Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

HỢP tác ASEAN +1 là cơ CHẾ hợp tác NGOẠI KHỐI HIỆU QUẢ NHẤT TRONG ASEAN HIỆN NAY tiểu luận cao học quan hệ đối ngoại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.08 KB, 26 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: QUAN HỆ CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ
Đề tài:

HỢP TÁC ASEAN +1 LÀ CƠ CHẾ HỢP TÁC NGOẠI KHỐI HIỆU QUẢ
NHẤT TRONG ASEAN HIỆN NAY

HÀ NỘI, 05/2015
1


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU................................................................................................................................3
B. NỘI DUNG............................................................................................................................5
Chương 1. Khái quát về ASEAN +1...........................................................................................5
Chương 2. Thành tựu và tính hiệu quả của ASEAN +1.............................................................6
2.1. Hợp tác kinh tế - thương mại...............................................................................................6
2.2. Hợp tác chính trị - an ninh.................................................................................................13
2.3. Hợp tác trong các vực linh văn hóa – xã hội......................................................................17
Chương 3. Mục tiêu và triển vọng của ASEAN +1..................................................................22
3.1. Mục tiêu.............................................................................................................................22
3.2. Triển vọng của ASEAN +1................................................................................................24
C.KẾT LUẬN...........................................................................................................................25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................26

2


A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ( tên tiếng Anh là Association of


Shoutheast Asian Nations, viết tắt là ASEAN ) là một liên minh chính trị, kinh
tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này
được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967 và đến nay gồm có 11 quốc gia thành
viên: Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore, Philippines, Myanma, Brunei,
Việt Nam, Lào, Campuchia, Đông Timor. ASEAN bao gồm một diện tích đất
4,46 triệu km², là 3% tổng diện tích đất của Trái Đất, và có một dân số khoảng
600 triệu người, 8,8% dân số thế giới. Vùng biển của ASEAN là ba lần lớn hơn
so với đất. Trong năm 2010, kết hợp GDP danh nghĩa tại ASEAN đã phát triển
thành USD 1,8 nghìn tỷ. Nếu ASEAN là một thực thể duy nhất, quốc gia đó sẽ
xếp hạng trong các nền kinh tế lớn thứ 10 trên thế giới, sau Mỹ, Trung Quốc,
Nhật Bản, Ấn Độ, Đức, Nga, Pháp, Canada, Tây Ban Nha, Brazil, Anh, và Ý.
ASEAN được thành lập, bên cạnh việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế nội
khối, ASEAN còn có khuynh hướng “mờ” với các đối tác ngoại khối thông qua
các hình thái hợp tác quốc tế, thương mại.
Quan hệ đối ngoại và vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực được tăng
cường và nâng cao, thể hiện rõ qua những tiến triển mới và có ý nghĩa của các
khuôn khổ hợp tác khu vực do ASEAN giữ vai trò chủ đạo như ASEAN+1,
ASEAN+3, Cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) và Hội
nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng với các đối tác (ADMM+).
ASEAN cũng đã có những đóng góp quan trọng tại các diễn đàn quốc tế như
APEC, ASEM, G 20 và Liên Hợp Quốc. Các đối tác ngày càng coi trọng quan
hệ với ASEAN; ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực, đẩy mạnh hợp
tác nhiều mặt và gia tăng cam kết hỗ trợ ASEAN với nhiều hình thức, kể cả hỗ
trợ về tài chính.
3


Với khu vực Đông Á, môi trường hoà bình, an ninh, hợp tác và phát triển
được củng cố và tăng cường. Thông qua việc phát huy tác dụng của các cơ chế
và công cụ bảo đảm hoà bình và an ninh khu vực, ASEAN đã thúc đẩy đạt được

những chuyển biến tích cực trong nỗ lực tăng cường đối thoại và hợp tác, xây
dựng lòng tin và chia sẻ chuẩn mực ứng xử về các vấn đề chính trị - an ninh, kể
cả các vấn đề phức tạp như Biển Đông và Bán đảo Triều Tiên…Hợp tác nhằm
phát triển bền vững và ứng phó với các thách thức toàn cầu, nhất là về biến đổi
khí hậu và phòng chống thiên tai, hợp tác tiểu vùng Mê-Công cũng có những
tiến triển đáng kể, cả trong nội bộ ASEAN cũng như giữa ASEAN với các đối
tác thông qua các khuôn khổ ASEAN+1, ASEAN+3 và Cấp cao Đông Á
(EAS).
Một trong những biểu hiện rõ nét nhất là hợp tác ngoại khối ASEAN +1
với những thành tựu hợp tác đáng nể. Trong bài tập này em xin đề cập đến vấn
đề “Hợp tác ASEAN +1 là cơ chế hợp tác ngoại khối hiệu quả nhất của ASEAN
hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ.
Mục đích:
- Cung cấp thông tin về các quan hệ hợp tác trong nhóm ASEAN +1
- Từ đó hoạch định ra các chính sách hay đưa ra triển vọng nhằm nâng cao
mối quan hệ giữa các quốc gia trong ASEAN +1 ngày càng gần gũi, gắn
bó vầ phát triển.
Nhiệm vụ:
- Nêu và đánh giá khái quát về ASEAN +1
- Phân tích thành tựu và tinh hiệu quả của ASEAN +1 (thông qua quan hệ
hợp tác với các đối tác tiêu biểu như Liên minh Châu Âu (EU),Trung
Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ,...)
- Từ đó đưa ra mục tiêu và triển vọng về quan hệ hợp tác giữa các quốc gia
trong nhóm ASEAN +1 để đưa ASEAN +1 thành một tổ chức phát triển
toàn diện và có vị thế trên thế giới.
4


B. NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ ASEAN +1
ASEAN +1 là khuôn khổ hợp tác song phương của ASEAN với từng đối
tác bên ngoài. Đây là khuôn khổ hợp tác ngoiaj khối được thành lập sớm nhất
của ASEAN. Từ khi thành lập ASEAN đã thiết lập quan hệ song phương với các
quốc gia và các thực thể khác trong khu vực cũng như trên thế giới nhằm củng
cố vị thế của ASEAN. Hiện nay ASEAN duy trì đối ngoại (bao gồm cả đối
ngoại chính thức và đối ngoai theo từng lĩnh vực) với 12 quốc gia và tổ chức và
tổ chức quốc tế là Australia, Nhật Bản, Canada, New Zeland, EU, Hàn Quốc. Ân
Đọ, Trung Quốc, Nga, Pakistan và UNDP.

