MỤC LỤC
MỞ ĐẦU1
NỘI DUNG2
CHƯƠNG 1:KHÁI QUÁT VỀ ĐẤT NƯỚC TRUNG QUỐC2
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA TRUNG QUỐC TRONG QUAN HỆ
QUỐC TẾ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY4
2.1. Chính trị, ngoại giao4
2.1.1. Với Hoa Kỳ và phương Tây5
2.1.2. Với các nước châu Á9
2.1.3. Với các nước Châu Phi14
2.2. Kinh tế18
2.2.1. Vị thế siêu cường kinh tế.18
2.2.2. Công xưởng của thế giới.20
2.2.3 Thị trường tiêu thụ lớn23
2.3. Quân sự24
KẾT LUẬN27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………28
MỞ ĐẦU
Trung Quốc là nước lớn thứ 3 trên thế giới chỉ sau Nga và Canada. Đây
là nước đông dân nhất thế giới, dân số hơn 1 tỷ người. địa hình tương đối đa
dạng với sa mạc, cao nguyên, núi non, và các đồng bằng màu mỡ được bồi
đắp bởi phù sa các con sơng Hồng Hà, Dương Tử, Hắc Long Giang, Mê
Kơng… Cộng Hịa Nhân Dân Trung Hoa được cả thế giới biết đến là một
trong những cái nôi của nền văn hóa nhân loại bên cạnh những danh lam đẹp
và nổi tiếng trên thế giới. Hơn nữa, quốc gia này có nền kinh tế phát triển khá
mạnh và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Đặc biệt là sau khi tiến hành
cuộc cải cách mở cửa, thị trường không ngừng được mở rộng, môi trường đầu
tư không ngừng được cải thiện, cải cách thể chế tiền tệ tiến triển vững chắc,
những điều này đã đảm bảo vững chắc cho nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục
phát triển. Sự nổi lên của Trung Quốc, một mặt, thách thức cạnh tranh đối với
tất cả các quốc gia trên thế giới, mặt khác, tạo cơ hội cho hàng hóa các nước
có thể thâm nhập vào thị trường lớn nhất thế giới này. Điều đó sẽ tác động tới
các nước, buộc các quốc gia phải có những điều chỉnh chính sách thích hợp
trong quan hệ hợp tác với Trung Quốc.
1
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ ĐẤT NƯỚC TRUNG QUỐC
Trung Quốc có tên gọi chính thức là Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa , là
một quốc gia có chủ quyền thuộc khu vực Đông Á. Đây là quốc gia đông dân
nhất trên thế giới với dân số ước tính đạt khoảng 1,405 tỷ người. Trung Quốc
là quốc gia đơn đảng do Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm quyền, chính phủ
trung ương đặt tại thủ đơ Bắc Kinh. Chính phủ Trung Quốc thi hành quyền tài
phán tại 22 tỉnh, 5 khu tự trị, 4 đô thị trực thuộc và 2 đặc khu hành
chính là Hồng Kơng và Ma Cao. Chính phủ Trung Quốc cũng tuyên bố chủ
quyền đối với tất các vùng lãnh thổ nằm dưới sự quản lý của Trung Hoa Dân
Quốc (Đài Loan), đơn phương tuyên bố hòn đảo là tỉnh thứ 23 của mình (mặc
dù khơng kiểm sốt trên thực tế), chính sách này hiện đang gây ra nhiều tranh
cãi do tính chất sự phức tạp của nó đồng thời là tác nhân của vị thế địa - chính
trị Đài Loan.
Với diện tích 9.596.961 km², Trung Quốc là quốc gia có diện tích lục
địa lớn thứ 4 trên thế giới, lãnh thổ rộng lớn với diện tích chiếm phần lớn khu
vực Đông Á. Trung Quốc giáp với Việt Nam, Lào, Myanmar, Ấn Độ, Bhutan,
Nepal Nepal, Pakistan, Afghanistan, Tajikistan, Kyrgyzstan, Kazakhstan, Nga,
Mông Cổ và Triều Tiên. Quốc gia này cũng có vị trí gần với Hàn Quốc, Nhật
bản và Philipines thông qua đường biển.
Đất nước Trung Quốckhông chỉ nổi tiếng với diện tích hay dân số mà
cịn nổi tiếng với nền văn hóa đa dạng, nền văn hóa ấy được tích lũy và gìn
giữ qua hàng ngàn năm lịch sử. tại trung quốc, có nhiều dân tộc sống với nhau
và có khá nhiều tơn giáo song song cùng tồn tại tạo thành đất nước trung hoa
rộng lớn
2
Trung Quốc là quốc gia đa dạng về tín ngưỡng tôn giáo. Tuy vậy, Phật
Giáo Đại Thừa vẫn là tôn giáo phổ biến nhất tại đây. Ngồi ra cịn có các giáo
khác như Lão giáo, Phật giáo, Cơ Đốc giáo, Nho giáo, Hồi giáo…
Văn hóa Trung Hoa ảnh hưởng sâu sắc bởi Khổng Giáo, Phật Giáo và
Đạo Giáo. Vì vậy, đa số người dân Trung Hoa vẫn còn giữ phong tục thời
cúng tổ tiên cũng như văn hóa của Trung quốc truyền thống. Quốc gia này
cũng ít bị ảnh hưởng của các nền văn hóa Phương Tây với những nét văn hóa
cổ truyền được bảo tồn và gìn giữ đến ngày nay.
Trung Quốc ngày nay đã vươn lên trở thành cường quốc kinh tế lớn
mạnh. Chỉ đứng sau Mỹ. Quốc gia này được mệnh danh là “công xưởng của
thế giới” với hàng loạt các nhà máy, trụ sở của rất nhiều tập đồn trên tồn
cầu. Trung Quốc có mối quan hệ giao dịch thương mại khắng khít với các
quốc
gia
Châu
Á.
Đồng thời, đóng vai trị quan trọng trong tăng trưởng kinh tế của tồn khu
vực. Đó cũng là lý do khiến cho Trung Quốc trở thành một trong những điểm
đến lý tưởng để học tập về khối ngành kinh tế, sản xuất, logistics, khoa học kỹ
thuật, công nghệ,…
3
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA TRUNG QUỐC TRONG QUAN HỆ
QUỐC TẾ
Trung Quốc thường được tán tụng là một trong số các siêu cường tiềm
năng trên thế giới hiện nay (cùng với các nước Ấn Độ, Brasil và Nga), một số
nhà bình luận cho rằng sự phát triển kinh tế nhanh chóng, phát triển năng lực
qn sự, dân số rất đơng, và ảnh hưởng quốc tế gia tăng là những dấu hiệu
cho thấy Trung Quốc sẽ giữ vị thế nổi bật trên toàn cầu trong thế kỷ XXI. Một
4
số học giả lại đặt câu hỏi về định nghĩa "siêu cường", lý luận rằng chỉ riêng
kinh tế lớn sẽ không giúp Trung Quốc trở thành siêu cường, và lưu ý rằng
Trung Quốc thiếu ảnh hưởng quân sự và văn hóa như Hoa Kỳ.
2.1. Chính trị, ngoại giao
Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa trở thành một thành viên của Liên Hiệp
Quốc từ năm 1971 sau khi chính thể này thay thế Trung Hoa Dân Quốc trong
vị thế thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an. Trung Quốc cũng là thành
viên của một số tổ chức quốc tế đa phương chính thức và phi chính thức,
trong đó nổi bật như: WTO, APEC, BRICS, SCO và G-20,...
