Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận cao học quan hệ quốc tế phân tích xung đột mỹ và iraq năm 2003

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.69 KB, 31 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lý do em chọn đề tài: “Phân tích xung đột Mỹ và Iraq năm 2003” đó
chính là:
+ Quan hệ quốc tế đang mang lại rất nhiều lợi ích cho các quốc gia,
ngồi những lợi ích tích cực đó, khơng thể khơng kể đến những quan hệ quốc
tế mang tính tiêu cực, đó cũng chính là lý do em chọn đề tài về phân tích xung
đột giữa 2 đất nước là Mỹ và Iraq.
+ Là người dân Việt Nam, chắc hẳn chúng ta không thể quên những
thủ đoạn lịch sử trong thời chống giặc Pháp, mà quân đội Pháp đã thoả hiệp
với ta, với đỉnh cao là việc Pháp gửi “ tối hậu thư” ngày 18/12/1946 . Sự kiện
xung đột Mỹ và Iraq cũng có sự kiện vào ngày 17/3, Mỹ tuyên bố chấm dứt
ngoại giao và gửi tối hậu thư cho Iraq. Ngay sau sự kiện gửi tối hậu thư là
cuộc chiến tranh nổ ra. Qua đây em muốn lựa chọn đề tài “ Phân tích xung
đột Mỹ-Iraq năm 2003” từ đó em sẽ rút ra được nguyên do mà quan hệ quốc
tế tiêu cực mang lại cho những nước nói chung và Việt Nam nói riêng.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Qua bài nghiên cứu, sẽ giúp em có những kiến thức căn bản, những yếu
tố chủ chốt trong quan hệ quốc tế, phần nào hiểu được thêm những nguyên do
dẫn đến các cuộc xung đột vũ trang.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, em phân tích diễn biến cuộc xung đột Mỹ và Iraq,
phân tích nguyên do đến từ đâu và bài học để lại trong quan hệ quốc tế hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng mà em muốn nghiên cứu đó chính là cuộc xung đột giữa Mỹ
và Iraq.


2


3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là từ sự kiện Saddam Hussein trở thành Tổng
thống và cuộc chiến tranh đàn áp phong trào đòi độc lập của người Kurd và
Tổng thống Bush tuyên bố chấm dứt ngoại giao và đưa ra tối hậu thư cho
Saddam, cho tổng thống Iraq 48 giờ để rời khỏi Iraq đến khi Saddam bị bắt
vào ngày 13/12/2003 và bị chuyển giao cho chính quyền Iraq vào tháng
6/2004.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên những nội dung nền tảng kiến thức
trong giáo trình bộ mơn quan hệ quốc tế, lý luận dựa trên những cơ sở đã
được truyền tải từ giáo viên bộ môn và cơ sở để nghiên cứu đề tài còn dựa
vào các tài liệu tham khảo về quan hệ quốc tế.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên 2 phương pháp, đó là phương pháp nghiên
cứu lý luận và phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
5.1. Ý nghĩa lý luận
Qua đề tài, chúng em sẽ tổng hợp được những kiến thức quan trọng
trong quan hệ quốc tế, lưu trữ được thêm nội dung về quan hệ quốc tế và
những bài học từ đó.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài “ Phân tích về xung đột giữa Mỹ và Iraq” vào năm 2003 đã giúp
em có thêm nhiều bài học kinh nghiệm trong bối cảnh quan hệ quốc tế ngày
nay. Góp phần xây dựng một Việt Nam giàu mạnh.
6. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài

được phân thành 3 chương và 7 tiết.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG I
BỐI CẢNH TRƯỚC XUNG ĐỘT GIỮA MỸ VÀ IRAQ
VÀO NĂM 2003.
Cuộc tấn công vào Iraq năm 2003 bắt đầu từ ngày 20 tháng 3, chủ yếu
bởi quân đội Hoa Kỳ và Vương quốc Anh; 98% của quân lực đến từ hai nước
này, tuy nhiều quốc gia khác cũng tham gia. Cuộc giải phóng Iraq trở thành
giai đoạn đầu của sự kiện thường được gọi là Chiến tranh Iraq. Theo lịch sử,
nó có thể được gọi chính xác hơn là "Chiến tranh vùng Vịnh lần 3", tính từ
sau chiến tranh 8 năm giữa Iraq và Iran vào thập niên 1980. Lần này, Quân
đội Iraq đã bại trận hoàn toàn, và thủ đơ Bagdad được giải phóng ngày 9
tháng 4 năm 2003.
Ngày 1/5/ 2003, Tổng thống Hoa Kỳ George W.Bush tuyên bố là các
chiến dịch quan trọng đã kết thúc, tức là giai đoạn cầm quyền của và nhiệm
kỳ của Tổng thống Iraq Saddam Hussein đã kết thúc. Quân lực Liên hiệp cuối
cùng đã bắt được Saddam Hussein ngày 13 tháng 12 năm 2003. Sau đó, thời
kỳ quá độ bắt đầu, trong lúc đó tại Iraq bạo lực lan tràn do các lực lượng nổi
dậy phần nhiều là người Sunni theo Hồi giáo, và cũng có cả các tay súng của
mạng lưới khủng bố Al-Qaeda. Cuộc giải phóng năm 2003 là một phần
của cuộc chiến chống khủng bố quốc tế do Tổng thống Mỹ George W.
Bush khởi xướng sau vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9. Mối quan hệ
giữa Mỹ và Iraq đã chuyển từ đồng minh sang thù địch kể từ khi Iraq đem
quân xâm lược Kuwait (một đồng minh của Mỹ) năm 1990, dẫn đến
cuộc Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất. Trong vòng một thập kỷ sau đó,
Hoa Kỳ cùng với LHQ đã áp đặt các biện pháp trừng phạt khắc nghiệt đối với

Iraq, khiến kinh tế nước này rơi vào khủng hoảng. Năm 2003, Quốc hội và
chính phủ Hoa Kỳ đã đạt được sự đồng thuận về một cuộc giải phóng Iraq.
Chính quyền Bush viện dẫn lý do cho cuộc giải phóng rằng Iraq đang
sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMDs) và chính phủ Iraq đang đặt ra mối
4


đe dọa đối với Hoa Kỳ cũng như các đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực.
Một số quan chức Hoa Kỳ tin rằng Saddam đang chứa chấp và hỗ trợ alQaeda, bản thân Saddam Hussein cũng đã từng bày tỏ sự hả hê trên báo chí
khi chứng kiến nước Mỹ bị khủng bố trong sự kiện ngày 11-9-2001. Tuy vậy
nhìn chung đa số dư luận Mỹ ủng hộ cuộc chiến với mong muốn chấm dứt
chế độ độc tài đàn áp và mang lại nền dân chủ cho nhân dân Iraq (76% người
Mỹ ủng hộ hành động quân sự chống lại Iraq. Ước tính chế độ Saddam
Hussein đã gây ra cái chết của 250.000 người Iraq thông qua các chiến dịch
thanh trừng và diệt chủng trong hơn 30 năm cầm quyền.
1.Về phía Mỹ
Từ cuối tháng 12/2001, Nhà Trắng đã lập kế hoạch đánh Iraq, bắt đầu
từ các cuộc gặp liên tục giữa Bush và tướng Tommy R. Franks. Kế hoạch
càng mở rộng trong suốt năm 2002 khi CIA kết luận rằng, Saddam Hussein
không thể lật đổ nếu không bằng biện pháp nắm đấm quân sự. Trước đó, ngày
21/11/2001 (72 ngày sau vụ khủng bố 11/9), ông Bush đã yêu cầu Bộ trưởng
quốc phòng Donald Rumsfeld lập kịch bản đánh Iraq.
Ngày 16/2/2002, ông Bush ký lệnh yêu cầu CIA trợ giúp Lầu Năm
Góc. Vài tháng sau, tháng 7/2002, một nhóm CIA đã bị vào Bắc Iraq, tổ chức
cơng tác do thám đồng thời huấn luyện 87 người Iraq (mật danh
ROCKSTARS – những ngơi sao rock) với nhiệm vụ cung cấp tồn bộ thơng
tin liên quan tình báo, quốc phịng Iraq, trong đó có một CD-ROM chứa hồ sơ
cá nhân thành viên Tổ chức An ninh Iraq (SSO).
Tháng 3/2002, Tenet bí mật gặp hai nhân vật quan trọng: Massoud
Barzani và Jalal Talabani (thủ lĩnh hai nhóm lớn thuộc cộng đồng người Kurd,

