Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tư tưởng triết học của nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của người việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.47 KB, 28 trang )

lOMoARcPSD|21993952

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐĐề tài số 02:

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO VÀ SỰ ẢNH
HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT

Học viên thực hiện : Đinh Văn Bình
Lớp
Khố
GVHD

TP.HCM, tháng 03 năm

: Đêm 1
: Cao học khố 19
: TS Bùi Văn Mưa


lOMoARcPSD|21993952

Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

MỤC LỤC
Trang


MỞ ĐẦU..........................................................................................................................2
I. SỰ HÌNH TH ÀNH VÀ PH ÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO… ...........................3
1. Sự hình thành và phát triển của Nho giáo Trung Quốc ...................................3
2. Sự hình thành và phát triển của Nho giáo Việt Nam ........................................5
2.1 Nho giáo Việt Nam từ buổi đầu du nhập - đến thế kỷ XIV .................................5
2.2 Nho giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ XV- đến thế kỷ thứ XX .................................8
II. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO .................................................10
1. Các tác phẩm kinh điển của Nho giáo ................................................................10
1.1 Tứ Thư

..................................................................................................................10

1.2 Ngũ Kinh ..................................................................................................................12
2. Nội dung cơ bản của Nho giáo..............................................................................13
2.1 Tu thân

..................................................................................................................14

2.2 Hành đạo ..................................................................................................................16
III. ẢNH HƯỞ NG CỦA NHO GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐ NG VĂN HOÁ TINH
THẦN C ỦA NGƯ ỜI VIỆT .......................................................................................17
1. Ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam thời kỳ trước cách mạng..17
1.1. Ảnh hưởng tích cực................................................................................................19
1.2. Ảnh hưởng tiêu cực................................................................................................21
2. Ảnh hưởng của Nho giáo trong thời kỳ cách m ạng dân tộc Việt Nam .......22
3. Ảnh hưởng của Nho giáo trong thời đại này nay ở Việt Nam.......................23
KẾT LUẬN ..................................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KH ẢO .........................................................................................27

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khố 19


1


lOMoARcPSD|21993952

Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

MỞ ĐẦU
Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm trên
thế giới, với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học.
Có thể nói văn minh Trung Hoa là một trong những cái nôi của văn minh nhân
loại. Bên cạnh những phát minh về khoa học, văn minh Trung Hoa còn là nơi sản

sinh ra nhiều học thuyết triết học, có ảnh hưởng lớn đến nền văn minh châu Á và
thế giới
Trong số các học thuyết triết học đó phải kể đến trường phái triết học Nho
giáo. Nho giáo xuất hiện rất sớm, lúc đầu nó chỉ là những tư tưởng hoặc trí thức
chuyên học văn chương và lục nghệ góp phần trị nước. Đến thời Khổng Tử đã hệ
thống hoá những tư tưởng và tri thức trước đây thành học thuyết, gọi là Nho họcNho giáo hay “ Khổng học” – gắn với tên người sáng lập ra nó.
Kể từ lúc xuất hiện từ vài thế kỷ trước công nguyên cho đến thời nhà Hán
(Hán Vũ Đế đã loại bỏ hàng trăm trường phái triết học khác để ủng hộ Khổng
Tử), thực chất là biến nước Trung Hoa thành một nhà nước Khổng giáo, Nho
giáo đã chính thức trở thành hệ tư tưởng độc tơn và ln giữ vị trí đó cho đến
ngày cuối cùng của chế độ phong kiến. Nho giáo rất phát triển ở các nước châu Á
đó là Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Nét đặc thù của triết học
Nho giáo là đi sâu giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị- đạo đức của xã hội
với nội dung bao trùm là vấn đề con người, xây dựng con người, xã hội lý tưởng

và con đường trị nước, thông qua đức trị. Ngay từ khi Nho giáo xâm nhập vào
Việt Nam, nó đã thích nghi và phát triển mạnh mẽ, nó có ảnh hưởng rất lớn đến
xã hội Việt Nam, đề tài: “Tư tưởng triết học của Nho giáo và sự ảnh hưởng
của nó đến đời sống văn hoá tinh thần của người Việt ”, được thực hiện nhằm
hiểu rõ hơn những ảnh hưởng sâu sắc của nó đến xã hội Việt Nam xưa và nay.

