở
rộng,sâu sắc. Từ đó, nó phá vỡ tính tự cấp,tự túc, bảo thủ, trì trệ,lạc hậu của mỗi
ngành,mỗi đòa phương làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh
chóng,nhu cầu của xã hội đïc đáp ứng đầy đủ hơn,khi sản xuất và trao đổi hàng
hoá mở rộng giữa các quốc gia,thì nó còn khai thác được lợi thế giữa các quốc gia
với nhau.
Thứ hai: trong nền sản xuất hàng hoá,quy mô sản xuất không còn bò giới
hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân,gia đình,mỗi cơ
sở, mỗi vùng, mỗi đòa phương,và nó đïc mở rộng dựa trên cơ sở nhu cầu và
nguồn lực của xã hội. Điều đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng những
thành tựu khoa học – kỹ thuật vào sản xuất thúc đẩy sản xuất phát triển .
Thứ ba : trong nền sản xuất hàng hoá,sự tác động của quy luật vốn có của
sản xuất và trao đổi hàng hoá là quy luật giá trò,cung – cầu ,cạnh tranh buộc
ngừoi sản xuất hàng hoá phải luôn luôn năng động,nhạy bén biết tính toán,cải tiến
kỹ thuật,hợp lý sản xuất, nâng cao năng suất,chất lïng và hiệu quả kinh tế,cải

tiến hình thức,quy cách và chủng loại hàng hoá,làm cho chi phí sản xuất hạ xuống
đáp ứng nhu cầu , thò hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao hơn.
Thứ tư : Trong nền sản xuất hàng hoá,sự phát triển của sản xuất ,sự mở
rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân ,các vùng,giữa các nước không chỉ làm
cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hoá, tinh thần cũng được nâng cao hơn,
phong phú hơn,đa dạng hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực,sản xuất hàng hoá cũng có những
mặt trái của nó như phân hoá giàu-nghèo giữa những ngừoi sản xuất hàng
hoá,tiềm ẩn những khả năg khủng hoảng,phá hoại môi trường sinh thái ,xã hội
Ý nghóa của phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp :
Thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội trong nông
nghiệp,nông thôn theo hướng chuểyn nền nông nghiệp từ độc canh cây lúa sang
phát triển toàn diện với phương hướng chuyên môn hoá kết hợp phát triển kinh
doanh tổng hợp ngành nghề,góp phần chuyển dòch cơ cấu kinh tế trong nông
nghiệp và trên đòa bàn nông thôn.
Hợp lý hoá việc khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của sản
xuất nông nghiệp trên cơ sở đánh giá đúng tiềm năng và lợi thế của từng vùng,đòa
phng doanh nghiệp và các nông hộ.
Kích thích ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và đầu tư vốn,lao động nhằm
sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm với chất lượng và có tính cạnh tranh cao trên
thò trường.
Mở rộng các quan hệ hợp tác trao đổi trong và ngoài nước nhằm thực
hiện xã hội hoá sản xuất trong nông nghiệp Việt Nam với nền nông nghiệp thế
giới.
Phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp và nông thôn,tạo điều kiện
nâng cao phúc lợi xã hội,cải thiện đời sống nông dân và bộ mặt nông thôn.
Để đánh giá trình độ sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp người ta sử
dụng chỉ tiêu tỷ suất hàng hoá nông sản theo ngành,vùng hoặc đơn vò sản xuất
kinh doanh nông nghiệp:
Tỷ suất hàng hoá là tỉ lệ giữa khối lïng nông sản hàng hoá và khối

lượng nông sản được sản xuất ra.
Khối lượng nông sản hàng hoá và khối lượng nông sản sản xuất ra co
1thể được tính dứoi hình thức hiện vật đối với từng loại nông sản hoặc dứoi hình
thức giá trò chung cho nhiều nông sản khác nhau.
Về mặt giá trò,có thể tính theo giá cố đònh để so sánh tốc độ phát
triển của sản xuất nông sản và nông sản hàng hoá qua các thời kỳ;có thể tính theo
giá thực tế để đánh giá tình hình kinh doanh thực tế.
Các nhân tố chủ yếu ảnh hưỡng đến trình độ sản xuất hàng hoá trong
nông nghiệp :
Điều kiện tự nhiên : vì đối tượng của sản xuất nông nghiệp là sinh vật nên
có sự gắn bó chặt chẽ với các điều kiện tự nhiên.Đây cũng chính là cơ sở tự nhiên
của phân công lao động xã hội trong nông nghiệp. Các tác động vào nền nông
nghiệp hánghoá chỉ thực sự có ý nghóa khi ácc tác động đó thích ứng với các điều
kiện của tự nhiên và nhu cầu sinh trưởng phát triển của cây trồng vật nuôi.
Do điều kiện tự nhiên của từng vùng,từng nơi có sự khác nhau nên
cần phải xác đònh được các tập đoàn cây trồng vật nuôi thích ứng cho từng vùng
nhằm khai thác lợi thế so sánh trong đáp ứng các nhu cầu khác nhau của thò
trường.
Nhu cầu thò trường: vì sản xuất sản phẩm nông nghiệp là để trao đổi trên thò
trøng. Đây là một trong những cơ sỡ về kinh tế xã hội của phân công lao động.
Nông sản phẩm nào có khả năng thoả mãn cao nhất nhu cầu của thò trường thì tính
hàng hoá của nông sản đó sẽ càng cao.
Vốn và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong nông nghiệp xét trên tổng thể
nền kinh tế quốc dân (cơ cấu vốn đầu tư),trongnội bộ ngành nông nghiệp ( tỷ lệ
phân bổ cho nhiều lónh vực đầu tư trong ngành nông nghiệp) và trong từng đơn vò
sản xuất kinh doanh nông nghiệp (khả năng tích luỹ tái sản xuất mở rộng).
Khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật,công nghệ vào sản xuất nông
nghiệp để nhanh chóng nâng cao khối lượng và chất lượng của nông sản hàng hoá
cung ứng.
Hệ thống chính sách kinh tế của hà nứơc: vì sản xuất nông nghiệp có nhiều