Bắc Iraq). Tenet có một thơng điệp quan trọng: lần này, Mỹ hồn tồn nghiêm
túc; rằng tình báo lẫn qn đội Mỹ đang chuẩn bị đến vùng Vịnh; một giai
đoạn mới bắt đầu… Tiếp đó, Tenet đưa ra mồi nhử: hàng triệu USD đang sẵn
trong tay. Nếu viên chức Bộ Quốc phòng hoặc Bộ Ngoại giao trả tiền cho

5


chiến dịch lật đổ một chính phủ, điều này là phạm luật. Tuy nhiên, việc đó lại
được xem “hợp pháp” khi CIA đứng ra thực hiện
Hè 2002, ông Bush chuẩn y 700 triệu USD cho công tác chuẩn bị chiến
trường vùng Vịnh, trong đó việc nâng cấp sân bay, căn cứ, đường ống dẫn
nguyên liệu và đổ đầy kho đạn dược. Lấy từ ngân sách được Quốc hội chuẩn
y cho Afghanistan, Nhà Trắng đã âm thầm qua mặt Quốc hội trong kế hoạch
Iraq. Cũng trong hè 2002, xung đột giữa Ngoại trưởng Colin Powell và Phó
tổng thống Dick Cheney bắt đầu căng thẳng. Trong khi Powell đòi đưa vấn đề
ra Liên Hiệp Quốc, Cheney lại cho rằng, việc này chỉ tổ phí thời giờ. Đồng
minh Powell là Brent Scowcroft, nguyên cố vấn an ninh quốc gia thời ơng
Bush-cha.
Trên chính trường thế giới, Nhà Trắng nhận được tín hiệu ủng hộ đầu
tiên từ Thủ tướng Anh Tony Blair (trong cuộc gặp Bush tại Trại David vào
tháng 9/2002). Chính xác hơn, Tổng thống Bush đã yêu cầu Tony Blair ủng
hộ việc lật đổ Saddam Hussein trong bữa tiệc tại Nhà Trắng vào 9 ngày sau vụ
11/9…
Cuối năm 2002, ông Bush bắt đầu bồn chồn và hết kiên nhẫn trước tiến
trình thanh sát vũ khí của Hans Blix. Khơng lâu sau ngày đầu năm 2003, Bush
nói với cố vấn an ninh quốc gia Condoleezza Rice rằng: “Chúng ta sẽ không
thắng (trong chiến dịch ngoại giao). Thời gian khơng bên cạnh chúng ta. Có lẽ
chúng ta buộc phải đi đến giải pháp chiến tranh”. 10 ngày sau, ơng Bush
thơng báo quyết định mình cho cố vấn Tổng thống Karl Rove rồi sau đó là

Cheney, Powell, Rumsfeld và cả đại sứ Arập Xêút Bandar bin Sultan.
Ngày 11/1/2003, Cheney mời Bandar bin Sultan đến văn phòng riêng
tại chái Tây (Nhà Trắng). Cuộc họp có sự tham gia của Rumsfeld và tướng
Richard B. Myers (Tổng Tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ). Trên bàn
Cheney, Myers trải tấm bản đồ to ghi “TOP SECRET NOFORN” (Tuyệt mậtKhông dành cho người nước ngồi). Tiếp đó, Myers trình bày phần thứ nhất
của kế hoạch chiến tranh, trong đó có chiến dịch oanh tạc dữ dội suốt nhiều
6


ngày và mục tiêu chủ yếu là các sư đoàn Vệ binh cộng hòa Iraq cũng như bộ
tư lệnh quân đội Saddam Hussein. Cuộc chiến trên bộ sẽ tiếp theo, với lực
lượng bộ binh Mỹ kéo vào Iraq từ Kuwait, phối hợp mặt trận phía bắc từ Thổ
Nhĩ Kỳ (nếu nước này cho phép). Ngồi ra, cịn có kế hoạch triển khai lực
lượng đặc nhiệm cũng như tình báo bán vũ trang, đột nhập tất cả địa điểm mà
Saddam có thể phóng tên lửa hoặc máy bay vào Arập Xêút, Jordan hoặc
Israel. Đặc nhiệm cịn có nhiệm vụ phát 300 triệu USD cho các thủ lĩnh sắc
tộc địa phương, thủ lĩnh tôn giáo và sĩ quan cấp cao quân đội Saddam.
Lính đặc nhiệm sẽ xuất phát từ biên giới Iraq – Arập Xêút và do vậy
nhất thiết phải có sự trợ giúp che chắn từ Chính phủ Arập Xêút. Bandar bin
Sultan cho biết Arập Xêút có thể che giấu sự xuất hiện của lính đặc nhiệm Mỹ
bằng cách đóng cửa một sân bay dân sự tại Al Jawf ở sa mạc phía bắc, tung
liên tục các trực thăng dọc biên giới để nghi binh làm như tuần tra rồi lẳng
lặng rút lui. Trong thời gian đó, đặc nhiệm Mỹ có thể lập căn cứ dã chiến mà
không gây chú ý.
Đầu năm 2003, ông Bush yêu cầu ông Powell soạn diễn văn để ông
đọc tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Khi chuẩn bị viết, Powell nhận cú
điện từ Cheney, đề nghị xem lại vài chi tiết kết nối khủng bố với chế độ
Saddam. Dò lại báo cáo do tùy viên Cheney (Lewis Libby) đệ trình,
Powell để ý chi tiết bốn cuộc gặp giữa Mohamed Atta (thành viên nhóm
khủng bố 11/9) với một sĩ quan tình báo Iraq tại Prague. Biết rằng vụ này

chưa bao giờ có bằng chứng, Powell xóa ngay lập tức. Lúc đó, Powell vẫn
cịn đủ tỉnh táo để hiểu rằng, khơng nên biến Chính phủ Mỹ thành trò cười
cho dư luận thế giới, chỉ bởi hành động loan bố một nguồn tin chưa kiểm
chứng, một cách không thận trọng… Cuối cùng, trung tuần tháng 3/2003,
sau khi đã chuẩn bị đâu đó tương đối, bất luận làn sóng chỉ trích dâng cao
ngay tại Mỹ, Bush bắt đầu xoay tay nhấn nút tiến hành. Đêm 19/3/2003,
đợt oanh kích nhắm xuống Dinh tổng thống Iraq đã bắt đầu khai hỏa cho
cuộc chiến Iraq…
7