Hội nghị cấp cao ASEAN +1 đã diễn ra tại thủ đô Phnom Penh, Campuchia.
Bên cạnh đó, ASEAN còn là quan sát viên của Liên hợp quốc, có quan hệ
với nhiều tổ chức quốc tế khác như Khối thị trường chung Nam Mỹ, Hội đồng
hợp tác vùng Vịnh, Liên minh Ả Rập, Cộng đồng phát triển Nam Phi, Tổ chức
lao động thế giới…
Cùng với sự phát triển của Hiệp hội và xu thế hội nhập của thế giới,
ASEAN ngày càng củng cố quan hệ song phương với các đối tác thông qua việc
xây dựng cơ chế cũng như văn kiện pháp lý ghi nhận sự thỏa thuận của các bên.
Hiện nay, khuôn khổ hợp tác ASEAN +1 là khuôn khổ hợp tác đã đạt được
nhiều thành tựu trên thực tế và là cơ chế hợp tác ngoại khối hiệu quả nhất của
ASEAN.
5


CHƯƠNG 2. THÀNH TỰU VÀ TÍNH HIỆU QUẢ CỦA ASEAN +1
Trong năm qua, quan hệ giữa ASEAN với các đối tác chính theo khuôn
khổ ASEAN +1 được đẩy mạnh và nâng cấp. Việc tổ chức Cấp cao ASEAN +1
với một số đối tác (Nga, Australia, New Zeland, Hoa Kỳ và Liên hợp quốc)
ngoài Cấp cao hàng năm với 4 nước ( Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn
Độ), đã tạo động lực phát triển hơn nữa quan hệ giữa ASEAN với các đối tác

này. Quan hệ ASEAN- Hàn Quốc được nâng lên thành đối tác chiến lược, trong
lúc quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc và Nhật Bản tiếp tục phát triển
sâu rộng hơn; quan hệ ASEAN- Hoa Kỳ được nâng cấp lên tầm chiến lược;
quan hệ với các đối tác còn lại (Ấn Độ, Australia, New Zeland, Nga, EU,
Canada, Liên hợp quốc) đều đã trở thành quan hệ đối tác toàn diện. ASEAN và
các đối tác cũng đã triển khai nhiều hoạt động hợp tác trên cơ sở và các Kế
hoạch hành động hiện có, đồng thời đạt nhiều thỏa thuận mới nhằm đẩy mạnh
hơn nữa hợp tác trên nhiều lĩnh vực.
ASEAN đã nhấn mạnh trên việc hợp tác khu vực trong “ba trụ cột” về an ninh,
văn hoá xã hội và hội nhập kinh tế. Các nhóm khu vực đã có những thành quả
lớn nhất trong hội nhập kinh tế, với mục tiêu tạo lập một Cộng đồng Kinh tế
ASEAN (AEC) vào năm 2015.
Một trong những điều khiến ASEAN +1 có tính hiệu quả cao hơn các cơ
chế hợp tác khác nằm ở một số nội dung chủ trốt sau:
2.1. Hợp tác kinh tế - thương mại
Vấn đề hợp tác trên khuôn khổ ASEAN +1 rất được các thành viên
ASEAN quan tâm và coi đó là một trong những trọng tâm hợp tác của ASEAN
với các đối tác bên ngoài. Hợp tác kinh tế - thương mại đã đạt được một số
thành tựu đáng kể thể hiện tính hiệu quả của khuôn khổ ASEAN +1.
Nhìn chung thành tựu hợp tác kinh tế - thương mại trong khuôn khổ ASEAN +1
chủ yếu thể hiện thông qua việc ASEAN và các nước, các khu vực trên thế giới
6


gặp gỡ thiết lập quan hệ, kí hiệp định hợp tác đầu tư trong khu vực như ưu tiên
phát triển nông nghiệp, thủy sản, đồ gỗ, điện tử,… cắt giảm thuế quan. Điển
hình là:
Hợp tác ASEAN – Liên minh châu Âu (EU).
Liên minh (EU) quan hệ đối thoại ASEAN-châu Âu đã được chính thức
hóa khi Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 10 (AMM), tổ chức vào

ngày 05-ngày 08 tháng 7 năm 1977, nhất trí hợp tác và mối quan hệ chính thức
giữa ASEAN với Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC), trong đó bao gồm Hội
đồng Bộ trưởng của EEC, các Đại diện thường trực của các nước EEC và Ủy
ban EEC.
EU- bước đầu tạo cơ sở cho việc đàm phán một thỏa thuận thương mại ưu
đãi khu vực trong tương lai với ASEAN bằng việc đưa ra Sáng kiến Thương mại
Liên khu vực ASEAN – EU (TREATI) như là một sáng kiến về hợp tác kinh tế
trên cơ sở khu vực với khu vực gồm đối thoại và những hoạt động chung trong
những lĩnh vực kinh tế đôi bên cùng có lợi. Ước tính tốc độ tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu từ ASEAN sang EU đạt 6,7% mỗi năm. Đáng chú ý là vị trí của
EU luôn được giữ vững với tỉ trọng trong tổng xuất khẩu của ASEAN trong
khoảng 14- 16%. Tính trung bình cả giai đoạn 1993- 2003, thị trường EU chiếm
tới 14,7% tổng xuất khẩu của ASEAN, giữ vị trí thứ hai sau Hoa Kỳ (18,5%) và
đứng trên Nhật Bản (12,7%). Quan hệ thương mại và đầu tư giữa ASEAN và
EU vẫn là đáng kể. Dòng chảy đầu tư trực tiếp nước ngoài của EU vào ASEAN
tăng 7,2% với tổng giá trị 18,2 tỷ USD. EU vẫn là đối tác thương mại lớn thứ ba
của ASEAN và tiếp tục là nguồn lớn nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài của
ASEAN, với thị phần 16%.
Trong Du lịch, lượng khách truy cập từ EU vào ASEAN trong năm 2011
là 7.330.000 ( tăng gần 7 triệu so với năm 2010.
Trong năm 2012, EU đã vượt qua Mỹ trở thành đối tác xuất khẩu lớn nhất của
nước ta, với kim ngạch đạt hơn 20 tỷ USD, tăng khoảng 23% so với năm 2011.
Tương ứng, với số dân trên 600 triệu người, và là khu vực được Tổ chức Hợp
tác phát triển Kinh tế (OECD) dự báo có mức tăng trưởng năng động nhất
7


(khoảng 5,5% năm) trong giai đoạn 2013 - 2017, ASEAN tiếp tục là đối tác
thương mại quan trọng của EU. Do vậy, đây là dịp để cộng đồng doanh nghiệp,
nhất là từng đơn vị tìm kiếm cơ hội, đối tác nhằm hiện thực hóa những dự định,

dự án phát triển kinh doanh của mình
Tại các cuộc tham vấn AEM- Cao ủy Thương mại EU 12 tổ chức vào
ngày 08 tháng 3 năm 2013 tại Hà Nội, Việt Nam, các Bộ trưởng đã thông qua
Thương mại ASEAN- EU và Chương trình công tác đầu tư 2013-2014, với mục
tiêu tăng cường quan hệ thương mại hai chiều và đầu tư giữa ASEAN và EU
cũng như hỗ trợ hội nhập rộng hơn trong ASEAN cũng như giữa ASEAN và
EU. Các Bộ trưởng khẳng định cam kết tăng cường hợp tác giữa hai khu vực
bao gồm khả năng nối lại đàm phán về một Hiệp định Thương mại tự do
ASEAN-EU, sau khi thực hiện Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào cuối năm 2015.