tủi rovà bản thân thò trường nông sản hàng hoá lại có những quy luật vận động đặc
thù.Việc nhận thức đầy đủ các đặc điểm của nông nghiệp trong sản xuất tiêu thụ
có ý nghóa hết sức quan trọng trong việc ban hành các chính sách kinh tế vó môđể
đònh hướng cũng như tác động thúc đẩy sản xuất nông sản hàng hoá Việt Nam trên
thò trường quốc tế.
Mở rộng thò trường quốc tế cũng là nhân tố quan trọng cần hết sức quan tâm
chuẩn bò các điều kiện cần thiết để kinh tế nông nghiệp Việt Nam có thể phát huy
các lợi thế so sánh của mình trong sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hoá.
3. Vai trò của kinh tế nông thôn trong nền kinh tế quốc dân :
Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp. Nó
không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh học - kỹ thuật,
bởi vì một mặt cơ sở để phát triển nông nghiệp là việc sử dụng tiềm năng sinh học
- cây trồng, vật nuôi. Chúng phát triển theo qui luật sinh học nhất đònh con người
không thể ngăn cản các quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của chúng, mà
phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn các qui luật để có những giải pháp tác động
thích hợp với chúng. Mặt khác quan trọng hơn là phải làm cho người sản xuất có
sự quan tâm thoả đáng, gắn lợi ích của họ với sử dụng quá trình sinh học đó nhằm
tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm cuối cùng hơn.
Nông nghiệp nếu hiểu theo nghóa hẹp chỉ có ngành trồng trọt, ngành chăn
nuôi và ngành dòch vụ trong nông nghiệp. Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghóa rộng nó
còn bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngành thủy sản.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản giữ vai trò to lớn trong việc
phát triển kinh tế ở hầu hết cả nước, nhất là ở các nước đang phát triển. ở những
nước này còn nghèo, đại bộ phận sống bằng nghề nông. Tuy nhiên, ngay cả những
nước có nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù tỷ trọng GDP nông nghiệp không
lớn, nhưng khối lượng nông sản của các nước này khá lớn và không ngừng tăng
lên, đảm bảo cung cấp đủ cho đời sống con người những sản phẩm tối cần thiết đó
là lương thực, thực phẩm. Những sản phẩm này cho dù trình độ khoa học - công
nghệ phát triển như hiện nay, vẫn chưa có ngành nào có thể thay thế được. Lương
thực, thực phẩm là yếu tố đầu tiên, có tính chất quyết đònh sự tồn tại phát triển của

con người và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Xã hội càng phát triển, đời sống của con người ngày càng được nâng cao thì
nhu cầu của con người về lương thực, thực phẩm cũng ngày càng tăng cả về số
lượng, chất lượng và chủng loại. Điều đó do tác động của các nhân tố đó là: Sự gia
tăng dân số và nhu cầu nâng cao mức sống của con người. Các nhà kinh tế học
đều thống nhất rằng điều kiện tiên quyết cho sự phát triển là tăng cung lương thực
cho nền kinh tế quốc dân bằng sản xuất - hoặc nhập khẩu lương thực. Có thể chọn
con đường nhập khẩu lương thực để giành nguồn lực làm việc khác có lợi
hơn.Nhưng điều đó chỉ phù hợp với các nước như: Singapore, Arậpsaudi hay
Brunay mà không dễ gì đối với các nước như: Trung Quốc, Indonexia, ấn Độ hay
Việt Nam - là những nước đông dân. Các nước đông dân này muốn nền kinh tế
phát triển, đời sống của nhân dân được ổn đònh thì phần lớn lương thực tiêu dùng
phải được sản xuất trong nước. Indonexia là một thí dụ tiêu biểu, một triệu tấn gạo
mà Indonexia tự sản xuất được thay vì phải mua thường xuyên trên thò trường thế
giới đã làm cho giá gạo thấp xuống 50 USD/tấn. Giữa những năm của thập kỷ 70-
80 Indonexia liên tục phải nhập hàng năm từ 2,5-3,0 triệu tấn lương thực. Nhưng
nhờ sự thành công của chương trình lương thực đã giúp cho Indonexia tự giải quyết
được vấn đề lương thực vào giữa những năm 80 và góp phần làm giảm giá gạo
trên thò trường thế giới. Các nước ở Châu á đang tìm mọi biện pháp để tăng khả
năng an ninh lương thực, khi mà tự sản xuất và cung cấp được 95% nhu cầu lương
thực trong nước. Thực tiễn lòch sử của các nước trên thế giới đã chứng minh chỉ có
thể phát triển kinh tế một cách nhanh chóng, chừng nào quốc gia đó đã có an ninh
lương thực. Nếu không đảm bảo an ninh lương thực thì khó có sự ổn đònh chính trò
và thiếu sự đảm bảo cơ sở pháp lý, kinh tế cho sự phát triển, từ đó sẽ làm cho các
nhà kinh doanh không yên tâm bỏ vốn vào đầu tư dài hạn. Nông nghiệp có vai trò
quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho công nghiệp và khu vực
thành thò. Điều đó được thể hiện chủ yếu ở các mặt sau đây:
Nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp của các nước đang phát triển là khu
vực dự trữ và cung cấp lao động cho phát triển công nghiệp và đô thò. Trong giai
đoạn đầu của công nghiệp hoá, phần lớn dân cư sống bằng nông nghiệp và tập

trung sống ở khu vực nông thôn. Vì thế khu vực nông nghiệp, nông thôn thực sự là
nguồn dự trữ nhân lực dồi dào cho sự phát triển công nghiệp và đô thò. Quá trình
nông nghiệp hoá và đô thò hoá, một mặt tạo ra nhu cầu lớn về lao động, mặt khác
đó mà năng suất lao động nông nghiệp không ngừng tăng lên, lực lượng lao động
từ nông nghiệp được giải phóng ngày càng nhiều. Số lao động này dòch chuyển, bổ
sung cho phát triển công nghiệp và đô thò. Đó là xu hướng có tính qui luật của mọi
quốc gia trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Khu vực nông nghiệp còn cung cấp nguồn nguyên liệu to lớn và q cho
công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Thông qua công nghiệp chế biến,
giá trò của sản phẩm nông nghiệp nâng lên nhiều lần, nâng cao khả năng cạnh
tranh của nông sản hàng hoá, mở rộng thò trường…
Khu vực nông nghiệp là nguồn cung cấp vốn lớn nhất cho sự phát triển kinh
tế trong đó có công nghiệp, nhất là giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, bởi vì đây
là khu vực lớn nhất, xét cả về lao động và sản phẩm quốc dân. Nguồn vốn từ nông
nghiệp có thể được tạo ra bằng nhiều cách, như tiết kiện của nông dân đầu tư vào
các hoạt động phi nông nghiệp, thuế nông nghiệp, ngoại tệ thu được do xuất khẩu
nông sản v.v trong đó thuế có vò trí rất quan trọng “Kuznets cho rằng gánh nặng
của thuế mà nông nghiệp phải chòu là cao hơn nhiều so với dòch vụ Nhà nước cung
cấp cho công nghiệp”. Việc huy động vốn từ nông nghiệp để đầu tư phát triển
công nghiệp là cần thiết và đúng đắn trên cơ sở việc thực hiện bằng cơ chế thò
trường, chứ không phải bằng sự áp đặt của Chính phủ. Những điển hình về sự
thành công của sự phát triển ở nhiều nước đều đã sử dụng tích luỹ từ nông nghiệp
để đầu tư cho nông nghiệp. Tuy nhiên vốn tích luỹ từ nông nghiệp chỉ là một trong
những nguồn cần thiết phát huy, phải coi trọng các nguồn vốn khác nữa để khai
thác hợp lý, đừng quá cường điệu vai trò tích luỹ vốn từ nông nghiệp.
Nông nghiệp và nông thôn là thò trường tiêu thụ lớn của công nghiệp.
ở hầu hết các nước đang phát triển, sản phẩm công nghiệp, bao gồm tư liệu tiêu
dùng và tư liệu sản xuất được tiêu thụ chủ yếu dựa vào thò trường trong nước mà
trước hết là khu vực nông nghiệp và nông thôn. Sự thay đổi về cầu trong khu vực
nông nghiệp, nông thôn sẽ có tác động trực tiếp đến sản lượng ở khu vực phi nông