I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19

2


lOMoARcPSD|21993952

Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

1. Sự hình thành và phát triển của Nho giáo Trung Quốc
Khổng Tử là người sáng lập học thuyết Nho giáo ở Trung Quốc. Hơn hai
2000 năm qua, tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng đối với Trung Quốc khơng chỉ về
chính trị, văn hố…mà cịn thể hiện trong hành vi và phương thức tư duy của
mỗi người dân Trung Quốc, được xem như tư tưởng tơn giáo của Trung Quốc, là
tư tưởng chính thống trong xã hội phong kiến hơn hai nghìn năm ở Trung Quốc
và có sự ảnh hưởng tới một số nước châu Á (trong đó có Việt Nam), và đến nay
sự ảnh hưởng này đã ra tồn thế giới, vì người Trung Quốc sống khắp nơi trên
thế giới. Hiện nay đã có hơn 40 học viện Khổng Tử trên tồn thế giới.
Khổng Tử sống trong thời xuân thu, thời kỳ này thể chế quốc gia thống
nhất bị phá vỡ, sản sinh ra nhiều nước Chư hầu lớn nhỏ. Khổng Tử sinh sống
trong nước Lỗ là nước có nền văn hóa tương đối phát triển lúc đó. Tại sao học

thuyết của Khổng Tử lại chiếm vị thế thống trị trong thời đại phong kiến Trung
Quốc? Đây là vấn đề không dễ giải thích trong một vài câu. Nói một cách đơn
giản là tư tưởng đẳng cấp nghiêm ngặt và tư tưởng chính trị của ơng p hù hợp với
lợi ích của giai cấp thống trị, có lợi cho ổn định xã hội lúc bấy giờ, xúc tiến xã
hội phát triển. K hổng Tử nhấn mạnh qui phạm và trật tự luân lý nghiêm ngặt, cho
rằng nếu làm trái với cấp trên hoặc trái với cha mẹ đều là tội nghiêm trọng. Theo
lý luận này, vương quân phải quản lý tốt đất nước, thường dân phải trung thành
với vương quân. Mỗi người đều có nhiều thân phận, có thể là con, có thể là cha,
có thể là thần...nhưng đều cần phải duy trì ranh giới nghiêm khắc. Như vậy nhà
nước mới thái bình, nhân dân mới có cuộc sống n ổn.
Thời Xn Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh
gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc.
Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ
kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trị của ơng tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn
Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử,
dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là
Khổng Cấp, cịn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc,
Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trị của ơng chép thành sách Mạnh
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19