Quan hệ đối ngoại của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC), thường
được hầu hết các quốc gia gọi là Trung Quốc, hướng dẫn cách thức mà Trung
Quốc tương tác với các quốc gia nước ngoài và thể hiện các điểm mạnh, điểm
yếu và giá trị chính trị, kinh tế và văn hóa của nước này. Là một cường quốc
lớn và siêu cường mới nổi, chính sách đối ngoại và tư duy chiến lược
của Trung Quốc là: Trung Quốc chính thức tuyên bố nước này "kiên trì theo
đuổi một chính sách đối ngoại độc lập hịa bình. Các mục tiêu cơ bản của
chính sách này là để bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
Trung Quốc, tạo ra một môi trường quốc tế thuận lợi cho cải cách, mở cửa và
hiện đại hóa xây dựng của Trung Quốc, và để duy trì hịa bình thế giới và thúc
đẩy sự phát triển chung. " Một ví dụ về quyết định chính sách đối ngoại được
hướng dẫn bởi "chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ" là không tham gia vào quan
hệ ngoại giao với bất kỳ quốc gia nào công nhận Trung Hoa Dân Quốc (Đài
Loan), mà Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không công nhận là một quốc gia
riêng biệt.
Trung Quốc là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, nắm giữ các vị trí
chủ chốt như là thành viên thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp
Quốc. Các mục tiêu ngoại giao của Trung Quốc trước kia là chủ nghĩa bành
trướng để đạt được cách mạng cộng sản quốc tế trước khi Cách mạng Văn
5
hóa kết thúc. Vào đầu những năm 1970, Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa đã
thay thế Trung Hoa Dân Quốc, thành chính phủ được cơng nhận của "Trung
Quốc" tại Liên Hiệp Quốc sau Nghị quyết 2758. Là một cường quốc hạt nhân,
Trung Quốc đã ký Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân tại Liên Hiệp
Quốc. Chính sách đối ngoại của Trung Quốc ngày nay được tóm tắt là quan
hệ chiến lược với các nước láng giềng và các siêu cường của thế giới nhằm
phấn đấu vì lợi ích quốc gia của Trung Quốc, và tạo ra một môi trường thuận
lợi cho sự phát triển trong nước của Trung Quốc để cạnh tranh lâu dài trên thế
giới trong dài hạn.
Trong phát biểu về chính sách đối ngoại của Mỹ, Ngoại trưởng Antony
Blinken từng nhận định: “Trung Quốc là quốc gia duy nhất có đủ sức mạnh
kinh tế, ngoại giao, quân sự và công nghệ để thách thức hệ thống quốc tế”
2.1.1. Với Hoa Kỳ và phương Tây
Mối quan hệ quốc tế giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Hoa
Kỳ khá phức tạp. Cả hai nước đều có quan hệ đối tác kinh tế cực kỳ nhiều, và
một lượng lớn quan hệ thương mại giữa hai nước đòi hỏi một số quan hệ
chính trị tích cực, nhưng vẫn tồn tại những mâu thuẫn nghiêm trọng. Đây là
một mối quan hệ hợp tác kinh tế, nhưng lại cạnh tranh quyền bá chủ ở Thái
Bình Dương, và hai nước nghi ngờ lẫn nhau về ý định của đối phương. Vì
vậy, cả hai quốc gia này đã áp dụng một thái độ thận trọng về đối phương như
một kẻ thù tiềm năng trong khi đồng thời lại là đối tác kinh tế cực kỳ mật thiết
của nhau. Mối quan hệ này đã được mô tả bởi các nhà lãnh đạo thế giới và các
học giả là mối quan hệ song phương quan trọng nhất thế giới của thế kỷ XXI.
Tính đến năm 2019, Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất thế giới và Trung
Quốc là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, mặc dù Trung Quốc có GDP lớn hơn
khi đo bằng PPP. Quan hệ giữa hai nước nói chung là ổn định với một số thời
kỳ xung đột mở, đáng chú ý nhất là trong chiến tranh Triều Tiên và chiến
tranh Việt Nam. Hiện nay, Trung Quốc và Hoa Kỳ có chung lợi ích chính trị,
6
kinh tế và an ninh, bao gồm nhưng không giới hạn sự gia tăng vũ khí hạt
nhân, mặc dù có những lo ngại chưa được giải quyết liên quan đến vai trị của
dân chủ của chính phủ Trung Quốc và nhân quyền ở cả hai quốc gia. Trung
Quốc đang là chủ nợ nước ngoài lớn nhất của Hoa Kỳ. Hai nước vẫn
đang tranh chấp về các vấn đề lãnh thổ ở Biển Đơng.
Theo cuộc thăm dị của BBC World Service 2017, 33% người Mỹ nhìn
nhận ảnh hưởng của Trung Quốc một cách tích cực và 61% bày tỏ quan điểm
tiêu cực. Tương tự như vậy, chỉ có 22% người Trung Quốc nhìn nhận ảnh
hưởng của Mỹ một cách tích cực và 70% xem nó là tiêu cực. Theo khảo sát
năm 2019 của Trung tâm nghiên cứu Pew, 26% người Mỹ có quan điểm tích
cực về Trung Quốc, với 60% bày tỏ quan điểm tiêu cực. Cuộc thăm dò cũng
cho thấy 24% người Mỹ coi Trung Quốc là mối đe dọa hàng đầu đối với
Mỹ. Quan hệ với Trung Quốc bắt đầu dưới thời Tổng thống Hoa Kỳ George
Washington, dẫn đến Hiệp ước Wangxia năm 1845. Hoa Kỳ đã liên minh
với Trung Hoa Dân Quốc trong Chiến tranh Thái Bình Dương, nhưng sau
chiến thắng của phe Cộng sản ở Trung Quốc đại lục trong Nội chiến Trung
Quốc, Hoa Kỳ đã có một cuộc xung đột vũ trang lớn với Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa trong Chiến tranh Triều Tiên. Hai nước không thiết lập quan hệ
ngoại giao trong suốt 25 năm, cho đến chuyến thăm năm 1972 của Tổng
thống Richard Nixon tới Trung Quốc. Kể từ chuyến thăm của Nixon, mọi
tổng thống Mỹ, ngoại trừ Jimmy Carter, đều đã đi thăm Trung Quốc. Quan hệ
với Trung Quốc đã căng thẳng theo chiến lược xoay vòng châu Á của Tổng
thống Barack Obama. Bất chấp căng thẳng trong nhiệm kỳ của Obama, sự
ủng hộ của người dân Trung Quốc đối với Hoa Kỳ vẫn ở mức 51% trong năm
2016, chỉ giảm trong thời gian của chính quyền Trump.