nghiệp. Phát triển mạnh mẽ nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho dân cư nông
nghiệp, làm tăng sức mua từ khu vực nông thôn sẽ làm cho cầu về sản phẩm công
nghiệp tăng, thúc đẩy công nghiệp phát triển, từng bước nâng cao chất lượng có
thể cạnh tranh với thò trường thế giới.
Nông nghiệp được coi là ngành đem lại nguồn thu nhập ngoại tệ lớn.
Các loại nông, lâm thuỷ sản dễ dàng gia nhập thò trường quốc tế hơn so với các
hàng hoá công nghiệp. Vì thế, ở các nước đang phát triển, nguồn xuất khẩu để có
ngoại tệ chủ yếu dựa vào các loại nông, lâm thuỷ sản. Xu hướng chung ở các nước
trong quá trình công nghiệp hoá, ở giai đoạn đầu giá trò xuất khẩu nông lâm, thuỷ
sản chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu và tỷ trọng đó sẽ giảm dần
cùng với sự phát triển cao của nền kinh tế. ở Thái Lan năm 1970 tỷ trọng giá trò
nông, lâm, thuỷ sản trong tổng kim ngạch xuất khẩu chiếm 76,71% giảm xuống
59,36% năm 1980; 38,11% năm 1990; 35,40% năm 1991; 34,57% năm 1992;
29,80% năm 1993 và 29,60% năm 1994. Tuy nhiên xuất khẩu nông, lâm thuỷ sản
thường bất lợi do giá cả trên thò trường thế giới có xu hướng giảm xuống, trong lúc
đó giá cả sản phẩm công nghiệp tăng lên, tỷ giá cánh kéo giữa hàng nông sản và
hàng công nghệ ngày càng mở rộng, làm cho nông nghiệp, nông thôn bò thua thiệt.
Ở một số nước chỉ dựa vào một vài loại nông sản xuất khẩu chủ yếu, như Coca ở
Ghana, đường mía ở Cuba, cà phê ở Braxin v.v đã phải chòu nhiều rủi ro và sự
bất lợi trong xuất khẩu. Vì vậy gần đây nhiều nước đã thực hiện đa dạng hoá sản
xuất và xuất khẩu nhiều loại nông lâm thuỷ sản, nhằm đem lại nguồn ngoại tệ
đáng kể cho đất nước.
Nông nghiệp và nông thôn có vai trò to lớn, là cơ sở trong sự phát
triển bền vững của môi trường. Nông nghiệp sử dụng nhiều hoá chất như phân bón
hoá học, thuốc trừ sâu bệnh v.v làm ô nhiễm đất và nguồn nước. Trong quá trình
canh tác dễ gây ra xói mòn ở các triền dốc thuộc vùng đồi núi và khai hoang mở
rộng diện tích đất rừng v.v Vì thế, trong quá trình phát triển sản xuất nông
nghiệp, cần tìm những giải pháp thích hợp để duy trì và tạo ra sự phát triển bền
vững của môi trường.
Tóm lại, nền kinh tế thò trường, vai trò của nông nghiệp trong sự phát triển

bao gồm hai loại đóng góp: thứ nhất là đóng góp về thò trường - cung cấp sản
phẩm cho thò trường trong và ngoài nước, sản phẩm tiêu dùng cho các khu vực
khác, thứ hai là sự đóng góp về nhân tố diễn ra khi có sự chuyển dòch các nguồn
lực (lao động, vốn v.v ) từ nông nghiệp sang khu vực khác.
Ch ư ơng II :
Thực trạng phát triển kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp và
nông thôn những năm qua ở nước ta.
Thành tựu - hạn chế của phát triển kinh tế hàng hoá khu vực nông nghiệp
nông thôn ở nước ta trong thời gian qua.
Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, nhất là từ sau Nghò quyết
TW10 của Bộ Chính trò (khóa VI), nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã
có những thay đổi sâu sắc và toàn diện. Các hoạt động kinh tế - xã hội nông thôn
được mở rộng, phát triển, đời sống và thu nhập của người dân không ngừng được
cải thiện, diện mạo kinh tế - xã hội nông thôn có những thay đổi căn bản. Cụ thể
là:
Nhiều năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn do biến động thò trường,
thiên tai, dòch bệnh, nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn tiếp tục phát triển, tăng
trưởng bình quân khoảng 3,7%/năm. Bình quân lương thực đầu người tăng từ 420
kg năm 2001 lên 470 kg năm 2007. Kết quả này không những giúp Việt Nam bảo
đảm được an ninh lương thực mà còn xuất khẩu trung bình hơn 4 triệu tấn
gạo/năm
Nét nổi bật của sản xuất nông nghiệp là hình thành các vùng sản xuất hàng
hóa tập trung gắn với công nghiệp chế biến, làm cho các sản phẩm nông nghiệp
có giá trò kinh tế ngày càng cao, không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong
nước, mà còn mở rộng xuất khẩu trên thò trường thế giới. Giá trò kim ngạch xuất
khẩu các loại nông, lâm, thủy sản liên tục tăng.
Đạt được những kết quả trên là do trong những năm qua chúng ta đã
tích cực áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, khoảng 90 giống cây trồng, vật
nuôi được chọn tạo và đưa vào sản xuất nông nghiệp. Không chỉ công nghệ sinh
học mà cơ giới hóa cũng được áp dụng rộng rãi vào sản xuất nông nghiệp. Tỷ lệ