2. Về phía Iraq
Năm 1979, Saddam Hussein trở thành tổng thống Iraq, ông ta tiếp tục
các cải cách xã hội và đàn áp các đối thủ chính trị của đảng Baath.
Được Mỹ và cả Liên Xô cổ vũ, ông ta tiến hành chiến tranh chống Iran. Trong
cuộc chiến này, quân đội Iraq đã rất nhiều lần thực hiện các vụ tấn cơng
bằng vũ khí hóa học, trong đó có cả những vụ tấn công nhằm vào dân thường,
chẳng hạn như ở thị trấn Sardasht.. Hầu hết những cuộc tấn công này đều
được tiến hành theo mệnh lệnh của Saddam.
Trong nước, Saddam Hussein thực hiện chiến dịch đàn áp phong trào
đòi độc lập của người Kurd. Trong vụ thảm sát được tiến hành theo chỉ đạo
của Saddam Hussein tại làng Halabija, khoảng 3.200 đến 5.000 người Kurd
đã thiệt mạng. “Đây là vụ tấn cơng bằng vũ khí hóa học lớn nhất nhằm vào
thường dân trong lịch sử”. Cũng là vụ tấn cơng bằng vũ khí hóa học có quy
mơ lớn nhất trong lịch sử hiện đại. Trong chiến dịch quân sự ở Anfal (cịn gọi
là “Diệt chủng Anfal”), qn đội chính phủ Iraq đã giết chết khoảng 50.000182.000 người Kurd. Ước tính chế độ Saddam Hussein đã gây ra cái chết của
250.000 người Iraq thông qua các chiến dịch thanh trừng và diệt chủng trong
hơn 30 năm cầm quyền.
3.Bối cảnh thế giới
Sự phản đối mạnh mẽ của thế giới đối với chế độ độc tài của Saddam

Hussein đã bắt đầu kể từ khi Iraq đem quân xâm chiếm Kuwait năm 1990.
Cộng đồng quốc tế đã lên án mạnh mẽ cuộc xâm lược này, và đến năm 1991,
một liên minh quân sự do Hoa Kỳ lãnh đạo đã phát động Chiến tranh vùng
Vịnh và thành công trong việc đánh đuổi quân đội Iraq ra khỏi lãnh thổ
Kuwait. Sau chiến tranh vùng Vịnh, Mỹ và các đồng minh đã thực hiện nhiều
biện pháp để làm suy yếu chế độ Hussein. Những biện pháp này bao gồm các
lệnh trừng phạt kinh tế rất khắc nghiệt của Hội đồng Bảo an Liên Hợp
Quốc khiến cho nền kinh tế Iraq rơi vào khủng hoảng; việc thực thi các khu
vực cấm bay tại Iraq mà Mỹ và Anh tuyên bố là để bảo vệ cộng đồng người
8


Kurd và người Hồi giáo Shia, cùng với đó là các cuộc thanh tra nhằm đảm
bảo sự tuân thủ của Iraq đối với các nghị quyết của Liên Hợp Quốc, liên quan
đến kho vũ khí hủy diệt hàng loạt của Iraq.
Các cuộc thanh tra này được tiến hành bởi Ủy ban Đặc biệt của Liên
Hợp quốc (UNSCOM), hợp tác với cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế,
với mục đích đảm bảo rằng chính phủ Iraq sẽ tuân thủ nghị quyết của Liên
Hợp Quốc và phá hủy tất cả các kho dự trữ cũng như các cơ sở sản xuất vũ
khí hóa học, vũ khí sinh học hoặc vũ khí hạt nhân trên toàn lãnh thổ nước này.
Trong khoảng một thập kỷ sau cuộc Chiến tranh vùng Vịnh, Hội đồng
Bảo an Liên Hợp Quốc đã thông qua 16 nghị quyết kêu gọi Iraq loại bỏ hồn
tồn kho vũ khí hủy diệt hàng loạt. Nhiều quốc gia thành viên của LHQ cáo
buộc rằng chính phủ Iraq đã liên tục cản trở công việc thanh tra của Ủy ban
đặc biệt và không thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ giải giáp vũ khí hủy diệt
hang loạt. Các quan chức chính phủ Iraq cũng đã nhiều lần quấy rối các thanh
tra viên LHQ và không cho các thanh tra viên thực hiện công việc của mình.
Đáp trả những cáo buộc này, vào tháng 8 năm 1998 Saddam Hussein đã đình
chỉ hồn tồn việc hợp tác với các thanh tra viên Liên Hợp Quốc và trục xuất
họ về nước, ơng cịn cáo buộc rằng những người thanh tra viên này là “gián

điệp của Mỹ”.
Vào tháng 10 năm 1998, lật đổ chính quyền Saddam Hussein đã trở
thành trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ với việc ban
hành Đạo luật Giải phóng Iraq. Đạo luật này đã cung cấp 97 triệu USD cho
các "tổ chức dân chủ đối lập" ở Iraq để "thiết lập một chương trình hỗ trợ cho
quá trình chuyển đổi sang nền dân chủ ở Iraq". Đạo luật này trái ngược với
các điều khoản được quy định trong Nghị quyết 687 của Hội đồng Bảo an
Liên Hợp Quốc, vốn chỉ tập trung vào chương trình vũ khí hủy diệt hàng loạt
của Iraq mà khơng đề cập gì đến việc thay đổi chế độ. Một tháng sau khi Đạo
luật Giải phóng Iraq được thông qua, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh đã phát
động một chiến dịch ném bom lãnh thổ Iraq có tên là "Chiến dịch Cáo sa
9


mạc". Mục tiêu của chiến dịch này là cản trở khả năng sản xuất vũ khí hóa
học, vũ khí sinh học và vũ khí và hạt nhân của chính phủ Saddam Hussein,
nhưng chính phủ Mỹ cũng hy vọng nó cũng sẽ làm suy giảm sức mạnh của
Saddam.
Sau khi George W. Bush giành thắng lợi trong cuộc bầu cử tổng thống
năm 2000, chính phủ Mỹ đã quyết tâm thực hiện một chính sách cứng rắn hơn
đối với Iraq. Nền tảng chiến dịch của Đảng Cộng hòa trong cuộc bầu cử năm
2000 đã kêu gọi "thực hiện đầy đủ" Đạo Luật Giải phóng Iraq như một điểm
khởi đầu trong kế hoạch tiêu diệt Saddam.
Sau vụ khủng bố ngày 11/9, đội an ninh quốc gia của chính quyền Bush
đã thảo luận nghiêm túc về một cuộc xâm lược Iraq. Tổng thống Bush đã bàn
bạc với Bộ trưởng Quốc phòng Rumsfeld vào ngày 21 Tháng 11 và đưa ra
những chỉ đạo cho Rumsfield về việc tiến hành kế hoạch xâm chiếm Iraq có
mật danh “OPLAN 1003”. Tổng thống Bush bắt đầu công khai ý định của ông
về một cuộc can thiệp quân sự vào Iraq trong Bản Thông điệp Liên bang
tháng 1 năm 2002, trong đó ơng gọi Iraq là một trong ba thành viên của “Trục