Các mối quan hệ giữa hai nước đã xấu đi nhanh chóng dưới thời Tổng
thống Donald Trump, với việc chính quyền Trump đã coi Trung Quốc là "đối
thủ cạnh tranh chiến lược" bắt đầu từ Chiến lược An ninh Quốc gia 2017. Sau
7
đó, Hoa Kỳ đã phát động một cuộc chiến thương mại chống lại Trung Quốc,
cấm các công ty Mỹ bán thiết bị cho Huawei và các công ty khác liên quan
đến vi phạm nhân quyền ở Tân Cương, tăng hạn chế thị thực đối với các sinh
viên và học giả quốc tịch Trung Quốc và chỉ định Trung Quốc là một quốc
gia thao túng tiền tệ. Trong thời gian của chính quyền Trump, và đặc biệt là kể
từ khi cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung bắt đầu, các nhà quan sát chính trị đã
bắt đầu cảnh báo rằng một cuộc chiến tranh Lạnh mới đang xuất
hiện. Michael D. Swaine đã cảnh báo vào năm 2019, "Các lực lượng, lợi ích
và niềm tin tích cực và lạc quan thường xun duy trì trong nhiều thập kỷ
đang nhường chỗ cho sự bi quan khơng đáng có, sự thù địch và suy nghĩ
khơng có căn cứ trong hầu hết mọi lĩnh vực liên quan." Đến tháng 5 năm
2020, mối quan hệ này đã đạt đến một mức thấp mới khi cả hai bên đang
tuyển mộ các đồng minh để tấn công nhau liên quan đến cảm giác tội lỗi
về đại dịch COVID-19 trên toàn thế giới. Quan hệ giữa hai nước trở nên tồi tệ
hơn trước quyết định của Trung Quốc áp đặt các biện pháp kiểm sốt hơn nữa
đối với Hồng Kơng. Tương tự với Hoa Kỳ, các quốc gia EU có quan hệ không
mấy tốt đẹp với Trung Quốc, chủ yếu về vấn đề nhân quyền.
Chiến tranh thương mại:
Chiến tranh thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc (còn được gọi tắt
là Thương chiến Mỹ Trung) khởi đầu vào ngày vào ngày 22 tháng 3 năm
2018 khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump tuyên bố sẽ áp dụng
mức thuế 50 tỷ đơ la Mỹ cho hàng hóa Trung Quốc dựa theo Mục 301 của
Đạo luật Thương mại năm 1974, để ngăn chặn những gì họ cho là hành vi
thương mại khơng cơng bằng và hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ. Danh sách
thuế quan trọng tập trung vào các sản phẩm được đưa vào kế hoạch Made in
China 2025, bao gồm các sản phẩm liên quan đến CNTT và robot. Nó cho
phép tổng thống có thẩm quyền đơn phương áp dụng tiền phạt hoặc các hình
phạt khác đối với một đối tác thương mại nếu nó được cho là khơng công
8
bằng gây tổn hại đến lợi ích kinh doanh của Hoa Kỳ. Vào tháng Tư, Trump đã
áp đặt thuế quan đối với hàng nhập khẩu thép và nhôm từ Trung
Quốc, Canada và các nước trong Liên minh châu Âu.
Ngày 6 tháng 7 năm 2018, Donald Trump cho áp đặt thuế quan đối với
hàng hóa trị giá 34 tỷ USD của Trung Quốc, đưa đến việc Trung Quốc đáp lại
với các mức thuế tương tự đối với các sản phẩm của Mỹ. Chính quyền Trump
cho biết thuế quan là việc cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia và sở hữu trí
tuệ của các doanh nghiệp Mỹ, và giúp giảm thâm hụt thương mại của Mỹ đối
với Trung Quốc. Trong tháng 8 năm 2017, Trump đã mở một cuộc điều tra
chính thức về các vụ tấn cơng vào tài sản trí tuệ của Mỹ và các đồng minh của
mình, việc trộm cắp ước tính gây tốn kém cho Mỹ khoảng 600 tỷ đô la một
năm.
Kết quả là Hoa Kỳ tuyên bố luật pháp Trung Quốc làm suy yếu quyền
sở hữu trí tuệ bằng cách buộc các cơng ty nước ngồi tham gia liên doanh với
các công ty Trung Quốc, sau đó cho phép các cơng ty Trung Quốc truy cập và
cho phép sử dụng, cải tiến, sao chép hoặc đánh cắp công nghệ của họ. Trump
cũng coi kế hoạch công nghiệp kỹ thuật của Made in China 2025 (Sản xuất tại
Trung Quốc 2025) là mối đe dọa đối với nền kinh tế và an ninh quốc gia của
Hoa Kỳ, do đó kêu gọi Trung Quốc dừng tồn bộ kế hoạch. Tuy nhiên, Trung
Quốc lập luận rằng họ đã tăng cường bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và rằng Hoa
Kỳ đã bỏ qua nỗ lực này; rằng Hoa Kỳ đã bỏ qua các quy tắc của WTO và bỏ
qua các lời kêu gọi của các ngành cơng nghiệp của mình để giảm thuế. Trung
Quốc kiên quyết phản đối các tập quán thương mại này của Hoa Kỳ, tin rằng
họ đại diện cho "chủ nghĩa đơn phương" và "chủ nghĩa bảo hộ".
2.1.2. Với các nước châu Á
Chiến lược khu vực của Trung Quốc bắt nguồn một phần từ đại chiến
lược toàn cầu của nước này. Vấn đề nội địa được quản tâm hàng đầu của các
nhà lãnh đạo Trung Quốc là duy trì ổn định chính trị và đảm bảo quyền lực
9
liên tục của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Những nhà lãnh đạo của
ĐCSTQ đã cố gắng gây dựng nguồn lực ủng hộ chính trị mới bằng cách nâng
cao chất lượng cuộc sống thơng qua sự tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh
tế và bằng cách khơi dậy tinh cam dân tộc chủ nghĩa. Trong suốt thời kì đổi
mới, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tập trung vào việc duy trì một mơi
trường quốc tế mang tính ổn định hỗ trợ cho hiện đại hóa nền kinh tế. Mục
tiêu này đòi hỏi Trung Quốc phải tránh mối quan hệ thù địch với Mỹ, quốc gia
đang giữ sức mạnh thống trị trong hệ thống quốc tế hiện tại. Do sự đồi đâu có
chi phí q lớn. Bắc Kinh theo đuổi quan hệ ấn định, hợp tác với Washington.
Tuy nhiên nhiều người trong giới tinh hoa Trung Quốc tin rằng nước Mỹ vẫn
mưu cầu lật đổ hệ thống chính trị Trung Quốc và tìm cách kìm hãm tiềm năng
kinh tế vàquân sự của nước này. Do đó Trung Quốc ln có găng xây dựng
mối quan hệ tích cực với các cường quốc hiện hữu cũng như tiềm tàng để tạo
thuận lợi cho sự xuất hiện của một trật tự thế giới đa cực và khơng cho Mỹ có
cơ hội xây dựng một liên minh nhằm kiềm chế Trung Quốc và ngăn chặn sự
tiếp tục lớn mạnh của nước này. Bằng cách quản lý tốt mối quan hệ với Mỹ,
các cường quốc khác, và với các quốc gia đang phát triển, các nhà lãnh đạo
Trung Quốc hi vọng rằng sẽ tận dụng được thời kỳ cơ hội chiến lược trong hai
thập kỷ đầu thế kỷ 21 để xây dựng sức mạnh quốc gia tồn diện của Trung
Quốc và nâng cao vị trí quốc tế của quốc gia này. Đại chiến lược này xác định
bối cảnh quốc tế và trong nước mà trong đó Trung Quốc hình thành và theo
đuổi chính sách Châu Á của mình. Châu Á là vùng có tầm trọng lớn nhất trên
thế giới đối với Trung Quốc trong lĩnh vực kinh tế, an ninh và chính trị. Đây
cũng là đích đến quan trọng nhất đối với xuất khẩu Trung Quốc (chiếm 45%
xuất khẩu Trung Quốc trong năm 2004) và đối với đầu tư Trung Quốc (chiếm
ít nhất 2,45 tỉ đơ la đầu tư nước ngồi của Trung Quốc trong năm 2005). Châu
Á đóng vai trị như nguồn ngun liệu thô, nhà cung cấp linh kiện, công nghệ
và chuyên môn quản lý cho mạng lưới sản xuất toàn cầu hoạt động tại Trung
Quốc; và Châu Á cũng ngày càng đóng vai trò là thị trường cho các sản phẩm
10
hoàn thiện của Trung Quốc. Nguồn vốn FDI Châu Á đóng vai trị chủ đạo
trong việc thúc đẩy kinh tế Trung Quốc phát triển và bùng nổ xuất khẩu. Sự
thành cơng của nền kinh tế Trung Quốc có thể được quy cho hoạt động của
các công ty đa quốc gia vốn nhập khẩu linh kiện thành phần từ Châu Á, lắp
ráp hàng hóa sử dụng lao động người Trung Quốc, và xuất khẩu các sản phẩm
đã hoàn thành đến các thị trường ở Mỹ, Châu Âu, và các nơi khác. Xấp xỉ
60% xuất khẩu Trung Quốc được sản xuất bởi các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngồi, rất nhiều trong số đó đóng trụ sở tại Châu Á.” Trung Quốc
ngày càng trở nên phụ thuộc vào dầu thô nhập khẩu từ khu vực Trung Đông
và vào các tuyến đường giao thông trên biển phục vụ cho trao đổi hàng hóa.