sử dụng máy móc vào các công việc như làm đất, tưới tiêu, tuốt lúa đạt trên 80%.
Công nghệ sau thu hoạch, công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp cũng được
phát triển mạnh. Hiện nay, ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản
chiếm khoảng 28% giá trò sản xuất của toàn ngành công nghiệp, tăng trưởng trung
bình 14,8%/năm. Nhiều đơn vò chế biến nông sản phẩm đã sử dụng công nghệ và
trang thiết bò hiện đại trong sản xuất; đồng thời, liên kết với nông dân thực hiện
sản xuất "trọn gói", theo quy trình từ nuôi trồng đến chế biến và xuất khẩu. Do đó,
đã góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành nông nghiệp, nâng
cao giá trò gia tăng của sản phẩm, tạo thêm nhiều việc làm và cải thiện đời sống
của người lao động ở nông thôn.
Cùng với sự chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, các hình thức tổ
chức sản xuất ở nông thôn được đổi mới và phát triển phù hợp với yêu cầu phát
triển của nền nông nghiệp hàng hóa. Kinh tế hộ phát huy mạnh mẽ vai trò kinh tế
của mình, đáng chú ý là có trên 113 nghìn hộ đã phát triển theo hình thức kinh tế
trang trại, tăng 86,4% so với năm 2001. Nét mới trong phát triển kinh tế trang trại
là loại hình sản xuất ngày càng đa dạng và có sự chuyển dòch về cơ cấu theo
hướng giảm tỷ trọng các trang trại trồng cây hằng năm và cây lâu năm, tăng tỷ
trọng các loại trang trại chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, sản xuất kinh doanh tổng
hợp.
Các hợp tác xã kiểu cũ đã cơ bản được chuyển đổi và hình thành
nhiều hợp tác xã mới theo Luật Hợp tác xã. Đến nay, cả nước có khoảng 7.310
hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản đang hoạt động. Những hợp tác
xã này bước đầu thực hiện có hiệu quả vai trò hỗ trợ kinh tế hộ và các thành phần
kinh tế khác ở nông thôn phát triển. Qua đó, góp phần tích cực trong việc chuyển
dòch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, xây dựng nông thôn mới, tạo điều kiện cho nông
dân và nông thôn ngày càng giàu có hơn, dân chủ và công bằng hơn; đồng thời,
góp phần củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân ở từng đòa phương.
Không chỉ có kinh tế hộ, kinh tế hợp tác, các doanh nghiệp ở nông thôn cũng phát
triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Tỷ lệ đầu tư phát triển của kinh tế tư
nhân ngày càng cao. Chỉ tính riêng các doanh nghiệp đầu tư vào lónh vực chế biến

nông, lâm, thủy sản đã chiếm tới 13% tổng số vốn đầu tư xã hội cho khu vực nông
nghiệp, nông thôn.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn cũng không ngừng được tăng
cường, nhất là về hệ thống thủy lợi. Với sự nỗ lực đầu tư của Nhà nước và khơi
dậy được nguồn vốn trong dân, đến nay đã có 96,9% số xã có đường ô tô đến
trung tâm; 96,8% số xã có điện lưới quốc gia (tỷ lệ này vượt xa nhiều nước trong
khu vực châu á như Philippines: 64% số hộ nông dân có điện, Bangladesh: 57%,
Srilanca: 44%, Indonesia: 40%,Ấn Độ: 39%). Hệ thống chợ, bưu chính viễn thông
nông thôn, các chương trình kiên cố hóa trường học, xây dựng trạm y tế, nhà văn
hóa được quan tâm đầu tư phát triển. Các hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục
thể thao được tăng cường, mạng lưới truyền thanh, truyền hình phát triển tới hầu
hết các vùng nông thôn, góp phần quan trọng nâng cao mức hưởng thụ văn hóa
cho người dân nông thôn.
Kinh tế nông thôn phát triển nên đời sống vật chất và tinh thần của
nông dân ngày càng được cải thiện. Thu nhập thực của nông dân tăng khá nhanh.
Trong vòng 10 năm, thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn tăng 2,7 lần
(khoảng 6,1 triệu đồng/người); tích lũy để dành tăng 2,1 lần, đạt 6,7 triệu đồng/hộ.
Công tác xóa đói, giảm nghèo được đẩy mạnh. Tỷ lệ hộ giàu, khá giả tăng lên; số
hộ nghèo đói giảm xuống. Nhiều tỉnh cơ bản đã xóa được số hộ đói.
Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của sự phát triển đất nước, nhất là khi
nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và là thành viên của
WTO, nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam cũng đang bộc lộ nhiều yếu
kém, khó khăn và đứng trước những thách thức to lớn cần được khắc phục, vượt
qua. Cụ thể là:
- Sản xuất nông nghiệp có xu hướng tăng trưởng chậm lại và kém
bền vững. Tốc độ tăng giá trò sản xuất nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thủy sản
gần đây có xu hướng giảm dần (năm 2000 tăng 7,3%, năm 2005: 4,9%, năm 2007:
4,6%), trong đó nông nghiệp còn giảm mạnh hơn (tương ứng là 5,4%, 3,2% và
2,9%); tốc độ tăng giá trò sản xuất chăn nuôi cũng giảm mạnh liên tục trong ba
năm nay (năm 2005 tăng 11,4%, năm 2006: 7,3%, năm 2007: 4,6%). Năng suất,

chất lượng của nhiều loại cây trồng, vật nuôi còn thấp và chậm được cải thiện. Vệ
sinh, an toàn thực phẩm thấp và đang là thách thức lớn khi Việt Nam ngày càng
hội nhập quốc tế sâu rộng. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp đang giảm nhanh.
Nguyên nhân chủ yếu là do những năm gần đây, bình quân mỗi năm có trên 73
nghìn ha đất nông nghiệp bò thu hồi để xây dựng các khu, cụm công nghiệp và đô
thò. Dân số gia tăng, đất canh tác suy giảm dẫn đến quy mô canh tác của các hộ
nông dân ngày càng giảm.
- Dòch bệnh xảy ra liên tiếp trong mấy năm qua đã đe dọa nghiêm
trọng đến sự phát triển bền vững của nông nghiệp nói riêng, toàn nền kinh tế nói
chung. Theo ước tính, thiệt hại vật chất do thiên tai, dòch bệnh hằng năm rất lớn,
khoảng 1% GDP, chủ yếu trong nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thủy sản.
- Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển dòch chậm, thiếu
bền vững. Ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn, trên 57%; các ngành chăn
nuôi, lâm nghiệp chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế và xu hướng phát triển
không ổn đònh. Việc xây dựng các vùng nguyên liệu lớn, tập trung cho công
nghiệp chế biến tiến hành chậm. Cơ cấu lao động ở nông thôn chuyển dòch chậm.
Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2006, tỷ lệ lao động trong nông nghiệp
giảm 10,4%. Tuy nhiên, lao động trong nông nghiệp đến năm 2006 vẫn chiếm
55,7% trong tổng số lao động của cả nước.
- Việc ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ vào quá trình
sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp còn chậm. Hầu hết các loại cây trồng, vật nuôi có
năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh thấp. Năng suất cây trồng thường
mới đạt từ 50% đến 70% mức bình quân chung của thế giới. Công tác nghiên cứu,
chuyển giao khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới còn nhiều bất cập. Hệ thống quản
lý thủy nông, thú y, bảo vệ thực vật, cung ứng giống, vật tư chưa đáp ứng được yêu
cầu công nghiệp hóa nông nghiệp. Công tác bảo quản sau thu hoạch, bao bì, nhãn
hiệu hàng hóa, thương hiệu vẫn chưa đáp ứng theo tiêu chuẩn quốc tế trong quá
trình hội nhập.
- Công nghiệp nông thôn phát triển còn chậm, các cơ sở công nghiệp
chủ yếu tập trung ở các vùng ven và phổ biến là quy mô nhỏ, dưới 5 tỉ đồng