Ma quỷ” (cùng với Iran và Bắc Triều Tiên) và tuyên bố rằng "Hoa Kỳ sẽ
không cho phép các chế độ nguy hiểm nhất thế giới này đe dọa chúng ta bằng
thứ vũ khí nguy hiểm nhất thế giới". Bush cũng thể hiện quyết tâm lật đổ
chính quyền Saddam Hussein của Hoa Kỳ với cộng đồng quốc tế trong bài
phát biểu ngày 12 tháng 9 năm 2002 trước Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
Vào tháng 10 năm 2002, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua " Nghị quyết
Iraq", cho phép Tổng thống "sử dụng mọi biện pháp cần thiết" để chống lại
Iraq. Hầu hết người Mỹ tin rằng Saddam đang sở hữu vũ khí hủy diệt hàng
loạt. Đến tháng 2 năm 2003, 64% người Mỹ ủng hộ tiến hành một chiến dịch
quân sự nhằm lật đổ Saddam Hussein.Vào ngày 5 tháng 2 năm 2003, ngoại
trưởng Colin Powell đã có một bài phát biểu trước Hội đồng Bảo an Liên Hợp
Quốc để đưa ra bằng chứng cho thấy chính quyền Iraq đang che giấu việc sở
hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt.
10


Tuy nhiên, các thông tin mà Powell nêu ra hầu hết đều dựa trên tuyên
bố của Rafid Ahmed Alwan al-Janabi, mang biệt danh "Curveball", là một
người Iraq đang sống lưu vong ở Đức thời điểm đó. “Curveball” kể rằng anh
ta từng là một kỹ sư hóa học làm việc tại một nhà máy sản xuất vũ khí hủy
diệt hàng loạt bí mật của Iraq, và CIA đã sử dụng lời khai của “Curveball”
làm cơ sở để cáo buộc chính quyền Saddam vẫn chưa từ bỏ chương trình chế
tạo vũ khí hủy diệt hàng loạt. Tuy vậy câu chuyện của Al-Janabi về sau đã
được Nhóm điều tra về Iraq của chính phủ Mỹ xác nhận là khơng chính xác.
Có thể thấy việc chính phủ Mỹ một mực khẳng định rằng Iraq “sở hữu vũ khí
hủy diệt hàng loạt” hồn tồn là do thơng tin tình báo bị sai lệch, và Mỹ
khơng hề ngụy tạo bằng chứng để làm cớ cho việc tiến hành chiến tranh.
Vào tháng 3 năm 2003, Hoa Kỳ cùng với các đồng minh của họ
là Vương quốc Anh, Ba Lan, Úc, Tây Ban Nha, Đan Mạch và Ý đã bắt đầu
chuẩn bị cho cuộc xâm lược Iraq với một loạt các động thái quân sự.

Trong khi Pháp, Đức, Canada cùng với Nga đã phản đối kế hoạch này
và kêu gọi một giải pháp ngoại giao. Trong một bài phát biểu trước toàn quốc
vào ngày 17 tháng 3 năm 2003, Bush yêu cầu Saddam và hai con trai của ông
ta là Uday và Qusay hãy đầu hàng và rời khỏi Iraq trong vòng 48 giờ. Hạ viện
Anh đã tổ chức một cuộc bỏ phiếu để quyết định về việc nên hay không nên
tiến hành chiến tranh vào ngày 18 tháng ba năm 2003, và kết quả là số nghị sĩ
ủng hộ chiến tranh đã áp đảo với 412 phiếu. Có ba bộ trưởng thuộc chính phủ
Anh đã từ chức để phản đối cuộc chiến là John Denham, Lord Hunt of Kings
Heath, và lãnh đạo Hạ viện Robin Cook.

11


CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH XUNG ĐỘT MỸ VÀ IRAQ NĂM 2003
1. Chiến tranh Iraq bùng nổ
Vào ngày này năm 2003, Hoa Kỳ, cùng các lực lượng liên minh chủ
yếu đến từ Vương quốc Anh, đã khơi mào cuộc chiến tại Iraq. Ngay sau khi
những vụ nổ bắt đầu lay chuyển Baghdad, thủ đơ Iraq, Tổng thống Mỹ khi đó
là George W. Bush đã lên phát biểu trên truyền hình: “Vào giờ này, các lực
lượng của Hoa Kỳ và đồng minh đang ở trong giai đoạn đầu của những hoạt
động quân sự nhằm giải giáp Iraq, giải phóng người dân của họ, và bảo vệ
thế giới khỏi hiểm nguy.” Tổng thống Bush và các cố vấn của ơng quyết định
gây chiến vì tin rằng Iraq, dưới tay kẻ độc tài Saddam Hussein, sở hữu hoặc
đang trong quá trình xây dựng các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Chiến sự bắt đầu khoảng 90 phút sau hạn chót mà Mỹ đặt ra cho
Saddam Hussein, hoặc phải rời khỏi Iraq, hoặc phải đối mặt với chiến tranh.
Những mục tiêu đầu tiên mà theo Bush là “có tầm quan trọng qn sự” bị tấn
cơng bằng một loạt tên lửa Tomahawk đến từ những máy bay ném bom và tàu
chiến đóng quân ở Vịnh Ba Tư. Để đáp lại cuộc tấn cơng, đài phát thanh Cộng

hịa Iraq ở Baghdad thông báo, “những tên quỷ dữ, kẻ thù của Chúa, của quê
hương và nhân loại, đã ngu ngốc xâm lược tổ quốc và nhân dân chúng tôi.”
Dù Saddam Hussein tuyên bố hồi đầu tháng 3 năm 2003 rằng “khơng
nghi ngờ gì các tín hữu sẽ chiến thắng trong cuộc chiến chống quân xâm
lược,” ông ta đã phải bỏ trốn sau khi Mỹ đổ bộ, chỉ thỉnh thoảng phát biểu với
người dân của mình thơng qua những đoạn băng ghi âm. Lực lượng liên minh
đã lật đổ chính quyền Hussein và kiểm soát các thành phố lớn của Iraq chỉ sau
3 tuần với rất ít thương vong. Tổng thống Bush tuyên bố kết thúc hoạt động
chiến đấu quy mô lớn vào ngày 1 tháng 5 năm 2003. Dù lực lượng quân sự
thông thường của Iraq đã bị đánh bại, quân nổi dậy đã tiếp tục tiến hành chiến
tranh du kích dữ dội trên cả nước trong nhiều năm sau khi Mỹ tuyên bố chiến
12


thắng quân sự, kết quả là hàng ngàn người dân, binh lính của lực lượng liên
minh và phe nổi dậy thiệt mạng.
Sau một cuộc truy lùng gắt gao, lính Mỹ tìm thấy Saddam Hussein trốn
trong một cái hố sâu khoảng 1,8 đến 2,4 mét, cách thành phố quê nhà Tikrit
khoảng 14,5 km. Ơng ta khơng chống cự và khơng bị thương trong cuộc bắt
giữ. Một người lính có mặt tại hiện trường mô tả ông ta là “người đàn ông đầu
hàng trước số phận.” Hussein bị bắt giữ và bị đưa ra tịa vì tội ác chống lại
nhân dân, bao gồm cả giết người hàng loại, vào tháng 10 năm 2005.
Tháng 6 năm 2004, chính phủ lâm thời được lập ra sau khi Hussein bị
lật đổ chuyển giao quyền lực cho Chính phủ Lâm thời Iraq. Tháng 1 năm
2005, người dân Iraq bầu lên 275 thành viên Quốc hội. Một hiến pháp mới
cho đất nước được phê chuẩn vào tháng 10 năm đó. Ngày 6 tháng 11 năm
2006, Saddam Hussein bị cáo buộc phạm các tội ác chống lại nhân loại và bị
kết án tử hình bằng cách treo cổ. Sau khi kháng cáo bất thành, ông bị hành
quyết vào ngày 30 tháng 12 năm 2006. Người ta chưa bao giờ phát hiện được
vũ khí hủy diệt hàng loạt ở Iraq.