Phần lớn lưu lượng giao thơng này đều đi qua các vùng biển của các nước
Châu Á, bao gồm cả các điểm nghên tiềm tàng như eo biển Malacca Địa lý
cũng khiến Châu Á đóng vai trị quan trọng đối với Trung Quốc từ góc độ an
ninh Trung Quốc có chung đường biên giới đất liền với 14 nước Đông Nam
Á, Nam Á, và Trung Á. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc quan ngại rằng các
nước láng giềng có thể là cơ sở cho các lực lượng lật đổ hoặc cho những nỗ
lực quân sự để kiềm chế Trung Quốc. Đây là mối quan tâm chính bởi phần
lớn các dân tộc thiểu số của Trung Quốc, điều mà các nhà lãnh đạo Trung
Quốc nhìn nhận như một mối đe dọa ly khai tiềm tàng, sống ở các vùng biên
giới có dân cư thưa thớt. Sự quan ngại của người Trung Quốc về mối đe dọa
đến từ "chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa ly khai, và chủ nghĩa tôn giáo cực
đoan" đã thúc đẩy gia tăng các nỗ lực hợp tác an ninh với các nước láng giềng
Trung Á và Nam Á. Tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết của Trung
Quốc đều nằm ở Châu Á, bao gồm tranh chấp quần đảo Trường Sa và Biển
Đông, quần đảo Điếu Ngư/Senkaku và một phần biển Hoa Đông. và yêu sách
của Trung Quốc đối với Đài Loan, Trung Quốc cũng lo ngại về khả năng bao
vây và đe dọa từ lực lượng qn sự thơng thường đóng ở xung quanh nước
này. Vào những năm 1960, Mỹ có lực lượng quân sự đáng kể đóng ở Đài
Loan, Philippines, Nhật Bản, Hàn Quốc, và Thái Lan, tất cả đều nằm trong
11
phạm vi có thể tấn cơng vào lãnh thổ Trung Quốc. Các chiến lược gia Trung
Quốc rất nhạy cảm với các hành động gần đây của Mỹ để củng cố khả năng
triển khai sức mạnh quân sự của mình ở Thái Bình Dương và viễn cảnh các
liên minh của Mỹ ở Châu Á sẽ một ngày nào đó quay qua chống lại Trung
Quốc.
Cuối cùng, Châu Á cũng mang tầm quan trọng trong mơi trường chính
trị. Đó là nơi hiện diện các cường quốc chính như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn
Độ, và các nền kinh tế tiên tiến như Hàn Quốc và Singapore. Đông Á chiếm
29% dân số thế giới và sản xuất khoảng 19% GDP toàn cầu. Nếu Châu Á có
khả năng hành động chung, đó có thể là đối thủ địa chính trị nặng kí đối với
Bắc Mỹ và Châu Âu, Châu Á có lịch sử thiếu vắng các mạng lưới thể chế khu
vực vốn mang lại sự hợp tác kinh tế và an ninh như tại Châu Âu, hỗ trợ quá
trình hội nhập khu vực, dẫn đến sự thành lập Liên minh Châu Âu. Sự đa dạng
về chính trị, dân tộc và văn hóa của khu vực và xu hướng các quốc gia Châu
Á cạnh tranh nhau trong việc bảo vệ chủ quyền của họ đã cản trở sự thành lập
các tổ chức mạnh mẽ trong khu vực. Tuy nhiên, trong thập kỷ vừa qua, các tổ
chức khu vực mới đã nổi lên để thúc đẩy hợp tác khu vực giữa các nước Châu
Á về kinh tế, an ninh, và chính trị. Một loạt các tổ chức phi chính phủ và
mạng lưới liên kết con người-với con người mạnh mẽ đã nổi lên ở cấp độ xã
hội. Một số nhìn nhận các quá trình này như sự thúc đẩy hội nhập khu vực lớn
hơn, điều sẽ tạo thay 1 đổi lớn cho động lực chính trị của Châu Á. Trung
Quốc có lợi ích lớn trong việc ảnh hưởng đến sự phát triển chính trị của khu
vực theo cách có thể đẩy mạnh lợi ích của Trung Quốc, hạn chế các diễn tiến
có thể đi ngược lại với những mục tiêu của nước này. Kết quả mà Trung Quốc
mong muốn là một môi trường ổn định ở Châu Á cho phép kinh tế Trung
Quốc tiếp tục tăng trưởng mạnh để hỗ trợ cho việc gia tăng sức ảnh hưởng
của Trung Quốc. Nhiều nhà phân tích phương Tây tin rằng mục tiêu tối hậu
(nhưng không công khai) của Trung Quốc là thay thế vị trí của Mỹ trong vai
trị cường quốc thống trị ở Châu Á."