Các lãnh đạo ASEAN và EU thể hiện ý chí đoàn kết hợp tác trong Hội
nghị Bộ trưởng kinh tế thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) lần
thứ 19 và các hội nghị liên quan được tổ chức thành công tại thủ đô Hà Nội.
Lần thứ 3 Hội nghị thượng đỉnh kinh doanh ASEAN- EU được tổ chức
vào ngày 8-9 tháng 3 năm 2013 tại bên lề của tham vấn Ủy AEM- Thương mại
EU tiếp tục thu hút nhiều doanh nhân từ cả hai khu vực và tạo cơ hội cho đối
thoại khu vực công và tư nhân.
Không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà xét cả về đầu tư cũng có thể thấy
được mối hợp tác chặt chẽ giữa EU và ASEAN… Năm 2005, EU và ASEAN đã
8


thành lập Nhóm Tầm nhìn về quan hệ đối tác kinh tế ASEAN – EU để nghiên
cứu khả thi việc đàm phán và thiết lập Khu vực thương mại tự do ASEAN – EU
nhằm tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác và liên kết kinh tế giữa hai bên.
Hợp tác ASEAN – Trung Quốc
Quan hệ đối thoại ASEAN-Trung Quốc bắt đầu khi Ngài QianQichen, các
Bộ trưởng Ngoại giao của Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc sau đó đã tham dự
phiên khai mạc Hội nghị Bộ trưởng ASEAN 24 vào tháng Bảy năm 1991 tại
Kuala Lumpur là một khách mời của Chính phủ Malaysia, trong đó ông bày tỏ

sự quan tâm của Trung Quốc hợp tác với ASEAN vì lợi ích chung . Sau đó,
Trung Quốc đã được dành đầy đủ trạng thái Đối tác Đối thoại tại Hội nghị
AMM 29 vào tháng Bảy năm 1996 tại Jakarta.
Hợp tác kinh tế- thương mại ASEAN – Trung Quốc được thể hiện thông
qua việc kí kết các hiệp định nhằm thúc đẩy phát triển giữa hai bên như Hiệp
định khu vực về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Trung Quốc. Với việc
thành lập khu vực thương mại này, thuế quan đối với khoảng 9.000 nhóm hàng
hóa và dịch vụ, tương đương 90% tổng trao đổi thương mại song phương, sẽ
được cắt giảm hoặc bãi bỏ. Mức thuế trung bình mà Trung Quốc áp lên các hàng
hóa của ASEAN sẽ giảm xuống còn 0,1% kể từ mức 9,8%. Thuế trung bình mà
các nước ASEAN đánh vào hàng hóa Trung Quốc sẽ giảm từ 12,8% xuống còn
0,6%. Đặc biệt trong 4 năm qua, hoạt động thương mại đã tăng gấp đôi với việc
kí kết các thỏa thuận về trao đổi hàng hóa, dịch vụ và một hiệp ước về khuyến
khích đầu tư liên khu vực.
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN + 1 với Trung Quốc, Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng và các nhà lãnh đạo đánh giá cao những phát triển năng động của
quan hệ hợp tác ASEAN – Trung Quốc thời gian qua và bày tỏ hài lòng trước
những những phát triển tích cực trong việc thực hiện Kế hoạch Hành động triển
khai quan hệ đối tác chiến lược ASEAN – Trung Quốc, đặc biệt là trên lĩnh vực
kinh tế - thương mại, khoa học – công nghệ, văn hóa – xã hội.
Với việc hai bên ký kết Hiệp định thương mại dịch vụ đầu năm 2007 và
đà tăng trưởng cao của kim ngạch thương mại hai chiều, các nhà lãnh đạo tin
9


tưởng rằng ASEAN và Trung Quốc đang tiến rất gần tới việc hiện thực hóa thỏa
thuận thành lập Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN – Trung Quốc.
Nhân dịp này, lãnh đạo các nước ASEAN và Trung Quốc đã ký Bản ghi
nhớ về Hợp tác An toàn vệ sinh thực phẩm. Trung Quốc khẳng định sẽ tiếp tục
ủng hộ nỗ lực của ASEAN thu hẹp khoảng cách và xây dựng cộng đồng; tăng

cường hợp tác. Hai bên tiếp tục khẳng định quyết tâm thực hiện hiệu quả Tuyên
bố về cách ứng xử ở Biển Đông (DOC) vì hòa bình và ổn định ở khu vực.
Quan hệ thương mại và kinh tế giữa ASEAN và Trung Quốc đã được phát
triển nhanh chóng trong những năm qua, đặc biệt là sau khi ký kết Hiệp định
khung về Hợp tác kinh tế toàn diện trong tháng 11 năm 2002 để thành lập
ASEAN-Trung Quốc Hiệp định Thương mại tự do (ACFTA).
Trung Quốc tiếp tục là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN từ năm
2009. Thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc tăng 20,9% từ 232 tỷ USD
trong 2.010 đến 280 tỷ USD trong năm 2011. Trung Quốc cũng đã duy trì vị trí
của mình như thị trường xuất khẩu lớn thứ hai trong hai năm liên tiếp. Theo
thống kê của ASEAN trong năm 2011, ASEAN xuất khẩu 145 tỷ USD, tăng
28,9% so với năm trước. Nhập khẩu từ Trung Quốc tăng 13,2% lên tới 135 tỷ
USD. Cán cân thương mại có lợi cho các nước ASEAN lần đầu tiên vào năm
2011, với kim ngạch xuất khẩu vượt quá nhập khẩu 11 tỷ USD. Theo thống kê
của Trung Quốc năm 2011, ASEAN hiện là đối tác thương mại lớn thứ ba của
Trung Quốc, đẩy mạnh từ vị trí thứ tư trong năm 2010.
Theo thống kê của ASEAN, các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ
Trung Quốc vào ASEAN tăng mạnh 117% so với 2,7 tỷ USD trong 2010- 6 tỷ
USD trong năm 2011.
Trung Quốc tái khẳng định rằng kết nối ASEAN là ưu tiên đầu tiên và cơ
bản trong sự phát triển của một kết nối tăng cường giữa ASEAN với khu vực
rộng lớn hơn, bao gồm các nước ASEAN với Trung Quốc.
Hợp tác ASEAN – Nhật Bản
ASEAN và Nhật Bản đầu tiên thiết lập quan hệ đối thoại không chính
thức trong năm 1973, mà sau này được chính thức hóa tháng 3 năm 1977 với
10


việc tổ chức Diễn đàn ASEAN-Nhật Bản. Kể từ đó, tiến bộ đáng kể đã được
thực hiện trong các mối quan hệ và hợp tác kéo dài từ các lĩnh vực chính trị-an