3


lOMoARcPSD|21993952

Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

Tử. Thời kỳ này Nho giáo bị chia thành 8 phái, trong đó có phái của Tuân Tử và

phái của Mạnh Tử là mạnh nhất. Tuân Tử (315- 230 TCN) phát triển Nho giáo
theo xu hướng duy vật, còn Mạnh Tử (372-298 TCN) phát triển Nho giáo theo
hướng duy tâm. Họ bất đồng nhau trong việc lý giải bản tính con người. Tuy
nhiên, Mạnh Tử đã có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của Nho giáo
nguyên thuỷ. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo ngun thủy,
cịn gọi là Nho giáo Tiên Tần (trước đời Tần).
Đến triều Hán Vũ Đế (140 – 87 TCN), Nho giáo được đưa lên ngôi vị "độc
tôn". Nhưng về thực chất, đây khơng cịn là thứ Nho giáo thời Tiên Tần nữa, mà
là một thứ "N ho giáo cải biên" do Đổ
ng Trọng Thư (179 – 104 TCN) thiết kế, nhằm lấy đó làm chỗ dựa để thống
nhất tư tưởng hiện đang năm bè bảy phái của người Trung Quốc hồi bấy giờ.
Trên đại thể, thứ Nho giáo mới này bao gồm ba thành tố : "âm dương ngũ hành",
"vương quyền thần thụ" và "tam cương ngũ thường".
Tư tưởng "âm dương ngũ hành" như ta biết, vốn rất thịnh hành vào thời
Hán. Lợi dụng tình hình này, Đổng Trọng Thư đã đem tư tưởng "thiên mệnh", tư
tưởng "thiên nhân cảm ứng", cùng tư tưởng "tông pháp" của Nho giáo nguyên
thuỷ nhào nặn với tư tưỏng "âm dương ngũ hành" để làm nên thuyết "vương
quyền thần thụ". "Vương quyền" (quyền lực nhà vua) ở đây được Đổng Trọng
Thư luận chứng như là do "Trời" (thần) ban cấp. Trời là chủ tể của muôn loài, mà
vua (Hoàng đế) là con của Trời (Thiên tử), người thể hiện quyền lực và ý chí của
Trời, thay mặt Trời để cai trị nhân gian. Quyền lực của nhà vua do vậy cũng
được xem như tối thượng, thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Mặt khác, Khổng Tử từng nói "quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử". Đổng
Trọng Thư đã đem nguyên tắc ứng xử này lồng ghép với quan niệm thần học
"dương tôn, âm ti " để thành thuyết "tam cương ngũ thường". "Tam cương"
(quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương) là phỏng theo mối quan
hệ giữa trời và đất, âm và dương, trong đó bề tơi, con cái, thê thiếp đều thuộc
"âm" ; còn vua, cha, chồng đều thuộc "dương" ; "âm" tất yếu phải theo "dương".
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khố 19


4


lOMoARcPSD|21993952

Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

"Ngũ thường" (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) là năm chuẩn mực về đạo đức tương ứng
với "ngũ hành", lấy "tam cương" làm nền tảng. Đổng Trọng Thư coi "tam cương
ngũ thường" là "ý trời" (thiên ý), và cho rằng "Trời không thay đổi, đạo cũng
không thay đổi" (Thiên bất biến, đạo diệc bất biến). Từ đó về sau, "tam cương
ngũ thường" đã trở thành gông cùm về mặt tinh thần đối với người dân Trung
Quốc.
Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo
nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con
trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".
Thời kỳ, Tống Nho do Chu Đôn Di (1017 – 1073), Thiệu Ung (1011 –
1077), Trình Hiệu (1032 – 1085), Trình Di (1033 – 1107), Trương Tải (1020 –
1077) đều là người Bắc Tống khai sáng, và tiếp đó được Chu Hy (1130 – 1200)
người Nam Tống tập đại thành. So với Nho giáo nguyên thuỷ thời Tiên Tần và
Nho giáo thần hố thời Lưỡng Hán thì Lý học đời Tống có thể gọi là một thứ
Nho giáo phát triển, mang đậm tính tư biện và triết lý. Khi luận chứng về tính tất
yếu của cương thường danh giáo, các nhà Tống Nho đã vất bỏ lập luận "vương
đạo thơng tam" có phần đơn giản và thơ thiển của Đổng Trọng Thư. Thay vào đó,
họ đưa ra khái niệm "thiên lý" siêu hình để nói về tính thống nhất của thế giới tự
nhiên và các hiện tượng xã hội. Họ nhấn mạnh thế giới hiện tượng có một
nguyên nhân cuối cùng là "thiên lý". Phạm trù cốt lõi này là một sáng tạo của
Tống Nho, như chính một nhân vật quan trọng trong số họ đã tự nhận : "Cái học