12
Nhiều nhà phân tích Trung Quốc thừa nhận rằng vai trị của Mỹ trong
việc duy trì ổn định khu vực và bảo vệ các đường giao thơng trên biển đóng
góp lớn cho việc duy trì ổn định khu vực và có lợi cho Trung Quốc. Liên
minh an ninh Mỹ - Nhật có tác động kiềm chế nhất định đối với Tokyo, mặc
dù các nhà phân tích Trung Quốc tin rằng ảnh hưởng của hạn chế này đã bị
giảm đi trong những năm gần đây do các chuyển biến trong liên minh và việc
dỡ bỏ dần dần những hạn chế pháp lý đối với các hoạt động quân sự của Nhật
Bản. Tuy nhiên, khả năng sức mạnh của Mỹ và các liên minh có thể được
dùng để chống lại Trung Quốc khiến các nhà phân tích nước này cảm thấy
khơng thoải mái với vai trò quan tỉnh lâu dài của Mỹ ở khu vực Trung Quốc
phủ nhận tham vọng muốn thống trị Châu Á, tuyên bố rằng nước này sẽ
không bao giờ mưu cầu quyền bá chủ và nói về sự hợp tác trên nền tảng công
bằng, tôn trọng lẫn nhau, và không can thiệp vào công việc nội bộ của các
nước khác. Nhưng các nhà lãnh đạo Trung Quốc có nhận thức sâu sắc về xu
hướng đang thay đổi trong cân bằng sức mạnh khu vực và toàn cầu, điều đang
được theo dõi sát sao bởi các cơ quan tình báo và các viện nghiên cứu Trung
Quốc.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận thức được rằng sự lớn mạnh về
kinh tế và quân sự của Trung Quốc được nhìn nhận như một mối đe dọa tiềm
tàng bởi các quốc gia khác trong khu vực. Sự quan ngại này một phần phản
ảnh di sản của sự ủng hộ của Trung Quốc trước đây đối với các đảng cộng sản
và phong trào giải phóng dân tộc ở các quốc gia Châu Á. Bắc Kinh kết thúc
sự ủng hộ dựa trên ý thức hệ này vào đầu những năm 1980, nhưng các quốc
gia Châu Á vẫn thận trọng về khả năng Trung Quốc có thể xây dựng mối quan
hệ với các cơng dân gốc Trung Quốc nhằm làm xói mịn chủ quyền quốc gia
của họ. Những mối quan ngại tiềm ẩn này càng trầm trọng hơn bởi những nỗ
lực hiếu chiến của Trung Quốc trong việc theo đuổi những yêu sách lãnh thổ
đối với quần đảo Trường Sa, bao gồm việc chiếm đóng vào năm 1995 và sau
đó gia cố bãi Vành Khăn (Mischief Reef), một bãi đá nhỏ Biển Đông được
13
tuyên bố chủ quyền bởi Philippines. Cuối năm 1995 và tháng 3 năm 1996,
Trung Quốc đã cảnh tỉnh nhiều quốc gia trong khu vực bởi việc sử dụng các
đợt diễn tập quân sự (trong đó bao gồm việc bắn tên lửa đạn đạo ở vùng biển
gần Đài Loan) để bày tỏ sự khơng hài lịng của mình với quyết định của Mỹ
cho phép tổng thống Đài Loan Lý Đăng Huy đến thăm Mỹ và có bài phát biểu
tại trường Đại học Cornell. Những hành động này dẫn tới những bài báo nhấn
mạnh về sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, tiến trình hiện đại hóa qn sự,
và sự gia tăng chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc và đặt ra câu hỏi liệu Trung
Quốc có đe dọa đến khu vực Châu Á – Thái Bình Dương hay khơng. Các
quan chức và học giả Trung Quốc cơng kích “thuyết mối đe dọa Trung Quốc”
nhưng cũng thừa nhận việc cần giải quyết mối quan ngại của các nước láng
giềng. Tuy nhiên, những nỗ lực, trấn an cũng đi kèm với việc tiếp tục gia tăng
chi tiêu quân sự (ngân sách quốc phòng chính thức đã có mức tăng thực tế hai
con số hằng năm kể từ năm 1999) và mở rộng khả năng quân sự, vốn trở
thành nguồn quan ngại mới ở Châu Á, đặc biệt là ở Nhật Bản.
Vấn đề nan giải của Trung Quốc là tìm cách để Châu Á chấp nhận một
vai trò áp đảo khu vực của Trung Quốc mà không gây thù địch với Mỹ hoặc
gây mất ổn định khu vực. Nhiệm vụ này càng trở nên khó khăn hơn bởi vấn
đề Đài Loan, vì Bắc Kinh tự coi “lợi ích cốt lõi" của mình là ngăn chặn Đài
Loan độc lập. Trong tương lai, hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc tập trung
vào phát triển các năng lực nhằm ngăn chặn Đài Loan độc lập (được Quân đội
Giải phóng Nhân dân [PLA] xác định là phát triển các năng lực để răn đe và
làm tăng chi phí can thiệp quân sự của Mỹ). Bắc Kinh đã từ chối loại trừ việc
sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề Đài Loan, mặc dù việc giải quyết vấn đề
bằng phương pháp hịa bình vẫn được ưu tiên hơn. Các nhà lãnh đạo Trung
Quốc cố gắng đóng khung Đài Loan như là một "vấn đề nội bộ”, một điều
không liên quan đến các hành vi quốc tế của nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa, nhưng nhiều quốc gia Châu Á và Mỹ) sẽ cảnh giác cao độ nếu Trung
Quốc sử dụng vũ lực chống lại Đài Loan. Sự chuẩn bị về quân sự của Trung
14
Quốc để đối phó các khả năng liên quan đến Đài Loan đã ngấm ngầm làm suy
giảm những nỗ lực của nước này trong việc trấn an khu vực rằng nước này sẽ
có trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực quân sự lớn mạnh của mình.
2.1.3. Với các nước Châu Phi
Theo chuyên gia nghiên cứu về Trung Quốc Sanne van der Lugt, một
thực tế thường bị bỏ qua hoặc phủ nhận là các hoạt động kinh tế của Trung
Quốc tại châu Phi khơng tệ hơn (và thường thậm chí không tệ bằng) các hoạt
động của Mỹ hoặc châu Âu ở châu lục này.
Theo bà Sanne van der Lugt, trên thực tế, Trung Quốc không phải là
một tác nhân đơn nhất. Bắc Kinh khơng nhìn thấy, lập kế hoạch và kiểm soát
mọi thứ mà các “nhân tố” Trung Quốc làm ở lục địa châu Phi. Điều này là do
có nhiều nhóm người Trung Quốc khác nhau hoạt động trên lục địa châu Phi.
Những người Trung Quốc đầu tiên đến Nam Phi là những công nhân nô
lệ được người Hà Lan đưa đến đây từ thuộc địa Batavia của họ vào thế kỷ 17
và 18. Và những người Trung Quốc đầu tiên ở Nigeria là chủ các nhà máy dệt
đã rời khỏi Trung Quốc để đến Khu hành chính đặc biệt Hong Kong trong
cuộc nội chiến Trung Quốc. Họ đã bán một số vải của mình cho các thương
nhân Liban, những người bán lại số hàng này ở Nigeria. Đây là cách các chủ
nhà máy dệt Trung Quốc này biết được rằng có thị trường tiêu thụ vải của họ
ở Nigeria. Một chủ nhà máy, người đã tham gia dòng người di cư từ Hong
Kong đến Nigeria, đã thành lập 10 nhà máy dệt ở Nigeria, sử dụng hơn 1.000
nhân công mà hầu hết là người địa phương.
Khoảng 5 năm trước, một học giả người Mỹ đã nhận xét tại một hội
nghị quốc tế về quan hệ Trung Quốc-châu Phi rằng các nhà đầu tư Trung
Quốc sắp tiếp quản tất cả các doanh nghiệp ở châu Phi và nếu các nước
phương Tây khơng hành động “thì ngay cả những ngành truyền thống như dệt
may địa phương cũng sẽ về tay của người Trung Quốc”. Sự thật là kỹ thuật
15
nhuộm sáp và in các hoa văn bằng phương pháp thủ công ở Tây Phi xuất phát
từ việc người Hà Lan giới thiệu kỹ thuật “Batik” của Indonesia ở đây. Thứ
hai, thương hiệu nổi tiếng nhất về hàng dệt in sáp ở Tây Phi hiện nay là
Vlisco, một công ty Hà Lan khơng có nhà thiết kế nào người châu Phi. Bên
cạnh đó, người châu Âu có quan niệm rằng “những người châu Phi nghèo khổ
đó” khơng phù hợp với các nhà đầu tư Trung Quốc và họ cần được bảo vệ.