ninh, kinh tế-tài chính ASEAN-Nhật Bản, đến văn hóa xã hội.
ASEAN và Nhật Bản tiếp tục là đối tác thương mại quan trọng. Thương
mại giữa ASEAN và Nhật Bản tiếp tục có xu hướng tăng. Tổng số thương mại
tăng 28,4% 2009-2010, lên tới 206 tỷ USD vào năm 2010. Xuất khẩu của
ASEAN sang Nhật Bản tăng 43,3 % số tiền là 147 tỷ USD trong khi nhập khẩu
từ Nhật Bản tăng 21,4 % tổng giá trị 126 tỷ USD. Nhật Bản duy trì vị trí của nó
như là đối tác thương mại lớn thứ hai của ASEAN sau Trung Quốc.
Nhật Bản tăng cường từ thứ ba để trở thành nguồn lớn thứ hai của FDI đối
với ASEAN. ASEAN và Nhật Bản đã ký kết đối tác kinh tế toàn diện ASEANNhật Bản (AJCEP) ngày 14 tháng Tư năm 2008. Hiệp định AJCEP là toàn diện
trong phạm vi, bao gồm thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư và
hợp tác kinh tế.
Về kết nối ASEAN, Nhật Bản đã nhiều lần bày tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ của
mình cho sáng kiến này. Tại 14 ASEAN- Nhật Bản các nhà Lãnh đạo ASEAN
đánh giá cao cam kết mạnh mẽ của Nhật Bản để tăng cường kết nối trong tầm
nhìn cụ thể là "hình thành của các động mạch quan trọng cho hành lang kinh tế
Đông-Tây và miền Nam" và "Hành lang kinh tế hàng hải" cũng như các dự án
cơ sở hạ tầng mềm trong suốt khu vực ASEAN.

Tăng cường hợp tác ASEAN – Nhật Bản tại Hội nghị cấp cao ASEAN +1
diễn ra vào ngày 19/11/2012 tại thủ đô Phnom Penh (Campuchia)
11


Hỗ trợ xúc tiến thương mại, đầu tư và du lịch, Trung tâm ASEAN-Nhật
Bản được thành lập tháng 5 năm 1981 trên cơ sở Hiệp định thành lập Trung tâm
Xúc tiến ASEAN về Thương mại, Đầu tư và Du lịch. Tokyo dựa trên Trung tâm
đóng một vai trò quan trọng để thúc đẩy sự gia tăng của xuất khẩu, dòng vốn
đầu tư và du lịch trong phát triển kinh tế giữa Nhật Bản và các quốc gia thành
viên ASEAN.
Hợp tác ASEAN – Hoa Kỳ

Bắt đầu tại Hội nghị Cấp cao Diễn đàn hợp tác kinh tế Thái (EAI), hai bên
đã kí Hiệp định thương mại song phương toàn diện với một số quốc gia
ASEAN. Tiếp đó là Thỏa thuận về hợp tác thương mại và đầu tư ASEAN – Hoa
Kỳ (TIFA) (2006). Với EIA và TIFA quan hệ thương mại và đầu tư giữa hai bên
được cải thiện rõ rệt, trong tương lai chắc chắn sẽ thúc đẩy quan hệ kinh tế
ASEAN - Hoa Kỳ lên một tầm cao mới.

Đại diện thương mại Mỹ Ron Kirt trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng
Kinh tế ASEAN lần thứ 44 (AEM-44)
Thực tế, ASEAN và Hoa Kỳ đã có một mối quan hệ song phương sâu
sắc. Về thương mại đầu tư, ASEAN chiếm 153 tỷ USD đầu tư của Hoa Kỳ,
nhiều gấp 3 lần mức 45 tỷ USD vào Trung Quốc và gần 10 lần mức 16 tỷ USD
vào Ấn Độ. Con số này thậm chí còn chưa tính tới đầu tư vào ngành dầu khí, với
số lượng có thể làm tổng số tiền tăng gấp đôi.

12


Hoa Kỳ là thị trường lớn nhất của ASEAN và ASEAN là thị trường lớn
thứ 4 của Hoa Kỳ. Chiếm 1/3 số thành viên của Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu
Á-Thái Bình Dương, các nước thành viên của ASEAN cũng đang thúc đẩy việc
hình thành Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Trên cơ sở Hiệp định khung về thương mại và đầu tư ASEAN-Mỹ (TIFA), hai
bên đang nỗ lực đàm phán để tiến tới hình thành 1 Hiệp định thương mại tự do
song phương (FTA) trong thời gian tới.
Với việc hợp tác song phương trong kinh tế- thương mại giữa ASEAN với
các nước và các tổ chức khu vực trên thế giới chúng ta có thể nhìn thấy sự nỗ
lực đáng kể để đạt được thành tựu trên, cho thấy quan hệ hợp tác với các đối tác
bên ngoài ngày càng được ASEAN chú trọng phát triển. Điều này làm cho
ASEAN +1 phát huy được vai trò của mình khi mà nền kinh tế đang trong giai

đoạn chuyển mình nhanh chóng, khu vực cần hợp tác với các đối tác bên ngoài
để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - thương mại thu hẹp dần khoảng cách phát
triển trong khu vực và các nước, khu vực trên thế giới.
Hợp tác ASEAN với các nước khác
Hợp tác ASEAN – Australia và New Zeland: Được triển khai trong
khuôn khổ (liên kết giữa Khu vực thương mại tự do ASEAN – khu vực kinh tế
gần gũi Australia- New Zeland (liên kết AFTA – CER). Tháng 2 năm 2009, các
bên đã ký hiệp định thành lập AFTA. Đây là Hiệp định thương mại tự do toàn
diên nhất của khối ASEAN. Theo kế hoạch đến năm 2018, ASEAN – Australia
và New Zeland cùng cam kết xóa bỏ thuế quan với ít nhất 90% số dòng thuế.
Điểm nhấn quan trọng trong Hiệp định là các bên cam kết thiết lập cơ chế hợp
tác chặt chẽ nhằm đảm bảo các biện pháp phi thuế quan như cơ chws cấp phép,
tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm…
2.2. Hợp tác chính trị - an ninh
Trong khuôn khổ ASEAN +1 thì hợp tác chính trị- an ninh là cơ chế hợp
tác an ninh song phương giữa ASEAN và các đối tác bên ngoài của ASEAN.
Hợp tác ASEAN – Liên minh Châu Âu ( EU)
13