của ta tuy có chỗ tiếp thu từ nơi này nơi khác, nhưng riêng hai chữ "thiên lý" thì
thực do tự ta thể nhận ra" (Trình Hạo ngữ. Nhị Trình ngoại thư, Q. 12).
Sang đời M inh, Vương Thủ Nhân (1472 – 1529) xuất hiện với tư cách một
nhà triết học "đi ngược lại truyền thống" (phản truyền thống). Khác với Tống
Nho, ông cho rằng cái "lý" của muôn sự muôn vật đều ở trong tâm ta. Và cũng
khơng giống với các nhà Lý học Trình Chu, ơng chủ trương : "hiểu biết và hành
động gắn với nhau làm một". Dù vậy, Vương Thủ Nhân vẫn đứng trong hàng ngũ
những nhà "Lý học" nổi tiếng đương thời, các triết thuyết của ơng đã góp phần
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khố 19

5


lOMoARcPSD|21993952

Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

làm cho Nho giáo thời kỳ Tống Minh trở thành hệ tư tưởng chính thống của xã
hội Trung Quốc kể từ đầu đời Minh cho đến cuối đời Thanh.
2. Sự hình thành và phát triển của Nho giáo Việt Nam
2.1 Nho giáo Việt Nam từ buổi đầu du nhập- đến hết thế kỷ XIV
Vào cuối thời Tây Hán và đầu thời Đông Hán, cùng với chính sách cai trị
và "Hán hóa" vùng đất nước cổ Việt Nam thời đó gọi là Giao Chỉ, Cửu Chân, văn
hóa Hán bắt đầu được truyền bá vào Việt Nam, với tên tuổi hai viên quan mà sử
sách Việt Nam cũng như sử sách Trung Quốc đều ca ngợi họ có cơng lao trong
việc "khai hóa" lễ nghĩa, mở mang phong tục mới...là Tích Quang và Nhâm
Diên. Nho giáo là một thành phần của văn hóa Hán, tất nhiên cũng sớm có mặt
tại Việt Nam như là một cơng cụ Hán hóa nước Việt. Nhưng sự hiện diện tương

đối rõ nét của Nho giáo ở nước ta có lẽ chỉ thật sự bắt đầu vào cuối đời Đông
Hán với vai trị tích cực của Sĩ Nhiếp (187-226 Cn) trong việc làm cho nước ta
"thông thi thư, tập lễ nhạc" như sử thần Ngô Sĩ Liên (thế kỷ XV) từng bình luận
trong sách Đại Việt sử ký tồn thư.
Ở Trung Quốc từ sau loạn Vương Mãng (năm 27 tr.Cn) trở đi tới cuối đời
Đông Hán, rất đông sĩ phu nhà H án liên tục tránh nội nạn chạy sang cư trú ở Việt
Nam. Thí dụ vào thời Sĩ Nhiếp có hàng trăm danh sĩ nhà Hán bỏ sang Việt Nam
nương nhờ Sĩ Nhiếp. Những sĩ phu trí thức này trở thành lực lượng quan trọng
trong quá trình truyền bá Nho giáo ở Việt Nam.
Từ thời Tích Quang-Nhâm Diên rồi Sĩ Nhiếp đến trước đời Đường (618907Cn), Nho giáo được truyền bá sang Việt Nam là H án nho.
Từ thời Tùy-Đường thống trị Việt Nam đến khi Ngô Quyền giành lại được
quyền độc lập năm 938, Nho giáo cùng văn hóa Hán vẫn tiếp tục được truyền bá
sang Việt Nam, nhưng trong mấy trăm năm này, diện mạo Nho giáo như thế nào
sử sách khơng ghi chép. Trong khi đó ở Giao Châu (tức là ở Việt Nam) mà nhà
Đường đổi làm An Nam đô hộ phủ, Phật giáo phát triển mạnh mẽ, kết hợp với
Đạo giáo phù thủy phổ biến tràn lan.