Nét nổi bật của cuộc chiến này là việc Mỹ đã rất thành công trong việc
tạo cớ đưa quân vào Iraq. Khi ấy Mỹ một mực khẳng định rằng Iraq vẫn đang
sở hữu và phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt (gồm vũ khí hạt nhân, hóa học
và sinh học), đồng thời có liên hệ với tổ chức khủng bố al-Qaeda. Tất nhiên
Mỹ và cả Liên Hợp Quốc đã khơng thể tìm thấy bằng chứng cho điều này
ngay trước cuộc chiến. Dù không nhận được nghị quyết phê chuẩn của Liên
Hợp Quốc (do thiếu chứng cứ) và bị thế giới phản đối, Tổng thống Mỹ
George W. Bush vẫn phát động Chiến tranh xâm lược Iraq dựa trên các cáo
buộc của mình.
Trong khi đó, Iraq đã gần suy kiệt sau thất bại trong Chiến tranh Vùng
Vịnh lần 1 (bị tới 34 nước do Mỹ đứng đầu đánh cho “tơi tả”) và các lệnh
trừng phạt của Liên Hợp Quốc sau đó. Thực tế, Iraq từng có chương trình chế
bom hạt nhân nhưng chưa tạo ra được 1 quả bom nào và cũng đã từ bỏ
13


chương trình này. Cịn vũ khí sinh học và hóa học thì Iraq từng có (và đã từng
sử dụng trong chiến tranh với Iran) nhưng sau năm 1991, Iraq đã ngừng phát
triển các loại vũ khí này, đồng thời tiến hành tiêu hủy chúng. Ngoài ra, trước
sức ép của Mỹ và đồng minh, Iraq còn phá hủy dần kho tên lửa của mình
trong nỗ lực tránh nguy cơ nổ ra chiến tranh - một điều Iraq không hề mong
muốn trong bối cảnh đất nước đang hết sức kiệt quệ và bị cấm vận.
Mặc dù Iraq đã tỏ ra hợp tác và đã phải rất “khổ sở” cố gắng chứng
minh mình “chẳng hề có” vũ khí hủy diệt hàng loạt, Mỹ vẫn khơng “đối
hồi” và chiến tranh đã xảy đến. Điều trớ trêu là sau khi đã tiến quân vào Iraq
và hạ bệ được ông Saddam Hussein, Mỹ và đồng minh của mình vẫn khơng
tài nào tìm được vũ khí hủy diệt hàng loạt ở đây để biện minh cho cuộc chiến.
Đến năm 2008, khi sắp sửa kết thúc nhiệm kỳ tổng thống của mình, ơng
Bush đã thú nhận trên kênh truyền hình ABC (được tờ Guardian dẫn lại) rằng
quyết định tiến hành chiến tranh chống lại Saddam Hussein đã dựa trên tin tức

tình báo sai và đây là điều hối tiếc lớn nhất trong đời làm tổng thống của ông.
Dẫu vậy, ông vẫn bảo vệ quyết định để lại quân Mỹ ở Iraq (phải đến năm
2011 quân Mỹ mới rút hết khỏi quốc gia này). Sang năm 2009, đến lượt Thủ
tướng Anh Tony Blair, đồng minh thân cận của Mỹ trong Chiến tranh Iraq,
thừa nhận trên BBC rằng dù cho Iraq năm 2003 khơng có vũ khí hủy diệt
hàng loạt thì ơng vẫn ủng hộ cuộc chiến nhằm loại bỏ Saddam Hussein.
Vì những điều này mà nhiều người coi Chiến tranh Iraq 2003 thực chất
là 1 cuộc chiến vì dầu mỏ, trong đó Mỹ-Anh muốn dựng lên 1 chính phủ thân
họ và sẵn sàng cho các công ty Mỹ và Anh vào khai thác nguồn tài nguyên
dầu khí phong phú của quốc gia Trung Đông này.
Để đánh Iraq, người ta lấy cớ vũ khí hủy diệt hàng loạt. Khi đánh xong
rồi và khơng tìm thấy vũ khí hủy diệt hàng loạt (trừ 1 số ít khơng đáng kể bị
vứt bỏ và sót lại từ trước năm 1991), cũng khơng có ai phải chịu trách nhiệm
hay bị “xử lý” vì những thơng tin sai và những hành động võ đốn cả. Chỉ có
một thực tế: Chủ quyền 1 quốc gia bị xâm phạm một cách dễ dàng, Tổng
14


thống nước này bị lật đổ và xử tử, còn người dân Iraq thì phải hứng chịu bao
khổ đau do chiến tranh gây ra.
2. Một số hình ảnh minh hoạ trong cuộc xung đột giữa Mỹ và Iraq

Tổng thống Iraq Saddam Hussein (giữa) nói chuyện với sĩ quan lực
lượng tinh nhuệ Vệ binh Cộng hòa ở Baghdad ngày 1/3/2003.
Iraq đã bắt đầu phá hủy các tên lửa al-Samoud 2 của mình theo lệnh
của Liên Hợp Quốc, và cũng đã đồng ý với các thanh sát viên vũ khí về lịch
trình dỡ bỏ tồn bộ chương trình tên lửa của nước này.

15



Khói che phủ dinh Tổng thống Saddam Hussein trong vụ oanh tạc
Baghdad ồ ạt do Mỹ chỉ huy vào ngày 21/3/2003. Lực lượng đa quốc gia đã
khơng kích một cách mau lẹ và dữ dội, tạo nên các quả cầu lửa và những
tiếng nổ inh tai cùng với các đám mây khói bên trên trung tâm thành phố.
Tên lửa đã lao thẳng vào khu vực chính trong dinh Tổng thống bên bờ
sơng Tigris cũng như các tịa nhà khác của chính phủ
3. Hậu quả
3.1. Về phía Mỹ
3.1.1 tổn thất về con người
+ Tổng số lính Mỹ bị giết từ ngày 19-3-2003 đến ngày 16-6-2004: 836
binh sĩ. Từ khi Tổng thống Mỹ Bush tuyên bố chấm dứt chiến tranh ngày 1-52003 đến ngày 10-6-2004, 693 binh sĩ Mỹ bị giết. Từ khi bắt đầu chiến tranh
đến nay, hơn 5.134 lính Mỹ bị thương, trong đó từ ngày 1-5-2003 đến nay có
4.593 binh sĩ Mỹ bị thương.
+ Tổng số nhà thầu bị chết: Khoảng 50 - 90 nhà thầu dân sự, những nhà
truyền giáo và nhân viên dân sự nước ngoài bị giết, trong đó có 36 người Mỹ.
16


+ Tổng số nhà báo bị chết: 30 nhân viên truyền thơng, nhà báo và
phóng viên quốc tế đã chết ở Iraq, trong đó có tám nhà báo làm việc cho các
công ty của Mỹ, kể từ khi Tổng thống Bush tuyên bố kết thúc chiến tranh
ngày 1-5-2003, số nhà báo chết là 21 người.
3.1.2 tổn thất về an ninh:
Tuyển mộ và hoạt động khủng bố: Hiện nay, lực lượng Al Qaeda có
khoảng 18.000 tên, trong đó có 1.000 tên đang hoạt động tại Iraq. Một cựu
chuyên gia nghiên cứu của CIA và cũng là cựu quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ
cơng bố tài liệu, trong đó cho biết, năm 2003, các vụ tiến công khủng bố đã
giết hại 390 người và làm bị thương 1.892 người. Năm 2003, có 98 vụ đánh
bom liều chết xảy ra trên thế giới.