(chiếm trên 70%), các cơ sở mới được xây dựng có máy móc, thiết bò tương đối
hiện đại chưa nhiều. Tỷ trọng nông sản qua chế biến công nghiệp đạt thấp. Những
yếu kém trên làm cho giá trò kinh tế của nông sản thấp, giá thành sản phẩm cao,
an toàn, vệ sinh thực phẩm chưa được quan tâm đầy đủ khi đưa sản phẩm ra thò
trường, công sức của người lao động không được bảo đảm, và do vậy, gây nên
những tổn thất lớn về kim ngạch xuất khẩu và thu nhập cho nền kinh tế quốc dân.
- Các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn hoạt động chưa mang
lại hiệu quả cao; thiếu tổ chức có đủ khả năng "kết dính" và năng lực dẫn dắt
trong quá trình phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
- Kết cấu hạ tầng phục vụ cho sản xuất và đời sống của dân cư còn
nhiều yếu kém. Nhiều hệ thống thủy nông bò xuống cấp nghiêm trọng. Hệ thống
đê điều nhiều nơi chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ sản xuất, dân sinh và đối phó
với tình trạng nước biển dâng. Phần lớn chất lượng đường giao thông nông thôn
chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ sản xuất, dân sinh và lưu thông hàng hóa. Đầu
tư vào đòa bàn nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế.
- Thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn còn thấp so với khu vực
thành thò. Theo điều tra, hơn 90% số người nghèo của cả nước là nông dân. Chính
vì đời sống, quyền lợi của nông dân hiện nay chưa được bảo đảm, lại phải đóng
góp nhiều, bò thua thiệt khi bò thu hồi đất, khi mua vật tư cho sản xuất, và bán nông
sản phẩm, thêm vào đó việc thực thi dân chủ ở cơ sở chưa được bảo đảm, lại bò kẻ
xấu kích động, lôi kéo, nên một bộ phận nông dân cảm thấy bức xúc, tham gia
khiếu kiện đông người, gây ảnh hưởng không tốt đến đời sống chính trò - xã hội ở
nông thôn. Ngoài ra, một bộ phận cán bộ, đảng viên lợi dụng chức vụ, quyền hạn
tham ô của công, vun vén cho cá nhân, hoặc buông lỏng quản lý làm ảnh hưởng
đến niềm tin của một bộ phận nông dân vào hệ thống chính trò ở đòa phương. Đây
là một nguy cơ đáng báo động. Thực trạng trên đặt ra nhiệm vụ hết sức nặng nề,
đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần có những chủ trương, chính sách mới đúng đắn, kòp
thời và lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, tạo ra bước đột phá trong phát triển nông
nghiệp, nông dân, nông thôn, làm cơ sở thực hiện thành công công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thuận lợi và khó khăn trong phát triển kinh tế hàng hoá ở khu vực nông
nghiệp nông thôn nước ta.
Năm 2007, tuy có nhiều khó khăn về thời tiết, thiên tai, dịch bệnh, nhưng nơng
nghiệp nước ta tiếp tục có bước chuyển dịch theo hướng đẩy mạnh sản xuất các loại
nơng sản hàng hóa có nhu cầu của thị trường, có giá trị và hiệu quả.
Trong ngành trồng trọt: năm 2007 tăng trưởng 2,4% so với năm 2006. Tổng
sản lượng lương thực cây có hạt đạt 39,98 triệu tấn.
Diện tích gieo trồng lúa cả năm đạt 7,201 triệu ha, giảm 125 ngàn ha so với
năm trước. Tuy diện tích lúa giảm nhưng năng suất tăng 1,8% đạt 49,8 tạ/ha nên sản
lượng vẫn đạt 35,87 triệu tấn lúa.
Diện tích ngơ 1,068 triệu ha, tăng 4%; năng suất trung bình 38,5 tạ/ha, tăng
4,1%; sản lượng 4,1 triệu tấn, tăng 8,2%.
Sản xuất cây cơng nghiệp lâu năm tăng trưởng khá: Hồ tiêu đạt 90,3 ngàn tấn,
tăng 14,4%; Điều đạt 301,9 ngàn tấn, tăng 10,5%; Chè đạt 704,9 ngàn tấn, tăng 8,6%;
Cao su đạt 801,7 ngàn tấn, tăng 8,3%. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về khuyến
khích phát triển Cao su, nên diện tích năm 2007 đã đạt 549,6 ngàn ha, tăng 27,4 ngàn
ha so với năm 2006. Tổng diện tích cây cơng nghiệp lâu năm đạt trên 1,8 triệu ha,
tăng 74,9 ngàn ha so với năm 2006.
Một số cây ăn quả có nhu cầu của thị trường, nhất là các cây đặc sản có giá trị
kinh tế cao phát triển mạnh theo hướng hàng hóa tập trung nên tổng diện tích cây ăn
quả năm 2007 ước đạt 775,5 ngàn ha, tăng khoảng 4,1 ngàn ha.
Trong chăn ni:mặc dù dịch cúm gia cầm, LMLM, lợn tai xanh diễn ra trên
diện rộng, nhưng do chỉ đạo quyết liệt của các cấp các ngành và kinh nghiệm chống
dịch nên chăn ni tiếp tục phát triển khá, tỷ trọng trong cơ cấu nơng nghiệp từ 22%
năm 2005 lên 24% năm 2007.
Theo kết quả điều tra ngày 1/8/2007 cả nước có 6,73 triệu con bò, tăng 3,3% so
với năm 2006; gần 3 triệu con trâu, tăng 2,6%; 226,0 triệu con gia cầm, tăng 5,3%.
Riêng đàn lợn, do giá thức ăn chăn nuôi tăng cao lại bị dịch LMLM, lợn tai xanh xảy
ra trên diện rộng nên đàn lợn giảm, đạt 26,6 triệu con, giảm 1,1% so với năm 2006.
Sản lượng thịt hơi các loại ước đạt 3,83 triệu tấn, tăng so với năm 2006 khoảng