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19

6


lOMoARcPSD|21993952

Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

Trong hàng nghìn năm bị lệ thuộc phong kiến phương Bắc, Nho giáo được
đưa vào Việt Nam chủ yếu với tư cách là cơng cụ phục vụ cho chính sách cai trị

và đồng hóa Việt Nam về văn hóa, nghĩa là người Việt Nam tiếp nhận Nho giáo
vẫn với thái độ thụ động.
Nho giáo chỉ được người Việt Nam chủ động thừa nhận như là một văn hóa
chủ thể và xác lập địa vị cao của nó khi nền độc lập dân tộc được hoàn toàn ổn
định vững chắc và đi vào phục hưng dân tộc ở vương triều Lý bắt đầu từ năm
1010 – năm triều Lý dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (Hà Nội ngày
nay).
Năm 1070, dưới thời Lý Thánh Tơng (1054-1072), triều đình cho xây miếu
thờ Khổng Tử, tức Văn miếu, đắp tượng Khổng Tử, phụ thờ Nhan Uyên, Tăng
Tử, Tử Tư, Mạnh Tử là 4 học trò nổi tiếng của Khổng Tử cùng 72 người học trò
giỏi khác của Khổng Tử, định ra nghi lễ bốn mùa cúng tế. Bên cạnh đó là Quốc
tử giám, nơi các hoàng thái tử đến học tập.
Năm 1075, dưới thời vua Lý Nhân Tơng (1072-1128) triều đình cho mở
khoa thi Minh kinh bác sĩ và thi Nho học tam trường.
Hai sự việc này trở thành cái mốc quan trọng đánh dấu một bước phát triển
có ý nghĩa lịch sử đối với vai trò của Nho giáo trong đời sống văn hóa, giáo dục
ở Việt Nam.
Khổng miếu và Quốc tử giám được xây dựng chính thức mở đầu cho nền
giáo dục và khoa cử Nho học ở Việt Nam, nhưng dưới triều Lý (1010-1225) và
triều Trần (1225-1400), Phật giáo giữ vai trị Quốc giáo. Bộ mặt văn hóa Việt
Nam thời Lý - Trần là văn hóa Phật giáo.
Nho giáo ở Việt Nam giai đoạn cuối triều Trần và triều Hồ (1400-1407) là
Tống Nho, song diện mạo tư tưởng chưa thật rõ nét.
Tóm lại, Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam trong hàng ngàn năm Bắc
thuộc, chủ yếu là Hán nho. Từ thế kỷ XIII đến đầu thế kỷ XV, Tống Nho chi
phối ảnh hưởng ở Việt Nam. Nhưng nhìn chung, Nho giáo ở Việt Nam trong suốt

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khố 19

7



lOMoARcPSD|21993952

Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

thời kỳ dài hơn 1000 năm đó, Hán Nho cũng như Tống Nho, diện mạo tư tưởng
đều chưa được thể hiện rõ nét.
2.2 Nho giáo Việt Nam từ thế kỷ XV- đến đầu thế kỷ XX
Năm 1406, đế quốc M inh đem quân xâm lược Việt Nam. Năm 1407, cuộc
kháng chiến của triều Hồ thất bại. Nhà Minh đổi nước Việt thành quận Giao Chỉ,
rồi chia ra phủ, vệ, thiết lập bộ máy cai trị và tiến hành đồng hóa mạnh mẽ.
Nhằm Hán hóa Việt Nam về văn hóa, tư tưởng, nhà Minh cho lập Văn miếu thờ
Khổng Tử ở các phủ, châu, huyện trên toàn quốc và bắt các địa phương xây
nhiều đền miếu thờ cúng, cầu đạo theo nghi lễ Trung Quốc. Đạo sĩ thầy cúng
được khuyến khích hành nghề khắp nơi. Để đào tạo ra những người biết chữ
phục vụ bộ máy thống trị của nhà M inh tại Việt Nam, nhà M inh cho mở trường ở
các phủ, châu, huyện. Mở trường dạy học nhưng khơng có thi cử. Hàng năm,
quan lại đô hộ nhà Minh chỉ lựa chọn lấy một số học sinh đủ tiêu chuẩn rồi sử
dụng.
Nội dung chương trình dạy và học hồn tồn theo sách giáo khoa của nhà
Minh, gồm có Tứ thư (Luận ngữ, Mạnh tử, Trung dung, Đại học), Ngũ kinh
(Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu) và Tính lý đại tồn,
tức là bộ sách do nhóm Hồ Quảng theo lệnh vua Minh soạn, gồm 70 quyển, thâu
thái thuyết Tống Nho bàn về hơn 100 nhà, chia thành môn loại như lý khí, quỷ
thần, tính lý, thánh hiền...
Những sách vở này được chở từ Trung Quốc sang Việt Nam cấp phát cho
các thôn, huyện. Giảng dạy tại các trường học ở phủ, châu, huyện, chủ yếu là