Hợp tác chính trị và an ninh giữa ASEAN và EU đã được tiến triển tốt.
Các cuộc họp cấp cao đã được tổ chức giữa hai bên như Hội nghị thứ 19 Bộ
trưởng ASEAN-EU (AEMM) trên 26-ngày 27 Tháng Tư năm 2012, tại Bandar
Seri Begawan và SOM ASEAN-EU vào ngày 18-19 tháng 10 năm 2011 tại
Warsaw. Các cuộc họp thường xuyên đã giúp ASEAN và EU hiểu nhau và xây
dựng mức độ thoải mái cao hơn để hợp tác hơn nữa. Hội nghị Bộ trưởng
ASEAN-EU 19, được tổ chức vào ngày 26- 27 tháng 4 năm 2012 tại Brunei
Darussalam, thông qua Bandar Seri Begawan Kế hoạch Hành động
Tăng cường quan hệ đối tác tăng cường ASEAN-EU (2013-2017) nhằm
mục đích cung cấp cho một trọng tâm chiến lược hơn hợp tác tại khu vực hợp

tác trong một loạt các lĩnh vực - chính trị / an ninh, kinh tế / thương mại và văn
hóa xã hội. EU tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC)
tại Phnom Penh trên băng ghế dự bị của 45 AMM/PMC/19th ARF vào ngày 12
tháng 7 năm 2012, như tất cả các Bên ký kết cao đã gửi văn kiện phê chuẩn để
các Nghị định thư thứ ba. Việc gia nhập thể hiện cam kết của EU đối với các
nước ASEAN và phản ánh là những cột mốc quan trọng trong quan hệ ASEANEU thúc đẩy hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực.
Hợp tác ASEAN – Trung Quốc
ASEAN và Trung Quốc tiếp tục tăng cường hợp tác chặt chẽ và chiến
lược về hợp tác chính trị và an ninh thông qua đối thoại và tham vấn trong đó
bao gồm Hội nghị Cấp cao, hội nghị bộ trưởng, quan chức cấp cao và các cuộc
họp các chuyên gia thường xuyên, cũng như thông qua ASEAN khởi xướng cấu
trúc khu vực rộng hơn như Diễn đàn khu vực ASEAN ( ARF), ASEAN Cộng Ba
(APT), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc
phòng ASEAN cộng (ADMM +).
Trung Quốc là đối tác đối thoại đầu tiên của ASEAN để gia nhập TAC
vào tháng Mười năm 2003 tại Bali. Trung Quốc gia nhập TAC đã góp phần vào
tầm vóc của TAC như quy tắc ứng xử trong quan hệ giữa các quốc gia trong khu
vực. Trung Quốc cũng là nước vũ khí hạt nhân đầu tiên (NWS) mà bày tỏ ý định
gia nhập Nghị định thư đến SEANWFZ.
14


Với mong muốn thúc đẩy môi trường hòa bình, thân thiện và hài hòa
trong Biển Đông, ASEAN và Trung Quốc ký kết DOC trong tháng 11 năm 2002
tại Phnom Penh. Sau một loạt các cuộc thảo luận, ASEAN và Trung Quốc đã
thông qua Hướng dẫn thực hiện DOC trên 21 Tháng Bảy 2011 tại Bali.
Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN-Trung Quốc trong tháng 11 năm 2011 tại
Bali, Trung Quốc đã thành lập quỹ hợp tác hàng hải Trung Quốc-ASEAN cung
cấp hỗ trợ tài chính cho hợp tác ASEAN-Trung Quốc trong các lĩnh vực nghiên
cứu khoa học hàng hải, kết nối và an toàn hàng hải, đặc biệt là để thực hiện các

hoạt động và dự án hợp tác trong khuôn khổ DOC.
Về an ninh phi truyền thống, ASEAN và Trung Quốc đã ký Tuyên bố
chung giữa ASEAN và Trung Quốc về hợp tác trong lĩnh vực của vấn đề an ninh
phi truyền thống vào năm 2002 theo sau việc ký kết Biên bản ghi nhớ (MoU) về
hợp tác trong lĩnh vực phi vấn đề an ninh truyền thống trong năm 2004. Sau khi
hết thời hạn của Biên bản ghi nhớ năm 2009, một Biên bản ghi nhớ mới cho giai
đoạn 2010-2014 đã được ký kết trong năm 2009 tại Siem Reap.
Một Kế hoạch Hành động thực hiện Biên bản ghi nhớ sau đó đã được
thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN-Trung Quốc lần thứ 2 về phòng
chống tội phạm xuyên quốc gia ngày 12 tháng Mười năm 2011 tại Bali,
Indonesia. Một loạt các đào tạo và hội thảo cho các nước thành viên ASEAN đã
được cung cấp bởi Trung Quốc trong năm 2011-2012 để thực hiện Kế hoạch
hành động. Tại ngày 15 nghị Cấp cao ASEAN-Trung Quốc, các nhà lãnh đạo
ASEAN mong muốn tăng cường hợp tác với Trung Quốc để giải quyết nạn buôn
bán ma túy và chất ma túy bất hợp pháp.
Hợp tác ASEAN – Nhật Bản
ASEAN và Nhật Bản đã tiến hành quan hệ đối thoại của họ thông qua các
cơ chế khác nhau, trong đó bao gồm Hội nghị Cấp cao, hội nghị bộ trưởng, quan
chức cấp cao và các cuộc họp các chuyên gia, và rộng hơn ASEAN khởi xướng
đối thoại khu vực và khuôn khổ hợp tác như Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF),
15


ASEAN Cộng Ba (APT ), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) và Hội nghị Bộ
trưởng Quốc phòng ASEAN cộng (ADMM +).
Nhật Bản tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC) ở Đông Nam
Á trong tháng 7 năm 2004 tại Jakarta. Nhập của Nhật Bản vào TAC đã củng cố
thêm tầm quan trọng của Hiệp ước như quy tắc ứng xử trong quan hệ giữa các
nước trong khu vực và là một công cụ ngoại giao để thúc đẩy hòa bình và ổn
định trong khu vực.

ASEAN và Nhật Bản đã thông qua một Tuyên bố chung về hợp tác trên
cuộc chiến chống khủng bố quốc tế tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 8 ASEANNhật Bản trong tháng 11 năm 2004 tại Viêng Chăn. Đây là một phản ứng phối
hợp để sự xuất hiện của mối đe dọa từ tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố và vi
phạm bản quyền không chỉ đối với khu vực nhưng trên toàn thế giới. Liên quan
đến điều này, ASEAN-Nhật Bản truy cập khủng bố đối thoại (AJCTD) đã được
đưa ra tháng 3 năm 2006 và kể từ đó bảy đối thoại đã được thực hiện và mười
dự án đã được hoàn thành.
Liên quan đến hợp tác an ninh hàng hải, hỗ trợ Nhật Bản triệu tập một hội
thảo thành lập Diễn đàn Hàng hải ASEAN trong tháng 9 năm 2007 tại Batam,
Indonesia. Sau đó, lần thứ nhất, thứ hai và thứ ba Diễn đàn Hàng hải ASEAN đã
được tổ chức trong tháng 7 năm 2010 tại Surabaya, Indonesia, vào tháng Tám
năm 2011 tại Pattaya, Thái Lan.
Để chống lại động đất và sóng thần đã tấn công Nhật Bản vào ngày 11
tháng ba năm 2011 ASEAN triệu tập Hội nghị ASEAN-Nhật Bản Bộ trưởng đặc
biệt trên 09 tháng tư năm 2011 tại Jakarta như một sự phản ánh của sự đoàn kết.
Hội nghị ban hành Tuyên bố của của Chủ tịch là tái khẳng định cam kết thúc
đẩy hợp tác ASEAN-Nhật Bản trong quản lý thiên tai, là nhận thức của địa lý
của họ dễ bị tổn thương bởi thiên tai.
Hơn nữa, Tổng thư ký ASEAN tổ chức một Caravan ASEAN của Lợi thế
thương mại Đông Bắc Nhật Bản vào ngày 03-ngày 5 tháng 6 năm 2011.
Đồng thời với hợp tác an ninh truyền thống, ASEAN +1 cũng rất quan tâm hợp
tác trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống như hợp tác chống khủng bố quốc tế,
16