Niềm tin vào nước Mỹ giảm: Các cuộc thăm dò dư luận cho thấy, cuộc
chiến tranh Iraq đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến vị trí của Mỹ và lịng tin của
thế giới đối với Mỹ. Nhiều cuộc khảo sát ở tám nước châu Âu và các nước Arập đều khẳng định, cuộc chiến tranh Iraq đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến
cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu. Tại Mỹ, 54% số người Mỹ cảm thấy
"tình hình Iraq khơng đáng để Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh".
Các sai lầm quân sự: Một số sĩ quan quân đội Mỹ đã chỉ trích gay gắt
cuộc chiến tranh Iraq, trong đó có tướng về hưu A.Zinni, cựu tư lệnh Bộ chỉ
huy Trung ương Mỹ, tố cáo chính quyền dựa vào các lý do giả tạo để tiến
hành chiến tranh, từ bỏ các nước đồng minh truyền thống, dựa dẫm và tin
tưởng vào các nhân vật Iraq lưu vong, khơng có kế hoạch sau chiến tranh và
làm cho nước Mỹ trở nên thiếu an toàn.
Tinh thần binh sĩ giảm sút và thiếu trang, thiết bị chiến đấu: Một cuộc
khảo sát do lục quân tiến hành tháng 3-2004 cho thấy, 52% binh sĩ Mỹ có tinh
thần yếu kém và ba phần tư binh sĩ khẳng định các quan chức chỉ huy đơn vị
của họ thiếu năng lực. Tình trạng thiếu trang thiết bị chiến đấu đang diễn ra
nghiêm trọng. Ðến tháng 6-2004, do lục quân vẫn không đủ áo chống đạn để
trang bị cho binh sĩ nên nhiều gia đình đã phải bỏ tiền mua quần áo trang bị
cho con em họ.
17


Thiếu lực lượng phản ứng đầu tiên: Hiện nay, lực lượng cảnh vệ quốc
gia chiếm gần một phần ba các đơn vị lục quân Mỹ tại Iraq.Việc triển khai các
đơn vị cảnh vệ quốc gia ở Iraq đã tạo ra gánh nặng cho các cộng đồng trong
nước do thiếu nhiều đơn vị "lực lượng phản ứng đầu tiên", trong đó có lực
lượng cảnh sát, cứu hỏa, và nhân viên cấp cứu. Sử dụng các nhà thầu tư nhân:
Khoảng 20 nghìn nhà thầu tư nhân của Mỹ đang thực hiện các công việc liên
quan đến quân sự ở Iraq, mặc dù trong thực tế, các nhà thầu này không hề
được huấn luyện như các nhân viên quân sự.
3.1.3 Tổn thất về kinh tế:

Chi phí cho đến nay, Mỹ đã chấp thuận chi 126,1 tỷ USD cho Iraq và
chuẩn bị thông qua kế hoạch chi 25 tỷ USD nữa, nâng tổng số chi phí năm
2004 lên 151,1 tỷ USD. Giới lãnh đạo cam kết sẽ chi bổ sung cho Iraq sau khi
kết thúc các cuộc bầu cử vào cuối năm nay. Ảnh hưởng lâu dài đến nền kinh
tế của Mỹ: Nhà kinh tế D.Henwut dự kiến, chi phí chiến tranh sẽ gây thiệt hại
cho mỗi hộ gia đình trung bình khoảng 3.415 USD. Ông G.Garbred, nhà kinh
tế của Ðại học Texas, cho rằng mặc dù ban đầu chi phí chiến tranh có thể thúc
đẩy nền kinh tế, nhưng về lâu dài nó có thể gây khó khăn hàng thập kỷ cho
nền kinh tế, trong đó có thâm hụt thương mại và lạm phát cao.
Giá dầu lửa: Giá hơi đốt ở Mỹ tháng 5-2004 là hai USD/thùng. Việc
tăng giá hơi đốt này một phần do tình hình khó khăn ở Iraq gây nên. Cuộc
điều tra mới nhất cho thấy, 85% số người Mỹ khẳng định họ bị ảnh hưởng do
giá hơi đốt tăng. Nếu giá dầu thô tiếp tục ở mức 40 USD/thùng và kéo dài một
năm, GDP của Mỹ sẽ giảm khoảng 50 tỷ USD.
Tác động kinh tế đối với gia đình binh sĩ: Từ khi bắt đầu các cuộc chiến
ở Iraq và Afghanistan, 364.000 binh sĩ thuộc lực lượng dự bị và binh sĩ cảnh
vệ quốc gia đã được gọi nhập ngũ, và thời gian phục vụ thường kéo dài 20
tháng. Các cuộc khảo sát cho thấy khoảng 30-40% binh sĩ dự bị và binh sĩ
cảnh vệ quốc gia được hưởng lương thấp hơn so với trước đó, khi họ từ bỏ
nghề nghiệp dân sự để tham gia quân đội. Năm 2002 - 2003, số lượng gia
18


đình binh sĩ đề nghị được cấp tem phiếu thực phẩm và bữa ăn tự do tăng vài
trăm phần trăm.
3.2. Về phía Iraq
3.2.1: tổn thất về con người:
Số người chết và bị thương. Tính đến ngày 16-6-2004, khoảng 11.317
cơng dân Iraq bị chết do hậu quả của cuộc chiến tranh và chiếm đóng của Mỹ.
Cùng thời gian này, khoảng 40.000 người Iraq bị thương. Trong các chiến

dịch "quân sự lớn", khoảng 4.895 đến 6.370 binh sĩ Iraq và lực lượng nổi dậy
bị giết.
Ảnh hưởng của chất uranium làm tan máu. Nhiều nhà khoa học khẳng
định, do Mỹ sử dụng một khối lượng vũ khí uranium làm tan máu trong chiến
tranh vùng Vịnh trước đây nên một số binh sĩ thường xuyên bị đau ốm, nhưng
hiện nay, số trẻ sơ sinh ở khu vực Basra bị ảnh hưởng của vũ khí chứa
uranium làm tan máu còn lớn gấp bảy lần.
Tổn thất an ninh: Tình trạng tội phạm tăng. Giết người, hãm hiếp và bắt
cóc tăng mạnh từ tháng 3-2003 nên trẻ em không dám đến trường và phụ nữ
không dám ra đường ban đêm. Chết do bạo lực tăng từ mức trung bình 14
người/tháng năm 2002 lên 357 người/tháng năm 2003.
Tổn thất tâm lý: Cuộc sống dưới chế độ chiếm đóng khơng có an ninh
cơ bản nhất đã tàn phá người dân Iraq. Một cuộc thăm dị do chính quyền lâm
thời liên minh của Mỹ thực hiện tháng 5-2004 cho thấy, 80% dân chúng Iraq
nói rằng họ khơng tin các nhà chức trách Mỹ hoặc lực lượng liên minh; 55%
số dân chúng cảm thấy an toàn hơn nếu quân đội Mỹ và quân đội nước ngoài
rút khỏi Iraq.
3.2.2: tổn thất kinh tế
Tỷ lệ thất nghiệp tại Iraq tăng gấp hai lần, từ 30% trước chiến tranh lên
60% vào mùa hè năm 2003. Mặc dù hiện nay chính quyền Bush tuyên bố thất
nghiệp ở Iraq giảm, nhưng chỉ có 1% tổng số bảy triệu người thuộc lực lượng
lao động tham gia các dự án tái thiết. Các nhà thầu chiến tranh: Hiện nay phần
19