thầy cúng, thầy bói, đạo sĩ được nhà Minh tuyển dụng, phong làm Giáo quan.
Sau khi đánh đuổi hết quân Minh, giải phóng đất nước, vương triều Lê
chính thức được thiết lập (1428) và bắt đầu công việc xây dựng, phát triển nền
văn hóa độc lập dân tộc.
Việc đầu tiên Thái Tổ Lê Lợi (1428-1433) làm là sai quan đi tế các thần
linh ở núi sông, đền miếu ở các xứ trong nước và lăng tẩm của các triều đại

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khố 19

8


lOMoARcPSD|21993952

Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

trước. Lê Thái Tổ đặc biệt quan tâm đến việc phong thần, muốn mượn uy danh
thần linh bảo vệ vương triều và đất nước được bình n.
Năm Đinh Tỵ (1437), Lê Thái Tơng (1434-1442) tiến hành gia phong các
thần linh trong nước và tổ chức tế lễ, khấn cáo long trọng. Đến thời Lê Nhân
Tông (1443-1459) năm Kỷ Tỵ (1449), triều Lê cho lập các đàn thờ Đại thành
hoàng ở kinh thành Thăng Long, thờ thần Gió, thần Mây, thần M ưa, thần Sấm để
bảo vệ kinh thành.
Một mặt tôn thờ thần linh, mặt khác để thống nhất tư tưởng xã hội, thống
nhất văn hóa, củng cố đời sống tinh thần, nhà Lê đã chủ động chọn Nho giáo làm
ngọn cờ tư tưởng của vương triều phục vụ cho công cuộc xây dựng chế độ phong
kiến trung ương tập quyền.
Lê Thái Tông lên ngôi năm Giáp Dần (1434). Thái Tông đã họp triều đình

bàn định việc mở khoa thi Tiến sĩ và đưa ra điều lệ thi Hương, thi Hội cùng phép
thi ở các kỳ. Nhưng phải tới tháng 3 năm Nhâm Tuất (1442), thời Lê Nhân Tơng,
triều Lê mới chính thức cho thi đối sách ở sân điện để lấy Tiến sĩ và cũng bắt đầu
cho dựng bia khắc văn nói về việc mở khoa thi Tiến sĩ, khắc tên những người đỗ
Tiến sĩ. Khoa thi Tiến sĩ năm Nhâm Tuất là cái mốc quan trọng xác lập vị trí độc
tơn của Nho giáo ở Việt Nam hồi thế kỷ XV. Để tỏ rõ lịng tơn sùng Nho giáo,
vào tháng 2 mùa xuân năm Ất Mão (1435), vua Lê Thái Tông cho chọn ngày
Thượng đinh, sai Thiếu bảo Lê Quốc Hưng làm lễ cúng Khổng Tử ở Văn miếu,
vị tổ khai sáng ra Nho giáo, từ đấy về sau định làm thường lệ. Văn miếu thờ
Khổng Tử tại các lộ được Nhà nước cấp phu trông nom quét dọn. Đạo đức Nho
giáo như lòng trung với vua, sự tiết hạnh của phụ nữ được cổ vũ, tuyên dương.
Nho giáo ở thời Lê thế kỷ XV đến triều Thánh Tơng Thuần Hồng đế (14601497) thì đạt tới đỉnh cao thịnh vượng.
Đến đời Lê Thánh Tông, diện mạo của Nho giáo đã rõ ràng với những đặc
điểm khá cụ thể, dễ nhận biết. Người xưa học Nho giáo có hai phép: học nghĩa lý
và học từ chương. Học từ chương là học kinh nghĩa, thơ phú, văn sách, cốt để đi