đấu tranh và phòng chống các tội phạm xuyên quốc gia… và một số Tuyên bố
về hợp tác trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống với Trung Quốc, Nhật Bản,
EU…
Hợp tác ASEAN – Hoa Kỳ
Đến nay, Hoa Kỳ đã tham gia hàng loạt cơ chế hợp tác với ASEAN, trong

đó phải kể đến là Diễn đàn an ninh khu vực (ARF), Hiệp ước hợp tác và thân
thiện Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+). Ngoài ra, Hoa Kỳ
cũng có các mối quan hệ song phương và đa phương với các nước ASEAN, từ
giáo dục, văn hóa và trao đổi con người, đối thoại tín ngưỡng, quản lý rủi ro
thảm họa, y tế, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, đến chống buôn bán ma túy, chống
khủng bố…. Hoa Kỳ và ASEAN cũng luôn chia sẻ lợi ích về tự do hàng hải ở
khu vực biển Đông theo quy định của luật pháp quốc tế cũng như giải quyết hòa
bình các tranh chấp.
Quan hệ giữa các bên được điều chỉnh chủ yếu bởi Hiệp ước thân thiện và
hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) trở thành “Bộ luật ứng xử” cho cả quan hệ giữa
các quốc gia ASEAN với các đối tác bên ngoài. Với mục đích tăng cường đối
thoại và hội đàm các vấn đề chính trị và an ninh của các quốc gia có chung lợi
ích và mối quan tâm; thúc đẩy hòa bình, sự thân thiện và hợp tác lâu bền, góp
phần vào sự vũng mạnh, tình đoàn kết và quan hệ chặt chẽ giữa các bên. Nhờ
vậy mà ASEAN +1 đã trở thành cầu nối giúp cho các quốc gia ASEAN với các
đối tác bên ngoài, vốn có sự chênh lệch về diện tích lãnh thổ, dân số, lịch sử,
văn hóa có thể cùng tồn tại hòa bình và hợp tác với nhau vì hòa bình, ổn định và
phát triển trong khu vực.
2.3. Hợp tác trong các vực linh văn hóa – xã hội
Đối với ASEAN mỗi một đối tác lại có những tiềm năng riêng biệt, tùy
thuộc vào thế mạnh của mỗi bên. Thông qua các chương trình, quỹ hợp tác phát
triển, tài trợ các dự án phát triển của ASEAN hướng tới các lợi ích mà các bên
cùng quan tâm.
Hợp tác ASEAN – Liên minh Châu Âu (EU)
17


ASEAN và EU đã đồng ý trên các dụng cụ đối thoại EU-Khu vực
ASEAN (READI) mà là một cơ chế đối thoại chính sách / quy trình cho việc
thúc đẩy quan hệ đối thoại ASEAN-EU trong lĩnh vực phi thương mại.

ASEAN +1 và các đối tác hợp tác chủ yếu tập trung vào xây dựng cộng động
ASEAN, liên kết kinh tế, thu hẹp khoảng cách phát triển và các chương trình
hợp tác về môi trường, y tế, khoa học công nghệ, năng lượng, cứu trợ thảm
họa… các lĩnh vực như: tiêu chuẩn chất lượng, quy trình đánh giá, quyền sở hữu
trí tuệ, phát triển nguồn nhân lực và giáo dục.
Hợp tác ASEAN – Trung Quốc
Về hợp tác văn hóa xã hội, một số hoạt động đã được thực hiện trong các
lĩnh vực y tế công cộng, khoa học và công nghệ, giáo dục, văn hóa, lao động và
an sinh xã hội, chính quyền địa phương và người với người trao đổi, môi trường,
phương tiện truyền thông, thanh niên, phát triển xã hội và xóa đói giảm nghèo.
Trong lĩnh vực y tế công cộng, ASEAN và Trung Quốc Bộ trưởng Y tế đã
ký một biên bản ghi nhớ về hợp tác y tế tại các nước ASEAN-Trung Quốc Hội
nghị Bộ trưởng Y tế lần thứ 4 về 06 tháng 7 2012 tại Phuket, Thái Lan để thúc
đẩy hợp tác y tế ASEAN-Trung Quốc. Biên bản ghi nhớ đã được ký kết nhằm
thúc đẩy hợp tác giữa các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc trong lĩnh
vực y tế và khoa học y tế.
Như năm 2012 đã được chỉ định là năm của Hợp tác Khoa học và Công
nghệ, một loạt các hoạt động bao gồm các khóa đào tạo, hội thảo và hội nghị
được tổ chức tại Trung Quốc trong năm 2012 ASEAN-Trung Quốc. Ngoài ra,
Khoa học ASEAN-Trung Quốc và Chương trình Đối tác Công nghệ đã được
chính thức ra mắt tại Hội nghị Bộ trưởng theASEAN-Trung Quốc về Hợp tác
Khoa học và Công nghệ được tổ chức vào ngày 22 tháng chín năm 2012 bên lề
của CAEXPO lần thứ 9.

18


Ngày 25/11 tại Bắc Kinh, Thứ trưởng Bộ Bảo vệ Môi trường Trung Quốc Ly
Cán Kiệt cho biết nước này và ASEAN sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường khu vực.

Hợp tác ASEAN-Trung Quốc về môi trường đang phát triển mạnh hơn.
Trung tâm Hợp tác môi trường Trung Quốc-ASEAN (CAEC) đã chính thức
khánh thành tháng 5 năm 2011 tại Bắc Kinh. Sau đó, kế hoạch hành động hợp
tác về môi trường ASEAN-Trung Quốc đã được hoàn thành và thông qua bởi
ASEAN và Trung Quốc trong năm 2011. Kế hoạch hành động bao gồm: i) thành
lập ASEAN-Trung Quốc cơ chế hợp tác về môi trường, trong đó có Hội nghị Bộ
trưởng ASEAN-Trung Quốc và ASEAN-Trung Quốc về môi trường Diễn đàn
hợp tác; ii) Đẩy mạnh hợp tác về công nghiệp môi trường; iii) thực hiện
ASEAN-Trung Quốc Chương trình phái viên xanh và iv) thúc đẩy việc nghiên
cứu chung. Như một tiếp theo, hai ASEAN-Trung Quốc diễn đàn môi trường
hợp tác đã được triệu tập vào năm 2011 và năm 2012 với chủ đề "Đổi mới phát
triển xanh" và "Đa dạng sinh học và Phát triển xanh khu vực," tương ứng, và
ASEAN-Trung Quốc Chương trình phái viên xanh là đưa ra trong tháng 10 năm
2011.
Tại ngày 15 của Hội nghị Cấp cao ASEAN-Trung Quốc, các nhà lãnh đạo
ASEAN ghi nhận và đánh giá cao thành lập trong mười ASEAN-Trung Quốc
Giáo dục và Trung tâm Đào tạo tại sáu tỉnh của Trung Quốc, mà sẽ tiếp tục đóng
góp vào những nỗ lực xây dựng Cộng đồng ASEAN và phát huy tinh thần đoàn
kết, phát triển và hợp tác trong khu vực Đông Á cũng như để hỗ trợ các nỗ lực
19