lớn công việc tái thiết Iraq được giao cho các công ty Mỹ chứ không phải các
công ty Iraq.
Kinh tế dầu mỏ của Iraq: Tình trạng bạo lực chống chiếm đóng khiến
Iraq gặp khó khăn trong việc tận dụng các tài sản dầu mỏ. Cho đến nay, bọn
khủng bố đã tiến hành khoảng 130 vụ tiến công vào các cơ sở hạ tầng dầu mỏ

của Iraq. Năm 2003, sản xuất dầu mỏ của Iraq đạt 1,33 triệu thùng/ngày, giảm
so với 2,04 triệu thùng/ngày năm 2002.
Cơ sở hạ tầng y tế: Sau hơn một thập kỷ bị phá hủy bởi lệnh cấm vận,
các cơ sở y tế của Iraq tiếp tục bị tàn phá nặng nề trong thời gian chiến tranh
và nạn cướp bóc sau chiến tranh. Nhiều bệnh viện thiếu nguồn cung cấp thuốc
men và phải nhận quá nhiều bệnh nhân.
Giáo dục: UNICEF cho rằng hơn 200 trường học đã bị phá hủy trong
cuộc xung đột và hàng nghìn trường học bị cướp phá sau khi S.Hussein sụp
đổ. Do lo sợ an ninh, ở thời điểm tháng 4-2004, số lượng học sinh đến trường
vẫn thấp hơn thời kỳ trước chiến tranh. Môi trường: Cuộc tiến công do Mỹ
cầm đầu đã phá hủy toàn bộ hệ thống nước thải, nước sạch và làm hư hại môi
trường sinh thái sa mạc của Iraq. Môi trường cũng bị ảnh hưởng bởi ngọn lửa
của các giếng dầu, từ đó đe dọa cuộc sống của con người và mơi trường. Các
vụ nổ mìn, đạn pháo và nhiều phương tiện chiến tranh khác làm ít nhất 20
người bị thương/tháng.
Tổn thất về nhân quyền: Sau khi chế độ Hu-xê-in sụp đổ, các lực lượng
chiếm đóng tiếp tục vi phạm nhân quyền của người Iraq. Ngồi chuyện lính
Mỹ công khai ngược đãi tù nhân Iraq, Quân đội Mỹ đang điều tra 34 trường
hợp tù nhân Iraq bị chết do các kỹ thuật thẩm vấn.
Tổn thất về chủ quyền: Mặc dù Mỹ tuyên bố "bàn giao chủ quyền" cho
Iraq, nhưng Iraq sẽ tiếp tục bị chiếm đóng bởi quân đội Mỹ và liên minh và
khơng độc lập về chính trị cũng như kinh tế. Chính phủ lâm thời Iraq sẽ
khơng có quyền bác bỏ các chỉ thị của Chính quyền lâm thời liên minh do
Mỹ cầm đầu.
20


3.3. tổn thất của thế giới
Tổn thất về con người: Mặc dù người Mỹ chiếm phần lớn quân đội và
các nhà thầu ở Iraq, nhưng binh sĩ của liên quân do Mỹ cầm đầu bị chết và bị

thương trong chiến tranh Iraq là 116 người. Ngoài ra, do chú ý quá nhiều đến
Iraq nên thế giới không chú ý đến cuộc khủng hoảng nhân quyền ở những nơi
khác, chẳng hạn như ở Sudan.
Luật pháp quốc tế: Quyết định đơn phương tiến hành cuộc chiến tranh
Iraq của Mỹ đã vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc, tạo tiền lệ nguy hiểm
cho nhiều nước khác có thể nhân cơ hội này phản ứng quân sự trước các mối
đe dọa. Quân đội Mỹ cũng vi phạm Cơng ước Geneve, từ đó, trong tương lai
có thể nhiều nước khác cũng phớt lờ luật pháp quốc tế để đối xử tàn bạo với
dân chúng và tù nhân.
Liên hợp quốc: Rõ ràng, chính quyền Bush đã tiến cơng tính pháp lý và
niềm tin của Liên Hợp Quốc, phá hoại khả năng hành động trong tương lai
của Liên Hợp Quốc trên các lĩnh vực như giải trừ vũ khí cũng như giải quyết
các cuộc xung đột trên toàn cầu. Gần đây, các nỗ lực thuyết phục Liên Hợp
Quốc cơng nhận một Chính phủ Iraq khơng qua bầu cử, mà do Mỹ dựng lên,
đã phá hủy toàn bộ chủ quyền quốc gia của Iraq.
Liên minh: Trước sự phản đối trong Hội đồng Bảo an, chính quyền Mỹ
âm mưu xây dựng một lực lượng đa quốc gia để tiến hành chiến tranh bằng
cách thúc ép chính phủ các nước khác tham gia cái gọi là "liên minh tự
nguyện". Hành động này không chỉ đánh lừa Liên Hợp Quốc mà còn phá hoại
nền dân chủ ở nhiều nước liên minh, những nơi có khoảng 90% số dân chúng
phản đối cuộc chiến tranh.
Kinh tế tồn cầu: 151,1 tỷ USD chi phí cho cuộc chiến tranh của Mỹ
đáng lẽ được sử dụng để giảm bớt một phần hai số người nghèo đói trên thế
giới, mua thuốc chữa trị cho những người bệnh HIV/AIDS tiêm chủng cho trẻ
em, đáp ứng các nhu cầu vệ sinh và nước sạch của thế giới đang phát triển

21


hơn hai năm qua. Cuộc chiến tranh làm cho thế giới có nguy cơ trở lại tình

trạng thiếu dầu lửa nghiêm trọng như những năm 70 của thế kỷ trước.
An ninh tồn cầu: Cuộc chiến tranh và sự chiếm đóng do Mỹ cầm đầu
đã kích động các tổ chức khủng bố, đặt nhân dân Iraq cũng như thế giới trước
nguy cơ của các cuộc tiến cơng.
Mơi trường tồn cầu: Các loại vũ khí chứa uranium làm tan máu của
quân đội Mỹ sẽ làm ô nhiễm nguồn nước và đất đai của Iraq và sẽ ảnh hưởng
đến nhiều nước khác. Thí dụ sông Tigrit đã bị ô nhiễm nặng - chảy qua Iraq,
Iran, Kuwait.
Nhân quyền: Báo cáo của Bộ Tư pháp Mỹ khẳng định, hành động
ngược đãi tù nhân của quân đội Mỹ vi phạm trắng trợn Công ước quốc tế
chống tra tấn (Mỹ đã ký vào bản Công ước này). Hành động này của Mỹ sẽ
tạo tiền lệ cho việc tra tấn và đối xử tàn bạo của các chính phủ trên khắp
thế giới.