Bà Sanne van der Lugt đã đến thăm Kinshasa để nghiên cứu về các dự
án cơ sở hạ tầng của Trung Quốc ở Zambia và Cộng hòa Dân chủ Congo
(DRC). Bà cùng đồng nghiệp người Đan Mạch đầu tiên đến phái đoàn của
Liên minh châu Âu (EU) tại Kinshasa để được một trong những nhà ngoại
giao châu Âu ở đó thơng báo về tình hình ở DRC. Nhà ngoại giao này cho
biết, Congo sẽ là kẻ thua cuộc lớn trong thỏa thuận đánh đổi tài nguyên lấy cơ
sở hạ tầng mà họ có với Trung Quốc. Họ khơng biết mỏ của họ trị giá bao
nhiêu và họ không biết những con đường mà người Trung Quốc đang xây
dựng có giá trị bao nhiêu và họ nghĩ rằng họ có thể kiếm được nhiều tiền hay
khơng?
Sau cuộc gặp đó tại phái đoàn EU, hai chuyên gia nghiên cứu tiếp tục
đến Cơ quan quản lý các cơng trình lớn Congo và Đơn vị điều phối các dự án
(cả hai cơ quan này đều thuộc Chính phủ Congo), nơi họ gặp các quan chức
chính phủ có bằng kỹ sư từ Mỹ và châu Âu. Họ biết chính xác giá trị của
những con đường mà các công ty Trung Quốc đang xây dựng. Các quan chức
chính phủ này thừa nhận rằng Chính phủ Congo thiếu chuyên môn về khai
thác mỏ, nhưng người Trung Quốc cũng vậy. Do đó, giải pháp mà Chính phủ
Congo và các công ty Trung Quốc tham gia vào dự án này đồng ý thực hiện là
thuê các chuyên gia Australia đánh giá các mỏ. Họ đã xây dựng hợp đồng đổi
tài nguyên lấy cơ sở hạ tầng dựa trên những ước tính của Australia.
Do được mơ tả là một con rồng đói khát tài nguyên của châu Phi, người
ta thường cho rằng Chính phủ Trung Quốc là bên chủ động trong các giao
16
dịch “trao đổi” giữa tài nguyên và cơ sở hạ tầng ở châu Phi. Tuy nhiên, điều
này không luôn luôn là như vậy. Ví dụ, một phái đồn Congo đến Bắc Kinh
đã đề nghị Chính phủ Trung Quốc về một thỏa thuận tương tự cho Congo như
Trung Quốc đã có với quốc gia láng giềng Angola, đổi bằng đồng thay vì dầu.
Nhiều người tin rằng các cơng ty Trung Quốc đã nhắm đến Sudan (một
quốc gia bất ổn với các thể chế tương đối yếu) để khai thác dầu, trong trường
hợp vắng bóng các cường quốc phương Tây. Tuy nhiên, thực tế lại hoàn toàn
khác. Khi lần đầu tiên được chính phủ của ơng Omar al-Bashir tiếp cận để
đầu tư vào nhượng quyền khai thác dầu, các quan chức Trung Quốc đã
khuyến nghị Sudan nên tìm đến cơng ty dầu mỏ Chevron của Mỹ. Tuy nhiên,
Chevron đã rời Sudan sau 18 năm hoạt động vào năm 1992 và khơng có ý
định quay trở lại.
Khi Mỹ xếp Sudan vào danh sách “nhà nước bảo trợ khủng bố” vào
năm 1993 và các lệnh trừng phạt kinh tế được thực hiện vào năm 1997, rõ
ràng là các công ty dầu mỏ khác của Mỹ (và châu Âu) sẽ không đầu tư vào
Sudan trong tương lai gần. Người Sudan bị bỏ lại phía sau khi biết rằng họ
đang có trữ lượng dầu khổng lồ nhưng khơng có chun mơn và tài chính cần
thiết để tự mình khai thác nguồn tài nguyên này. Đại sứ Sudan tại Bắc Kinh
khi đó đã làm mọi cách để thuyết phục Trung Quốc đầu tư vào lĩnh vực dầu
mỏ của Sudan.
Người châu Âu cũng có xu hướng đổ lỗi cho Chính phủ Trung Quốc về
việc ủng hộ các nhà độc tài châu Phi. Về phần mình, Chính phủ Trung Quốc
đổ lỗi cho các chính phủ phương Tây can thiệp vào các vấn đề quốc gia và
phớt lờ chủ quyền, khi họ đầu tư vào cái gọi là các tổ chức nền tảng ở các
nước khác.
Ví dụ, các cơng ty cơ sở hạ tầng Trung Quốc thực hiện báo cáo đánh
giá tác động môi trường khi họ được yêu cầu xây dựng một con đường xuyên
rừng mưa nhiệt đới hoặc một ngôi làng. Họ đưa ra các phương án khác nhau
17
(kế hoạch A đến hoặc kế hoạch B xung quanh rừng hoặc làng và các chi phí
khác nhau liên quan) và tuân theo quyết định của lãnh đạo địa phương.
Có một khía cạnh đặc biệt, đó là vấn đề ngoại giao bẫy nợ, khi các quốc
gia mắc nợ Chính phủ Trung Quốc rất nhiều. Nhiều người tin rằng Chính phủ
Trung Quốc cố tình cho các quốc gia vay tiền khơng đáng tin cậy để có được
quyền kiểm sốt trong các tài sản chiến lược như cảng và mỏ. Nhà khoa học
chính trị Deborah Brautigam đã giải thích rằng ngoại giao bẫy nợ không chỉ là
một ý tưởng rất thành công và khái niệm này có thể nhận được rất nhiều lực
kéo vì có thành kiến tiêu cực phổ biến đối với các hoạt động kinh tế của
Trung Quốc ở nước ngoài.
Trên thực tế, Trung Quốc chỉ là nước cho vay chính đối với ba quốc gia
châu Phi có thu nhập thấp bị Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) coi là lâm vào cảnh
túng quẫn hoặc sắp lâm vào cảnh khốn cùng. Hơn nữa, bà Brautigam cho thấy
rằng trong khi các thực thể của Trung Quốc tham gia vào việc xây dựng hoặc
vận hành 116 cảng ở nước ngoài ở 62 quốc gia, chỉ một (Hambantota, Sri
Lanka) được coi là một ví dụ thực tế (chứ khơng phải là khả năng dự kiến)
của ngoại giao bẫy nợ. Bà giải thích rằng trên thực tế tình hình ở Sri Lanka
cũng giống như tình hình ở Hy Lạp; bán cảng là một phương tiện để huy động
tiền nhằm giải quyết các vấn đề nợ lớn hơn.
2.2. Kinh tế
Sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Trung Quốc nổi
lên như một cường quốc kinh tế có sức hấp dẫn tồn cầu. Sự nổi lên của
Trung Quốc, một mặt, thách thức cạnh tranh đối với tất cả các quốc gia trên
thế giới, mặt khác, tạo cơ hội cho hàng hóa các nước có thể thâm nhập vào thị
trường lớn nhất thế giới này. Điều đó sẽ tác động tới các nước, buộc các quốc
18
gia phải có những điều chỉnh chính sách thích hợp trong quan hệ hợp tác với
Trung Quốc.