12,6%.
Công nghiệp, ngành nghề và dịch vụ, nhất là làng nghề truyền thống có bước
phát triển nhanh. Hiện cả nước có 2.197 làng nghề, với khoảng 1,423 triệu hộ (theo
tiêu chí mỗi làng có trên 20% số hộ làm nghề), thu hút trên 1,5 triệu lao động. Kim
ngạch xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của làng nghề tăng từ 235 triệu USD
năm 2001 lên 700 triệu USD năm 2007.
Quan hệ sản xuất tiếp tục được đổi mới: Kinh tế hộ có bước phát triển, quy mô
được mở rộng, hiện có 83 nghìn hộ sản xuất theo hình thức trang trại; năm 2007 thành
lập mới được 200 HTX, đưa số HTX đến năm 2007 cả nước có 8.320 HTX hoạt đồng
trong lĩnh vực nông nghiệp. Nông lâm trường quốc doanh và doanh nghiệp nhà nước
đang được sắp xếp lại theo hướng chuyển mạnh sang công ty cổ phần và nâng cao
năng lực của doanh nghiệp nhà nước.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được tiếp tục đầu tư phát triển, nhất
là về thủy lợi. Đồng thời hệ thống các cơ sở hạ tầng giao thông, điện, nước ở các vùng
nông thôn cũng đã được cải thiện rõ rệt, tới năm 2006 đã có 99% số xã, 92,8% số thôn
có điện và tỷ lệ hộ nông thôn sử dụng điện đã lên tới 93,3%; 96,7% số xã có đường
ôtô tới khu trung tâm, trong đó 42,6% số xã có đường liên thôn được trải nhựa, bê
tông hoá trên 50%.
Về quy hoạch và điều chỉnh dân cư: Tổng kết 15 năm (1990 - 2005) công tác
tái định cư các dự án thuỷ điện lớn; triển khai các dự án di dân khẩn cấp; đôn đốc các
địa phương xây dựng dự án quy hoạch bố trí dân cư đến năm 2010. Trong năm 2007
được Nhà nước giao 550 tỷ đồng, trong đó 400 tỷ cho đầu tư phát triển và 150 tỷ đồng
sự nghiệp kinh tế. Các địa phương đã tập trung thực hiện bố trí lại dân cư tại các vùng
có nguy cơ cao về thiên tai (sạt, lở, lũ quét, lũ ống, ) và những vùng đặc biệt khó
khăn (thiếu đất sản xuất, thiếu nước, cơ sở hạ tầng, ). Trong năm đã thực hiện bố trí
dân cư cho 15.000 hộ. Triển khai lập các dự án ổn định dân cư các xã biên giới Việt
Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia. Hướng dẫn các địa phương tổng hợp tình hình,
xây dựng dự án thực hiện nhiệm vụ di dân khẩn cấp ở những vùng bị thiên tai, các
vườn quốc gia, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Chỉ đạo các địa phương thực hiện các
biện pháp ổn định dân cư, hạn chế di cư tự do, nhất là các tỉnh trọng điểm Lào Cai, Hà

Giang, Bắc Cạn, Lai Châu, Tuyên Quang.
Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường đã đạt được những kết quả khả
quan: Đã đầu tư nâng cấp, sửa chữa và xây dựng mới được khoảng 260.000 công trình
cấp nước, trong đó có khoảng 1.800 công trình cấp nước tập trung, nâng tỷ lệ người
dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đến cuối năm 2007 đạt khoảng 70%.
Đã làm mới được khoảng 500.000 nhà tiêu hợp vệ sinh, nâng tỷ lệ hộ gia đình nông
thôn có sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh đạt khoảng 51%.
Tỷ lệ hộ nghèo ở nơng thơn năm 2006 còn 18% theo tiêu chí mới, ước năm
2007 còn khoảng 16%. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê về Tổng điều tra nơng
nghiệp, nơng thơn và thuỷ sản, năm 2006 thu nhập bình qn một hộ nơng thơn đạt
26,1 triệu đồng, tăng 11,3 triệu đồng (tăng 75,8%) so với năm 2002; ước năm
2007 đạt khoảng 29-30 triệu đồng/hộ/năm.
Chương III : Giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế hàng hóa trong nông
nghiệp, nông thôn.
1.Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế hàng hoá ở khu vực nông
nghiệp nông thôn.
Quá trình hình thành quan điểm của Đảng về nghiệp,nông thôn
Ngay những năm đầu xây dựng chủ nghóa xã hội ở miền Bắc,Chủ
tòch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:Đặc điểm to lớn nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ
một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghóa xã hội không phải kinh
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghóa. Các Đại hội sau đã từng bước làm rõ
thêm đặc điểm này và lấy đó làm cơ sở để xây dựng đường lối chiến lược, mục
tiêu kinh tế xã hội của đất nước.
Đại hội lần thứ III của Đảng khẳng đònh ra sức phát triển nông
nghiệp, vì muốn phát triển công nghiệp, muốn tiến hành công nghiệp hóa xã hội
chủ nghóa phải có những điều kiện tiên quyết như lương thực, thực phẩm, lao động,
v v mà những điều kiện đó phụ thuộc vào sự phát triển của nông nghiệp. Chủ tòch
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Vì nước ta là một nước nông nghiệp, mọi việc đều dựa
vào nông nghiệp” cho nên “các cơ quan Nhà nước phải quan tâm hơn nữa đến
nông nghiệp, phát huy nhiều hơn nữa tác dụng của ngành mình trong sản xuất

nông nghiệp”. Đại hội III của Đảng chỉ rõ công nghiệp và nông nghiệp là hai bộ
phận chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân, có quan hệ mật thiết lẫn nhau cần được
phát triển và khẳng đònh, công nghiệp hóa xã hội chủ nghóa là nhiệm vụ trung tâm
của cả thời kỳ quá độ. Chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa xã hội chủ nghóa
ở miền Bắc là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghóa cân đối và hiện đại, kết
hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ… Hội nghò Trung ương V khóa III năm 1961 đã ra nghò
quyết về vấn đề phát triển nông nghiệp, trong đó nêu lên phương hướng cải tiến
công cụ và cơ giới hóa nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-
1965).
Đến Đại hội lần thứ IV, Đảng xác đònh lấy việc phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ làm cơ sở để ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý, nêu ra vấn đề kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước
thành một cơ cấu công - nông nghiệp. Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của kế
hoạch 5 năm (1976-1980) là tập trung cao độ lực lượng của cả nước, của các
ngành, các cấp, tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp, nhằm giải
quyết vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và một phần hàng
tiêu dùng thông thường. Như vậy đến Đại hội IV vai trò của nông nghiệp được xác
đònh rõ hơn, là cơ sở để phát triển công nghiệp. Để đẩy mạnh sản xuất nông
nghiệp, trong giai đoạn này, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính
sách lớn như đầu tư để làm thủy lợi, thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp, làm đường
giao thông nông thôn, xây dựng trường học, trạm xá, đặc biệt là thủy lợi và cơ giới
hóa nông nghiệp. Tuy nhiên đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghóa do Đại
hội IV đề ra vẫn thiên về xây dựng công nghiệp nặng, chưa tập trung sức phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ một cách đúng mức.
Đại hội V của Đảng khẳng đònh nông nghiệp là mặt trận hàng đầu.
Thực tế ở nước ta đã chỉ rõ khi mà nông nghiệp còn ở trong tình trạng lạc hậu, tự
cấp tự túc, năng suất thấp thì sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghóa chưa thể
triển khai mạnh mẽ được. Trình độ thấp kém của sản xuất nông nghiệp, không