22


CHƯƠNG III
LIÊN HỆ TỚI BỐI CẢNH VIỆT NAM TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ
1. Một số vấn đề đặt ra đối với quốc phòng an ninh bảo vệ tổ quốc
hiện nay
Hiện nay, cùng những tiến bộ vượt bậc của khoa học - công nghệ và
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu, sự
biến động của tình hình thế giới, khu vực đem lại cả thuận lợi và thời cơ, khó
khăn và thách thức đan xen, đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới đối với sự
nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh đó, hơn bao giờ
hết, chúng ta ln tỉnh táo, chủ động ứng phó và giải quyết linh hoạt, hiệu quả
mọi tình huống, góp phần đẩy mạnh cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thế giới đang trải qua một thời kỳ nhiều biến động, nhanh chóng, phức

tạp, khó đốn định. Hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, là dịng
chảy chính và lợi ích chung của các nước. Xu thế đa cực, đa trung tâm ngày
càng rõ nét và trở thành xu thế chủ đạo, vai trò của các tổ chức khu vực trên
các châu lục ngày càng gia tăng, tạo ra mối quan hệ đan xen, tăng cường hợp
tác. Dưới tác động của tồn cầu hóa, các nước đẩy mạnh tiến trình liên kết
kinh tế, với những hình thức ngày càng đa dạng, sâu rộng, trên nhiều lĩnh vực,
là động lực phát triển. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tác động sâu rộng
đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội đang là động lực hình thành xã hội thông
tin, nền sản xuất thông minh, kinh tế tri thức, thúc đẩy quá trình cải cách, đổi
mới, sáng tạo và tái cấu trúc ở mọi quốc gia, dân tộc, khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, thế giới hiện nay cũng đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ và thách
thức. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh
tranh, đấu tranh kiềm chế lẫn nhau quyết liệt, giành vị thế và lợi ích gây ra
tình hình phức tạp ở nhiều khu vực và nhiều nước. Xung đột dân tộc, tôn giáo,
khủng bố quốc tế, chiến tranh cục bộ, chiến tranh kinh tế, thương mại, chiến
23


tranh mạng, các hoạt động can thiệp, lật đổ, bất tuân dân sự, tranh chấp chủ
quyền, lãnh thổ, tài nguyên… diễn ra dưới những hình thức mới, gay gắt hơn.
Chạy đua vũ trang tiếp tục gia tăng, tập trung giữa các nước lớn và các nước
láng giềng khu vực với nhau, kể cả trong sản xuất vũ khí thế hệ mới, được sử
dụng ở những điểm nóng, nếu khơng có cơ chế và kiểm soát chặt chẽ, sẽ là
mối nguy hiểm, đe dọa an ninh của toàn nhân loại. Cộng đồng quốc tế đang
phải đối phó với nhiều vấn đề tồn cầu, như: bảo vệ hịa bình, an ninh con
người, an ninh mạng, an ninh năng lượng, an ninh tài chính, an ninh lương
thực, khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, biến đổi khí hậu, thảm họa
thiên nhiên, đói nghèo, hậu quả của đại dịch Covid-19… có tính nghiêm
trọng. Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, dân túy, chủ nghĩa cường quyền
nước lớn, chủ nghĩa thực dụng gia tăng mạnh mẽ trong quan hệ quốc tế.

Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu đứng trước những
thách thức lớn. Việc đe dọa vũ lực và sử dụng vũ lực vẫn được nhiều thế lực
xác định là công cụ quan trọng để đạt mục tiêu bành trướng, áp đặt. Xu hướng
tập hợp lực lượng, liên kết - đấu tranh vì lợi ích quốc gia - dân tộc diễn ra gay
gắt, đặt các nước đang phát triển, nhất là những nước vừa và nhỏ, trước nhiều
sức ép, đặc biệt dưới tác động của cạnh tranh địa chính trị giữa các nước lớn.
Đối với nước ta, những thắng lợi sau gần 35 năm tiến hành công cuộc
đổi mới tiếp tục tạo đà cho kinh tế - xã hội phát triển, quốc phòng, an ninh
được củng cố, tăng cường. Sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành sáng suốt, quyết
liệt, hiệu quả của Đảng, Nhà nước, nhất là trong phát triển kinh tế - xã hội,
giữ vững an ninh, quốc phịng, phịng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí,
chủ động ứng phó, phịng, chống đại dịch Covid-19 vừa qua càng khẳng định
bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa; tăng thêm niềm tin của nhân dân
vào Đảng, Nhà nước, Quân đội và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; vị
thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Tuy nhiên, các
thế lực thù địch ln tìm cách đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hịa bình”, tăng
cường sử dụng các biện pháp “tấn công mềm”, tập trung làm chuyển biến về
24


chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, thúc đẩy q trình “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ; kích động, chia rẽ, địi “phi chính trị hóa Qn
đội”; hạ thấp, phủ nhận vai trị, uy tín lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ mục
tiêu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời điểm hiện nay, chúng ta
đang tổ chức đại hội đảng các cấp, hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII của Đảng, các thế lực thù địch tập trung chống phá quyết liệt hơn,
với nhiều hình thức mới, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt.
Những diễn biến của thế giới, khu vực và trong nước đã và đang đem
lại cả thuận lợi và thời cơ, khó khăn và thách thức đan xen, đặt ra những yêu
cầu mới đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã

hội chủ nghĩa.
Đất nước ta có thêm những thuận lợi, thời cơ trong giữ vững hịa bình,
ổn định, hợp tác, phát triển, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh. Đây chính là thời
điểm tốt cho chúng ta phát huy lợi thế, tính ưu việt của chế độ, sự thơng minh,
tính năng động, sáng tạo, khát vọng vươn lên của con người, dân tộc Việt
Nam để đi tắt, đón đầu, huy động cao độ nguồn lực, nâng cao sức mạnh mềm,
phát huy sức mạnh tổng hợp vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Chúng ta có điều kiện để lựa chọn những sách lược hợp lý, thực hiện
“dĩ bất biến, ứng vạn biến”, không bị chi phối trong quan hệ quốc tế, giảm sức
ép của các nước lớn; đẩy mạnh quan hệ hợp tác trong các vấn đề địa  chiến
lược để kiềm chế, đẩy lùi âm mưu, hành động vi phạm chủ quyền, lãnh thổ,
sự chống phá của các thế lực thù địch nhằm can thiệp công việc nội bộ, thực
hiện “diễn biến hịa bình” phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cũng có
những điều kiện thuận lợi hơn để tiếp cận nguồn vốn và công nghệ đa dạng,
tranh thủ thị trường, tham gia vào mạng lưới sản xuất và chuỗi cung ứng khu
vực và toàn cầu, tạo sức đột phá mới trong phát triển kinh tế - xã hội gắn với
tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, an ninh. Mặt khác, chúng ta cũng
có thêm nhiều điều kiện thuận lợi để tham gia ngày càng tích cực, hiệu quả
hơn vào việc giải quyết những vấn đề toàn cầu, như: gìn giữ hịa bình, phịng,
25


×