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khố 19

9


lOMoARcPSD|21993952

Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

thi làm quan. Cũng gọi là học khoa cử. Còn học nghĩa lý là học chuyên sâu vào
huấn hỗ học, lý học, Hán học,...với mục đích dị tới nguồn gốc của Nho giáo.
Để tôn vinh Nho học, tôn vinh người đỗ đạt và để biểu thị lòng quý trọng kẻ

sĩ chân Nho của triều đình, Lê Thánh Tơng cho dựng bia khắc tên họ những
người đỗ Tiến sĩ từ khoa thi năm Nhâm Tuất (1442) đời Thái Tông trở đi đặt tại
nhà Quốc học.
Có thể thấy từ nửa sau thế kỷ XV, dưới sự bảo trợ của triều đình, hệ tư
tưởng Nho giáo ngày càng phát huy tác dụng và trở thành hệ tư tưởng chủ đạo
trong xã hội. Phật giáo, Đạo giáo ... cũng từ đó bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Và
được kéo dài mãi ở Việt Nam cho đến tận cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Xét về tính chất, thì Nho giáo Việt Nam từ Lê sơ cho đến cuối Nguyễn chủ
yếu vẫn là "Lý học" đời Tống.
Như vậy Nho giáo truyền nhập vào Việt Nam khoảng 2000 năm, nhưng có
vị trí chi phối và phát triển cao nhất từ thế kỷ thứ 15 đến đầu thế kỷ thứ 20 được
xem như là quốc giáo ở Việt Nam, đến năm 1919 khoa cử nho học bị bãi bỏ.
II. TƯ TƯỞ NG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO
1. Các tác phẩm kinh điển của Nho giáo
Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo
nguyên thủy. Sách kinh điển gồm 2 bộ : Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh
điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết
về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, về
đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho giáo
1.1 Tứ Thư
Là bốn quyển sách kinh điển của văn học Trung Hoa được Chu Hy thời
nhà Tống lựa chọn làm nền tảng cho triết học Trung Hoa và Khổng giáo. Chúng
bao gồm : Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử.
• Đại học: Sách Đại học dùng để dạy cho học trò từ 15 tuổi trở lên, khi bước vào
bậc đại học, dạy cho biết cách xử sự ở đời để lớn lên ra gánh vác việc nước.
Sách Đại Học do Tăng Tử làm ra để diễn giải các lời nói của Khổng Tử.
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khố 19

10



lOMoARcPSD|21993952

Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

Mục đích và tơn chỉ của sách này là nói về đạo qn tử, trước hết phải sửa
cái đức của mình cho sáng tỏ để mọi người noi theo, làm sao cho đến chỗ chí
thiện. Muốn được vậy, phải sử dụng Bát điều mục (tám điều): cánh vật, trí tri,
thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Cái gốc của đạo quân
tử là sự “tu thân”. Cho nên trong sách Đại học có câu : “Tự thiên tữ dĩ chí ư thứ
nhân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn” (Nghĩa là : “từ vua cho đến thường dân, ai ai
cũng đều lấy sự sửa của mình làm gốc”).
• Trung Dung: sách Trung Dung do Tử Tư làm ra. Tử Tư là học trò của Tăng
Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử.
Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Khơng Tử nói về đạo
“trung dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn ln ở mức
trung hịa, khơng thái q, khơng bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.
Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong
Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với sách
Luận Ngữ và M ạnh Tử thành bộ Tứ Thư.
• Luận Ngữ: là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Khơng Tử và những
lời nói của người đương thời, cách đây hơn 2500 năm, các học trò của nhà tư
tưởng và triết học Khổng Tử đã cố gắng tìm tịi ghi lại từng mảnh rời rạc và từng
câu chuyện rời rạc về cuộc đời và những lời dạy của ông. Những ghi chép phần
lớn dựa trên những bài thuyết giảng, sau này được tổng hợp lại thành sách “ Luận
Ngữ”. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và
các thiên khơng có liên hệ với nhau. Đọc sách này, người ta hiểu được phẩm chất