những ảnh hưởng và gây khó khăn đến đời sống nhân dân, sự phát triển của công
nghiệp, mà còn ảnh hưởng xấu đến chu trình sản xuất xã hội. Điều quan trọng là
Đại hội V đã chỉ rõ quan điểm và nội dung của công nghiệp hóa xã hội chủ nghóa
trong chặng đường đầu tiên. Xây dựng và phát triển công nghiệp nặng phải nhằm
phục vụ thiết thực và có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu
dùng .
Đại hội VI - bước ngoặt trong đổi mới tư duy của Đảng về chủ nghóa
xã hội nói chung, về nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Đại hội chỉ rõ trong những
năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt là trong kế hoạch 5 năm 1986-
1990, phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được ba
chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu. Trong toàn bộ quá trình xây dựng chủ nghóa xã hội không được tách rời
nông nghiệp với công nghiệp, không thể chỉ coi trọng nông nghiệp hoặc công
nghiệp. Nhưng ở mỗi giai đoạn, trong từng chặng đường, vò trí của nông nghiệp và
công nghiệp có khác nhau; trong chặng đường hiện nay phải tập trung sức phát
triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một
bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghóa. Cương lónh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghóa xã hội được thông qua Đại hội VII và các nghò quyết của
Trung ương khóa VII, tiếp tục khẳng đònh, làm rõ quan điểm công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn, theo hướng hiện đại gắn liền với
phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghóa xã hội, không ngừng nâng cao
năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Hội nghò lần thứ V Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã ra nghò quyết về: “Tiếp tục đổi mới và
phát triển kinh tế - xã hội nông thôn”. Nghò quyết đã khẳng đònh: Trải qua các thời
kỳ cách mạng từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng đònh tầm quan
trọng của vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn…lấy nông nghiệp làm mặt
trận hàng đầu và là khâu đột phá. Nghò quyết V đã xác đònh một hệ thống quan
điểm nhằm tiếp tục đổi mới và phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta trong
giai đoạn mới: Đặt sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản

xuất hàng hóa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là nhiệm vụ
chiến lược có tầm quan trọng hàng đầu. Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách
kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo đònh hướng
xã hội chủ nghóa. Gắn sản xuất với thò trường, mở rộng sản xuất đi đôi với mở rộng
thò trường tiêu thụ nông sản, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật và
công nghệ, dể nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Gắn phát triển kinh tế
với phát triển văn hóa - xã hội, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài; bảo vệ và phát
triển tài nguyên, cải thiện môi trường sinh thái, xây dựng nông thôn mới. Đổi mới
kinh tế đi đôi với đổi mới hệ thống chính trò trong nông thôn.
Những quan điểm trên đây, phản ánh nhận thức mới, là bước phát
triển tư duy lãnh đạo của Đảng trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn
nước ta. Đại hội lần thứ VIII và các Nghò quyết Trung ương IV, Nghò quyết 06 của
Bộ Chính trò (Khóa VIII) tiếp tục cụ thể hóa hơn về nội dung công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Nghò quyết Trung ương IV (Khóa VIII) chỉ rõ
: Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hợp tác hóa, dân chủ hóa. Nghò quyết xác đònh đẩy nhanh quá trình chuyển dòch
cơ cấu kinh tế gắn với phân công lao động ở nông thôn, giải quyết vấn đề thò
trường tiêu thụ nông sản; phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp tác, đổi mới
hoạt động của các cơ sở quốc doanh trong nông nghiệp và nông thôn; phát triển
các cơ sở quốc doanh ở vùng sâu, vùng xa.
Trong Nghò quyết số 06 của Bộ Chính trò (Khóa VIII) về một số vấn
đề phát triển nông nghiệp và nông thôn đã khẳng đònh 4 quan điểm và 6 mục tiêu
phát triển. Về quan điểm: Coi trọng thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn, đưa nông nghiệp và kinh tế nông
thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, là cơ
sở để ổn đònh tình hình kinh tế, chính trò, xã hội, củng cố liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.Đẩy mạnh chuyển dòch cơ cấu kinh
tế, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp chế biến, ngành nghề, gắn sản
xuất với thò trường dể hình thành sự liên kết nông-công nghiệp-dòch vụ và thò
trường ngay trên đòa bàn nông thôn và trên phạm vi cả nước; gắn phát triển nông

nghiệp với xây dựng nông thôn mới. Phát huy lợi thế của từng vùng và cả nước, áp
dụng nhanh các tiến bộ khoa học, công nghệ để phát triển nông nghiệp hàng hóa
đa dạng, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu nông sản thực phẩm và nguyên liệu công
nghiệp, hướng mạnh ra xuất khẩu. Phát triển nền nông nghiệp với nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp
tác xã dần trở thành nền tảng, hợp tác và hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển
theo đúng pháp luật. Tiếp tục phát triển nhiều hình thức kinh tế hợp tác, các loại
hình hợp tác xã dòch vụ cho kinh tế hộ nông dân, từng bước xây dựng các hợp tác
xã nông nghiệp theo Luật hợp tác xã.
Đại hội IX của Đảng và nhất là Nghò quyết Trung ương V về “Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010”
đã làm rõ hơn những nội dung tổng quát và quan điểm của Đảng về công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đó là quá trình chuyển dòch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến
và thò trường, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành
tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bò, kỹ thuật và
công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thò trường. Đó là
quá trình chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá
trò sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dòch vụ; giảm dần tỷ trọng sản
phẩm và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, quy
hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn
minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ở nông
thôn.
Đồng thời Nghò quyết cũng chỉ rõ 5 quan điểm về đẩy nhanh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn: Đó là một trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ưu tiên phát
triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực con người, ứng dụng rộng
rãi thành tựu khoa học, công nghệ, thúc đẩy chuyển dòch cơ cấu kinh tế theo hướng

phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thò trường để sản xuất hàng hóa quy mô lớn
với chất lượng và hiệu quả cao, bảo vệ môi trường, phòng chống, hạn chế và giảm
nhẹ thiên tai, phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững. Dựa vào nội lực là
chính, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài. Kết hợp chặt chẽ các
vấn đề kinh tế và xã hội, xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã tiếp tục khẳng đònh vai trò, vò trí của
nông dân, nông nghiệp, nông thôn, đồng thời chỉ rõ đònh hướng phát triển về kinh
tế: Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và
nâng cao đời sống nhân dân. Hiện nay và trong nhiều năm tới vấn đề nông nghiệp,
nông dân và nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải coi trọng đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng
một nền nông nghiệp hàng hóa lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có
năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao, tạo điều kiện từng bước hình
thành nền nông nghiệp sạch. Gắn phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn mới,
giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nông thôn và thành thò, giữa các vùng miền,
góp phần giữ vững ổn đònh chính trò-xã hội. Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội X;
Hội nghò lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghò quyết: “Về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn” tiếp tục khẳng đònh những quan điểm, mục
tiêu, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện
đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả.
Nông nghiệp, nông dân và nông thôn là những vấn đề mang tầm cỡ
chiến lược của cách mạng Việt Nam, có tầm quan trọng đặc biệt trong công cuộc
giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong tư duy của Đảng nông nghiệp,
nông dân, nông thôn là sự phát triển về lý luận, tổng kết sâu sắc thực tiễn tiến
trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước; có giá trò soi sáng cho những chặng đường cách mạng tiếp theo.
2. Các giải pháp thúc đẩy kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp,nông
thôn hiện nay :