của ASEAN trong việc thúc đẩy phát triển các nguồn lực kinh tế xã hội và con
người.
Hợp tác ASEAN – Nhật Bản
ASEAN và Nhật Bản đặt trọng tâm vào người với người liên lạc và giao
lưu văn hóa, đặc biệt là các thanh niên và trí thức. Nhật Bản Mạng Đông Á của
Exchange cho sinh viên và thanh niên (JENESYS) được khởi xướng bởi Nhật
Bản và ra mắt vào năm 2007. Hơn 12.200 thanh thiếu niên từ các nước ASEAN
đã đến thăm Nhật Bản theo chương trình để thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau và mối

quan hệ thân thiện với giới trẻ Nhật Bản và công dân.
Trong lĩnh vực y tế công cộng, các dự án trên "Tàng trữ thuốc Tamiflu và thiết
bị bảo vệ cá nhân (PPE), chống các bệnh truyền nhiễm mới" với mục đích để
chống lại và có nguy cơ cúm gia cầm đã được hỗ trợ bởi JAIF với sự hỗ trợ kinh
phí 30 triệu USD.
ASEAN và Nhật Bản khẳng định cam kết của họ trong việc giải quyết
thách thức toàn cầu và xuyên biên giới như biến đổi khí hậu và môi trường. Các
nhà lãnh đạo tại 13 Hội nghị Cấp cao ASEAN-Nhật Bản tổ chức tại tháng 10
năm 2010 chào đón tất cả những nỗ lực để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và
các vấn đề đa dạng sinh học thảo luận tại Hội nghị Bộ trưởng của REDD + đối
tác tại Nagoya, Aichi vào ngày 26 tháng 10 2010 và Hội nghị lần thứ 10 của Hội
nghị các Bên Công ước về Đa dạng sinh học (COP10) tổ chức tại Nagoya vào
ngày 18-ngày 29 Tháng 10 năm 2010.
ASEAN và Nhật Bản tiếp tục hợp tác và chủ động tăng cường hợp tác về
quản lý thảm họa, một lĩnh vực ưu tiên cao nhất đối với các nước ASEAN và
Nhật Bản. ASEAN và Nhật Bản đã khẳng định quyết tâm tiếp tục khai thác sử
dụng hiệu quả khoa học và công nghệ như hệ thống vệ tinh cũng như cùng nhau
phát triển mạng lưới khu vực phòng chống thiên tai và cứu trợ thiên tai với
Trung tâm Điều phối ASEAN về Cứu trợ Nhân đạo và Quản lý thiên tai (Trung
tâm AHA) trong trung tâm thông qua "Mạng lưới quản lý thiên tai cho khu vực
ASEAN".
20


Một chương trình hướng tới cộng đồng đã được đưa ra với sự hỗ trợ của
Nhật Bản để nâng cao nhận thức và kiến thức về xây dựng cộng đồng ASEAN
lớn hơn và để tiếp tục thúc đẩy mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa các dân tộc của
các nước ASEAN và Nhật Bản. Hoạt động theo chương trình này bao gồm,
trong số những người khác, cuộc điều tra trên cộng đồng nỗ lực xây dựng
ASEAN, Tổng thư ký của Tham Gia của ASEAN với các bên liên quan ở Nhật

Bản và Đào tạo cho các nước thành viên ASEAN và phát ngôn viên Ban Thư ký
ASEAN.
Thu hẹp khoảng cách phát triển Nhật Bản tiếp tục hỗ trợ hội nhập của
ASEAN và nỗ lực xây dựng cộng đồng, bao gồm việc thu hẹp khoảng cách phát
triển trong ASEAN thông qua các nỗ lực phát triển tiểu vùng khác nhau.
Trên đây là những nước tiêu biểu có quan hệ hợp tác về kinh tế- thương
mại, an ninh- chính trị và văn hóa- xã hội với ASEAN. Ngoài ra, ASEAN còn có
quan hệ hợp tác này với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Điều này cho
thấy quan hệ đối thoại của ASEAN với các nước đặc biệt là nhóm ASEAN +1
ngày càng được mở rộng và mối quan hệ ngày càng gần gũi, thân thiết góp phần
cho sự thúc đẩy phát triển, hòa bình và ổn định của ASEAN nói chung và
ASEAN +1 nói riêng.

21


CHƯƠNG 3. MỤC TIÊU VÀ TRIỂN VỌNG CỦA ASEAN +1
3.1. Mục tiêu.
Hợp tác ASEAN-Trung Quốc
Hai bên nhất trí phấn đấu đạt mục tiêu 500 tỷ USD kim ngạch thương mại
hai chiều vào năm 2015; tiếp tục đẩy mạnh 11 lĩnh vực ưu tiên gồm nông
nghiệp, công nghệ thông tin, phát triển nguồn nhân lực, phát triển vùng Mekong,
giao thông, năng lượng, văn hóa, du lịch, y tế và môi trường. Đặc biệt, nhân dịp
kỷ niệm 10 năm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (2002-2012),
lãnh đạo các nước ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí thông qua một Tuyên bố
chung khẳng định giá trị, tầm quan trọng và việc thực hiện đầy đủ DOC nhằm
đảm bảo hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn hàng hải ở Biển Đông; giải quyết
hòa bình các tranh chấp, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước
Luật Biển Liên hợp quốc năm 1982; đồng thời cùng hướng tới xây dựng COC.
Hợp tác ASEAN-Nhật Bản:

Hai bên tiếp tục triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Tuyên bố chung
về tăng cường quan hệ Đối tác ASEAN-Nhật Bản vì Thịnh vượng chung và Kế
hoạch hành động giai đoạn 2011-2015; đẩy mạnh hơn nữa kim ngạch thương
mại hai bên (hiện là 273 tỷ USD) và thúc đẩy đàm phán Hiệp định Thương mại
về Dịch vụ và Đầu tư và mở rộng phạm vi hiệu lực của Hiệp định Đối tác Kinh
tế Toàn diện ASEAN-Nhật Bản (AJCEP); tăng cường kết nối ASEAN-Nhật
Bản; triển khai các sáng kiến hợp tác mới về giao thông-vận tải, sử dụng năng
lượng xanh, hợp tác lao động cũng như tăng cường hợp tác biển và đảm bảo an
ninh, an toàn hàng hải, trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật
biển 1982 của Liên hợp quốc.
Hợp tác ASEAN-Hàn Quốc:
Tiếp tục thực hiện hiệu quả Kế hoạch Công tác triển khai Tuyên bố chung
về Đối tác Chiến lược vì Hòa bình và Thịnh vượng giai đoạn 2011-2013; khai
thác tối đa các cơ hội của Hiệp định Thương mại tự do ASEAN-Hàn Quốc; tăng
cường hợp tác phát triển tiểu vùng, giáo dục, phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ, lao động di cư, ứng phó với các thách thức đang đặt ra, nhất là về ứng phó
22


với thiên tai, biến đổi khí hậu, đảm bảo an ninh, an toàn hàng hải ở khu vực trên
cơ sở luật pháp quốc tế và Công ước Luật biển 1982 của Liên hợp quốc.
Hàn Quốc cam kết tiếp tục hỗ trợ ASEAN thực hiện Kế hoạch Công tác IAI giai
đoạn 2013-2017 với khoản hỗ trợ 10 triệu USD. Các nhà lãnh đạo nhất trí lấy
năm 2014 là "Năm Giao lưu ASEAN-Hàn Quốc." Hàn Quốc coi trọng hợp tác
toàn diện với các nước Mekong.
Hợp tác ASEAN-Ấn Độ:
Tiếp tục triển khai Kế hoạch Hành động thực hiện Tuyên bố về Đối tác
ASEAN-Ấn Độ vì Hòa bình, Tiến bộ và Thịnh vượng chung giai đoạn 20102015; phấn đấu nâng kim ngạch thương mại hai chiều lên 200 tỷ USD vào năm
2022 và sớm hoàn thành đàm phán các Hiệp định Thương mại Dịch vụ và Đầu
tư; tăng cường hợp tác Kết nối và viễn thông nhằm thúc đẩy liên kết giữa

ASEAN và khu vực Nam Á; đẩy mạnh hợp tác nông lâm nghiệp, phát triển
nguồn nhân, du lịch...
Hợp tác ASEAN-Mỹ:
Tiếp tục triển khai hiệu quả Kế hoạch Hành động thực hiện Quan hệ Đối
tác Tăng cường ASEAN-Mỹ vì Hòa bình và Thịnh vượng giai đoạn 2011-2015;
đề nghị nghiên cứu các kiến nghị trong Báo cáo của Nhóm các Nhân vật Nổi
tiếng (EPG) ASEAN-Mỹ hướng tới nâng quan hệ ASEAN-Mỹ lên cấp Đối tác
chiến lược, cũng như tiếp tục bàn việc triển khai các sáng kiến của Mỹ về gắn
kết chiến lược châu Á-Thái Bình Dương, gắn kết kinh tế mở rộng với ASEAN…
qua đó đóng góp thiết thực cho hòa bình và phát triển thịnh vượng ở khu vực;
tiếp tục thúc đẩy hợp tác về kết nối, khoa học và công nghệ, giáo dục, quản lý
thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, tội phạm xuyên quốc gia.
Mỹ khẳng định ủng hộ các nỗ lực của ASEAN về đảm bảo hòa bình, ổn
định và an ninh ở khu vực, trong đó có hòa bình, an ninh an toàn hàng hải ở
Biển Đông, trong đó có Tuyên bố Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN.
Mỹ và các nước Hạ nguồn Mekong khẳng định tiếp tục đẩy mạnh hợp tác
giữa hai bên (LMI), đánh giá cao việc Mỹ tăng cường hỗ trợ nguồn lực, đưa ra
23


các sáng kiến về "Kết nối Mekong." Lãnh đạo các nước ASEAN và Mỹ đã
thông qua Tuyên bố chung Cấp cao ASEAN-Mỹ lần thứ 4.
3.2. Triển vọng của ASEAN +1
Hợp tác ASEAN +1 là khuôn khổ hợp tác của ASEAN với từng nước đối
tác bên ngoài . Trong tương lai việc hợp tác với các cuộc gặp gỡ và Hợp tác kinh
tế thể hiện đang phát triển rất nhanh trong khu vực. Quâ trình này đã tạo ra sức
mạnh mới cho sự phát triển của ASEAN , thúc đẩy nhiều cơ hội phát triển trong
khu vực. Xu hướng liên kết ASEAN +1 ( Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc)
đang có tiến triển rất tốt đẹp. Việc hợp tác toàn diện trong tất cả các lĩnh vực với
các đối tác ASEAN +1 đang được củng cố. Triển vọng kinh tế- thương mại,

chính trị- an ninh và các lĩnh vực khác là hết sức sáng sủa và có rất nhiều cơ hội
phát triển.
Tuy nhiên, cách tiếp cận và khả năng nắm bắt những cơ hội và thách thức
giữa các quốc gia là hoàn toàn khác nhau xét theo qui mô, bản chất, mức độ khó
dễ và khả năng thực hiện. Kinh nghiệm đã chứng minh rằng, các nước kém phát
triển hơn thường bị ảnh hưởng tiêu cự trong quá trình liên kết và các nước này
đang cố gắng hạn chế những tác động tiêu cực tới triển vọng phát triển và liên
kết kinh tế khu vực. Cùng với sự hợp tác ASEAN +1 và những bước tiến không
ngừng trong quan hệ hợp tác giữa các đối tác, triển vọng hình thành Cộng đồng
kinh tế ASEAN trong tương lai xa là có thể, tuy nhiên không thể một sớm một
chiều.

24


C.KẾT LUẬN
Như vậy, có thể thấy rằng cơ chê hợp tác trong khuôn khổ ASEAN +1 là
cơ chế hợp tác mang tính toàn diện nhất so với hợp tác trong các khuôn khổ hợp
tác ngoại khối khác của ASEAN. ASEAN +1 là khuôn khổ mang tính nền tảng
cho hợp tác ngoại khối ASEAN. ASEAN +1 cũng là cơ chế hợp tác đạt được
những kết quả thiết thực nhất đối với ASEAN cũng như đối với các đối tác. Các
đối tác đều cam kết ủng hộ và hỗ trợ ASEAN xây dựng cộng đồng, thu hẹp
khoảng cách phát triển và duy trì vai trò trung tâm của ASEAN trong tiến trình
khu vực, hỗ trợ đáng kể về tài chính ở mức độ khác nhau. Điều này càng khẳng
định sự thành công và hiệu quả của ASEAN +1, tạo điều kiện thuận lợi để các
quốc gia ASEAN và các đối tác gặp nhau, chia sẻ quan điểm, tạo niềm tin, thúc
đẩy hợp tác kinh tế- thương mại. Đồng thời hợp tác an ninh trong khuôn khổ
ASEAN +1 cũng giúp các quốc gia ASEAN đối phó với các vấn đề an ninh như
toàn cầu như khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia.
Cùng với sự phát triển của Hiệp hội và xu thế hội nhập của thế giới ta có

thể thấy ASEAN +1 đang ngày càng khẳng định được vai trò của mình, thể hiện
tính hiệu quả của mình trong việc hợp tác song phương với các đối tác toàn diện
trong casclinhx vực.

25


×