2.2.1. Vị thế siêu cường kinh tế.
Kinh tế Trung Quốc đại lục là một nền kinh tế thị trường công nghiệp
mới đang phát triển[15][16], có quy mơ lớn thứ hai trên thế giới (sau Hoa Kỳ)
nếu tính theo tổng sản phẩm quốc nội (GDP danh nghĩa) và đứng thứ nhất nếu
tính theo GDP sức mua tương đương (PPP). GDP Trung Quốc năm 2019 là
14.360 nghìn tỷ USD.[17] GDP bình quân đầu người danh nghĩa năm 2019 là
10.099 USD (18,110 USD nếu tính theo sức mua tương đương (PPP)), ở mức
trung bình cao so với các nền kinh tế khác trên thế giới (xếp thứ 79 trên thế
giới vào năm 2019). Trong những năm gần đây, GDP bình quân đầu người
của Trung Quốc tăng lên nhanh chóng nhờ tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định
ở mức cao. Năm 2005, 70% GDP của Trung Quốc là trong khu vực tư nhân.
Khu vực kinh tế quốc doanh chịu sự chi phối của khoảng 200 doanh nghiệp
quốc doanh lớn, phần nhiều ở trong các ngành dịch vụ tiện ích (điện, nước,
điện thoại...), cơng nghiệp nặng, và nguồn năng lượng.
Kể từ khi tiến hành cuộc cải cách kinh tế vào năm 1978, nền kinh kế
Trung Quốc đã có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng. Năm 2020, quy mơ nền
kinh tế Trung Quốc với hơn 1,4 tỷ dân đạt mức 24,1 nghìn tỷ USD[23] - đứng
số 1 thế giới tính theo sức mua tương đương (PPP), GDP danh nghĩa đạt mức
14,8 nghìn tỷ USD, xếp thứ 2 sau Hoa Kỳ, thu nhập bình quân đầu người đạt
mức 10,839 nghìn USD/người - xếp hạng 59 toàn cầu theo danh
nghĩa hoặc 17,206 USD/người, xếp hạng 73 trên thế giới theo sức mua.
Là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ nhưng có một nghịch lý
là cho đến nay, Trung Quốc vẫn được WTO xếp vào nhóm nước đang phát
triển.
19
Thời cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump còn tại chức, ông Trump đã
nhiều lần ép WTO hủy tư cách nước đang phát triển của Trung Quốc. Ông
Trump lập luận rằng, trong khi kinh tế thế giới đã có những bước tiến lớn thì
WTO vẫn đang dựa vào những tiêu chuẩn lỗi thời được đặt ra từ năm 1995 để
phân loại nhóm nước đang phát triển và nước phát triển. Điều này cho phép
một số thành viên WTO, ám chỉ Trung Quốc, được hưởng lợi thế không công
bằng trong thương mại quốc tế nhờ những quyền lợi ưu tiên mà WTO dành
cho các thị trường mới nổi.
Sau 4 thập kỷ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, thật khó để nhận định
Trung Quốc vẫn còn là một nước nghèo. GDP bình quân đầu người Trung
Quốc năm 2019 vượt ngưỡng 10.000 USD, quy mơ GDP tồn nền kinh tế
năm 2020 lần đầu phá mốc 100 nghìn tỷ NDT.
Một dự báo mới đây của chuyên gia kinh tế Rob Subbaraman từ
Nomura cho thấy, Trung Quốc có tiềm năng vượt mặt Mỹ trở thành nền kinh
tế lớn nhất thế giới (theo quy mô GDP tính bằng đồng USD) vào năm 2028.
Trong trường hợp đồng NDT tiếp tục mạnh lên chạm ngưỡng 6 NDT đổi 1
USD, Trung Quốc sẽ sớm vượt mặt Mỹ vào năm 2026.
Một thống kê thường niên của Tạp chí Hồ Nhuận vào tháng 10/2020
cũng chỉ ra rằng, trong năm ngoái, Trung Quốc có thêm 257 tỷ phú, tương
đương bình qn mỗi tuần nước này xuất hiện thêm 5 tỷ phú. Tính đến thời
điểm cơng bố thống kê, Trung Quốc là nước có số lượng tỷ phú lớn nhất thế
giới (878 người), vượt cả Mỹ với 788 tỷ phú.
Hồi giữa năm 2020, ông Ning Jizhe - người đứng đầu Cục Thống kê
Quốc gia Trung Quốc NBS cũng có bài phát biểu khẳng định sự thịnh vượng
của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. "Tính đến hết năm 2019, Trung Quốc đã
tích lũy được khối tài sản khổng lồ lên tới 1,3 nghìn tỷ NDT dưới dạng cơ sở
hạ tầng, tức là bình quân mỗi người dân Trung Quốc hiện ngồi trên khối tài
sản cơ sở hạ tầng lên tới gần 1 triệu NDT", ơng nói.
20
Tuy nhiên, phát ngơn này đã bị chỉ trích và chế giễu nặng nề bởi chính
người dân Trung Quốc, bởi vào thời điểm đó, tức trước cả khi đại dịch Covid19 bùng phát, hàng triệu người ở các vùng nông thơn vẫn đang sống trong
cảnh đói nghèo. Dịch Covid-19 rõ ràng đã làm trầm trọng thêm tình trạng bất
bình đẳng thu nhập tại Trung Quốc khi đẩy vô số người lao động trình độ thấp
vào cảnh thất nghiệp.
Số liệu được chính phủ Bắc Kinh cơng bố hồi tháng 1/2021 cho thấy,
20% người giàu nhất Trung Quốc có thu nhập bình quân khả dụng hơn 80.000
NDT (12.000 USD) trong năm 2020, cao gấp 10,2 lần so với thu nhập bình
quân khả dụng của 20% người nghèo nhất đất nước. Theo Ngân hàng Thế
giới, khoảng 373 triệu người Trung Quốc đang sống dưới mức nghèo khổ với
tổng thu nhập bình quân dưới 5,5 USD/ ngày.
Nhưng bỏ qua mọi con số sang một bên, có một thực tế là các cuộc
tranh luận về nội lực nền kinh tế Trung Quốc không cản bước những tham
vọng lớn của Bắc Kinh. Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia Trung Quốc
từ lâu đã đặt mục tiêu tăng gấp đôi quy mô GDP từ năm 2020 cho đến 2035.
Điều này ngụ ý Trung Quốc tham vọng sốn ngơi Mỹ trở thành nền kinh tế
lớn nhất thế giới trong vòng 15 năm tiếp theo, đồng thời xác lập vai trị thiết
yếu trong chuỗi cung ứng tồn cầu.
Cuối tháng 11/2020, Phó Chủ tịch Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc
gia Trung Quốc Lian Weiliang - một trong những nhà hoạch định chính sách
hàng đầu của Bắc Kinh cũng tuyên bố tại Diễn đàn Cải cách Trung Quốc rằng
nước này sẽ sớm vượt Mỹ trở thành thị trường tiêu dùng hàng đầu thế giới.
2.2.2. Công xưởng của thế giới.
Từ trước đến nay Trung Quốc nổi tiếng là một quốc gia phát triển và có
thế mạnh trong lĩnh vực sản xuất. Thế nên “Công xưởng lớn của thế giới”
chính là biệt danh của nền cơng nghiệp khổng lồ ở Trung Quốc.