Từ tình hình thực tế và những thách thức đang đặt ra, có thể thấy, để
xây dựng phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta hiện nay, cần thiết
phải thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Thứ nhất, đổi mới nhận thức về vò trí, vai trò của nông nghiệp,
nông dân, nông thôn đối với sự nghiệp cách mạng nước ta trong thời kỳ mới.
Trong những năm qua, mặc dù chủ trương của Đảng về phát triển nông nghiệp,
nông thôn là rất đúng đắn, nhưng do không ít cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa
nhận thức sâu sắc về vò trí, vai trò của nông nghiệp, nông thôn, nông dân, đối với
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nên việc thực hiện các chủ
trương của Đảng về vấn đề này còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở nhiều đòa phương chỉ chú trọng phát triển công nghiệp, coi đó mới là
thành quả của sự phát triển, còn nông nghiệp, nông thôn, nông dân là nhân tố kìm
hãm sự phát triển. Vì vậy, cần có một cuộc cách mạng thực sự từ tư duy đến hành
động, trước hết là có sự nhận thức thống nhất về vò trí, vai trò của vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn, nhất là người nông dân vừa là chủ thể vừa là người
được hưởng lợi trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Phải xác đònh
đây là bộ phận cấu thành chiến lược trong nền kinh tế - xã hội của đất nước. Bởi
vậy, giải quyết một cách nhanh chóng, có chất lượng, hiệu quả vấn đề này sẽ góp
phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, là cơ sở ổn đònh chính trò và an ninh
- quốc phòng, là yếu tố tối cần thiết bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
Thứ hai, tăng cường sự tác động của công nghiệp để phát triển
nông nghiệp, nông thôn toàn diện và gắn với quá trình đô thò hóa nông thôn.
Tăng sự tác động của công nghiệp đối với quá trình sản xuất nông nghiệp thông
qua cơ khí hóa, điện khí hóa để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản
phẩm cũng như tăng năng suất, hiệu quả lao động trong nông nghiệp là một vấn
đề hết sức quan trọng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời
sống nông dân. Bởi vậy,trên phng diện vó mô,cần bảo đảm sự cân đối, hài hòa
trong đầu tư, hỗ trợ phát triển giữa công nghiệp và nông nghiệp, nông thôn. Bên
cạnh việc ưu tiên đầu tư, hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp, dòch vụ và du
lòch, chúng ta vẫn phải chú trọng đầu tư, hỗ trợ phát triển nông nghiệp và các

ngành kinh tế nông thôn khác như công nghiệp chế biến, tiểu, thủ công nghiệp
Điều đó không chỉ đẩy mạnh và nâng cao chất lượng phát triển nông nghiệp, cải
thiện đời sống nông dân mà còn tạo động lực thúc đẩy công nghiệp phát triển,
cũng như đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong
tương lai không xa, sự tiến triển nhanh chóng của đô thò hóa không phải chỉ là sự
mở rộng và hiện đại hóa các thành phố, thò xã đã có, mà chủ yếu là đô thò hóa
nông thôn. Đô thò hóa nông thôn sẽ kéo theo một loạt vấn đề có tính chất phi nông
nghiệp, như đẩy mạnh phát triển công nghiệp (nhất là công nghiệp chế biến nông
sản) và các ngành dòch vụ, du lòch ở nông thôn, kể cả việc hình thành các khu,
cụm công nghiệp, chế xuất. Bởi vậy, ngay từ giờ, phải có phối hợp trong hoạch
đònh các dự án, chương trình tổng thể về xây dựng, phát triển các vùng nông thôn
mới theo hướng gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nông nghiệp và phát triển công
nghiệp, hiện đại hóa, đô thò hóa nông thôn.
Thứ ba, ứng dụng rộng rãi những thành tựu của khoa học, kỹ
thuật và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Để xây dựng một nền nông
nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và
sức cạnh tranh cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, góp phần xây dựng
nông thôn giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh , phải tăng cường ứng dụng
khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Trong thời gian tới,
cần:
1 - Tập trung cải tạo giống cây trồng, vật nuôi. Tạo và nhân nhanh các
giống có năng suất, chất lượng và giá trò cao bằng cách tăng cường hơn nữa năng
lực nghiên cứu trong nước, kết hợp với chuyển giao công nghệ từ nước ngoài để
chọn được những giống có hiệu quả cao nhất.
2 - Đưa nhanh công nghệ mới vào tất cả các khâu: sản xuất, thu hoạch, bảo
quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm.Đồng thời đẩy mạnh việc nghiên
cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới
hóa, tăng nhanh trang bò kỹ thuật, đổi mới công nghệ sản xuất nông nghiệp và
nông thôn, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật tiên tiến cho nông dân.
3 - Xây dựng thí điểm một số khu công nghệ cao dựa vào công nghệ sinh

học, công nghệ thông tin. Đây là nơi tập trung những tiến bộ khoa học - công nghệ
mới, những sáng tạo mới, với cách thức tổ chức quản lý hiện đại dựa vào tri thức
mới. Sau đó, nhân rộng để tạo bước chuyển biến đột phá trong sản xuất nông
nghiệp theo hướng kinh tế tri thức.
Để làm được điều đó, trước hết cần đổi mới cơ chế, chính sách quản lý đối
với khoa học, kỹ thuật và công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn,
nông dân theo hướng:
1 - Tổ chức, huy động lực lượng cán bộ khoa học, kỹ thuật và công
nghệ về nông thôn, cùng với bà con nông dân, các doanh nghiệp, các tổ chức
khuyến nông, các tổ chức chính trò, xã hội giải quyết các vấn đề về giống, công
nghệ chế biến, công nghệ sau thu hoạch, phát triển công nghiệp và dòch vụ, sử
dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
2 - Đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ cũng như các cơ
quan chuyển giao, ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ ở nông thôn được

×