21
Nền công nghiệp sản xuất của Trung Quốc từ trước đến nay dường như
khơng có đối thủ về độ sâu rộng. Bởi vì đây là nơi tập trung của những nhà
máy sản xuất quốc tế lớn nhất thế giới – Đây chính là cốt lõi để hình thành và
duy trì vị trí cơng xưởng thế giới. Trung Quốc sản xuất tất cả mọi thứ, từ đơi
vớ bình thường cho đến sản phẩm công nghệ sinh học tối tân. Tuy chi phí
ngun liệu, nhân cơng, vật liệu ngày càng tăng nhưng Trung Quốc vẫn luôn
giữ vững được khả năng cạnh tranh cao. Để có được điều này là nhờ Trung
Quốc có sự kết hợp giữa các cụm sản xuất có cơ sở hạ tầng hiện đại, và các
nhà máy luôn được nâng cấp, cải tiến từng ngày. Số lượng nhà máy sản xuất
tại Trung Quốc nằm ở một con số rất lớn mà dường như khơng có đất nước
nào có thể đạt được. Điều này giải thích vì sao hiếm có một đất nước nào trên
thế giới cạnh tranh được với các doanh nghiệp sản xuất tại Trung Quốc. Có
khơng ít nhà máy tại Trung Quốc khởi nghiệp rồi dần dần trở thành những đối
thủ đáng gờm với các công xưởng tại Mỹ, Nhật, Hàn. Và hiện nay, trên thực
tế cho thấy rằng có khơng ít lĩnh vực trọng yếu của Trung Quốc đã vượt qua
Mỹ một cách xuất sắc nhất.
Cũng vì sở hữu một số lượng khơng nhỏ các nhà máy và công xưởng
sản xuất, nên Trung Quốc thường sản xuất hồng hóa với số lượng rất lớn.
Bên cạnh đó, hàng hóa Trung Quốc sản xuất khơng chỉ được tiêu thụ tại thị
trường trong nước mà còn được xuất khẩu ra nước ngồi. Đặc biệt, hàng hóa
Trung Quốc thường đánh đúng vào nhu cầu của người tiêu dùng trên toàn cầu.
Bởi vì, các mặt hàng cần thiết trong cuộc sống hàng ngày như quần áo, giày
dép, trang sức, phụ kiện hay các yếu phẩm, đồ dùng nội thất,… được các nhà
sản xuất Trung Quốc luôn chú trọng đẩy mạnh và sản xuất. Hơn nữa, Trung
Quốc cũng đa dạng hóa các mặt hàng này nên người tiêu dùng có thể thoải
mái lựa chọn được sản phẩm mà mình ưng ý nhất.
Trung Quốc được biết đến là một trong những quốc gia đơng dân nhất
thế giới, do đó nguồn nhân cơng của Trung Quốc khá dồi dào và hoàn toàn
22
không phải lo thiếu nhân lực. Và mấu chốt vấn đề ở đây chính là Trung Quốc
dường như đã giải quyết được bài tốn nhân cơng cho thế giới cơng nghiệp.
Mặt khác, dựa trên một quy mô dân số khổng lồ dẫn đến Trung Quốc là quốc
gia có chi phí nhân cơng rẻ nhất trên thế giới. Từ đó, làm cho rất nhiều doanh
nghiệp và xưởng sản xuất có thể tiết kiệm được khá nhiều chi phí, giúp giá
thành sản phẩm hạ xuống một cách đáng kể.
Tại Trung Quốc, cùng một ngành nghề hay lĩnh vực sản xuất có khá
nhiều doanh nghiệp cùng cạnh tranh với nhau. Thế nên, để có thể duy trì khả
năng cạnh tranh, dường như các doanh nghiệp này ln phải gồng mình chịu
gánh nặng tăng giá hàng hóa vật tư đầu vào mà khơng gánh qua cho người
tiêu dùng. Như ở Việt Nam, nếu hàng hóa chiến lược đầu vào như xăng tăng
lên thì sẽ kéo theo sự tăng giá của rất nhiều mặt hàng khác, nhưng đối với
Trung Quốc thì khơng. Đây cũng chính là phương châm của các công xưởng
tại Trung Quốc mà không phải quốc giá nào cũng làm được.
Dân số đông, diện tích lớn giúp Trung Quốc có những vùng ngun
liệu khá lớn, nên có thể cung ứng được cho nền sản xuất trong nước. Chính vì
thế, Trung Quốc ln có thể tự chủ động được nguồn nguyên liệu mà hầu như
không cần phải nhập khẩu từ các nước khác. Đây là điều mà rất ít quốc gia
nào có thể làm được.
Nhà nước Trung Quốc ln sẵn sàng khuyến khích và tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất phát triển. Đồng thời, các ngân hàng ở
Trung Quốc cũng ln sẵn sàng góp vốn và cho doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
vay. Nếu trường hợp các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất khơng có khả năng
chi trả, thì nhà nước sẽ ra tay “cứu trợ” trong bất kỳ mọi trường hợp nào.
Cho đến thời điểm hiện tại, rõ ràng nền công nghiệp sản xuất của Trung
Quốc vẫn ln có sự phát triển nổi bật. Trung Quốc ln cho thấy sự đổi mới
về cơng nghệ cũng trình độ sản xuất, kỹ thuật ngày càng cao. Đặc biệt, họ
luôn chú trọng nhiều hơn trong việc nghiên cứu và phát triển, thế nên khả
23
năng cạnh tranh của quốc gia này ngày một cao hơn. Và một minh chứng rõ
ràng đó chính là, nền sản xuất công nghiệp của Trung Quốc luôn đứng vững
với cái tên “Cơng xưởng lớn của thế giới”
Chính vì những lý do trên mà Trung Quốc thu hút được nhiều nguồn
đầu tư từ nhiều quốc gia trên thế giới. Đa phần sản phẩm các thương hiệu lớn
đều được sản xuất một phần hoặc toàn bộ ở Trung Quốc. Việc nắm giữ năng
lực sản xuất lớn khiến nhiều nhà sản xuất bị phụ thuộc khó tách rời.
2.2.3 Thị trường tiêu thụ lớn
Là quốc gia đông dân nhất thế giới, Trung Quốc là thị trường tiêu thụ
khổng lồ mà bất cứ tổ chức kinh tế nào cũng muốn nắm giữ. Là khách hàng
quan trọng nên các doanh nghiệp đều muốn chiều lòng Trung Quốc để dễ
dàng xâm nhập và mở rộng.
2.3. Quân sự
Trung Quốc là quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và có quân đội thường
trực với số lượng lớn nhất thế giới cùng ngân sách quốc phòng lớn thứ nhì chỉ
sau Hoa Kì. Theo Trung Quốc cơng bố chính thức thì ngân sách quốc phịng
của nước này trong một số năm gần đây như sau: năm 2000 là 13 tỷ USD,
năm 2007 là 52 tỷ USD, năm 2008 là 61 tỷ USD, năm 2009 là 70,27 tỷ USD,
năm 2013 là hơn 100 tỷ USD, đến năm 2019 đã là hơn 200 tỷ USD. Tuy
nhiên, Mỹ, Nhật Bản và một số nước phương Tây cho rằng những con số đó
rất thấp so với thực tế. Theo phía Mỹ, ngân sách quốc phịng Trung Quốc năm
2008 có thể đạt đến 122 tỷ USD vì chỉ riêng việc trang bị động cơ mới cho
toàn bộ 273 chiếc SU-27, SU-30MK và J-11 (loại máy bay sao chép từ SU27) đã tiêu tốn không dưới 2 tỷ USD. Phía Trung Quốc cho rằng, nguy cơ
quân sự từ phía họ đã bị phương Tây thổi phồng.
24