tư cách và tính tình của Khổng Tử, nhất là về giáo dục, ơng tỏ ra là người thấu
hiểu tâm lý của từng học trị, khéo đem lời giảng dạy thích hợp với từng trình độ,
từng hồn cảnh của mỗi người. Như có khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho
mỗi người một cách.
Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ
của Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo.

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khố 19

Downloaded by tr?n hi?n ()

11


lOMoARcPSD|21993952

Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

• Mạnh Tử: sách Mạnh Tử là bộ sách làm ra bởi M ạnh Tử và các mơn đệ của
ơng như: Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương… ghi chép lại những
điều đối đáp của M ạnh Tử với các vua chư hầu, giữa M ạnh Tử và các học trò
cùng với những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác như: học
thuyết của M ặc Tử, Dương Chu. Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia làm 2 phần:
Tâm học và Chính trị học.
- Tâm học: Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú cho. Sự
giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó khơng mờ tối, trau dồi nó
để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của Trời ban cho
người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể. Học là để giữ cái

Tâm, ni cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh. Nhân và nghĩa vốn có
sẵn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng vật dục nên lương
tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. M ạnh Tử đề cập đến khí Hạo nhiên,
cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất với Trời.
- Chính trị học: M ạnh Tử chủ trương: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh.
Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạo trong thời quân chủ chuyên chế đang
thịnh hành. Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua khơng có quyền lấy
dân làm của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân. Muốn vậy, phải có luật
pháp cơng bằng, dẫu vua quan cũng khơng được vượt ra ngồi pháp luật đó.
Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của
dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy
nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành. Chủ trương về chính trị của Mạnh Tử vô
cùng mới mẻ và táo bạo, nhưng rất hợp lý, làm cho những người chủ trương qn
chủ thời đó khơng thể nào bắt bẻ được. Có thể đây là lý thuyết khởi đầu để hình
thành chế độ quân chủ lập hiến sau này.
1.2 Ngũ Kinh
• Kinh Thi: sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình
u nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình
cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. M ột lần,
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khố 19

Downloaded by tr?n hi?n ()

12


lOMoARcPSD|21993952

Tiểu luận triết học


GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả lời "chưa". Khổng
Tử nói "Khơng học Kinh Thi thì khơng biết nói năng ra sao" (sách Luận Ngữ).
• Kinh Thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng
Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân
như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
• Kinh Lễ: ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng
làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Khơng học Kinh
Lễ thì khơng biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ).
• Kinh Dịch: nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên
các khái niệm âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải
thích các quẻ của bát quái gọi là Thốn từ. Chu Cơng Đán giải thích chi tiết nghĩa
của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch.
Khổng Tử giảng giải rộng thêm Thoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là
Thốn truyện và Hào truyện.
• Kinh Xuân Thu: ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử.
Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước
nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để
giáo dục các bậc vua chúa. Ơng nói, "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu,
thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm
đắc nhất. (Xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy
ra).
• Kinh Nhạc: do Khổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ cịn lại một ít
làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy lục kinh chỉ còn lại
ngũ kinh.
2. Nội dung cơ bản của Nho giáo
Nho giáo là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã
hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu
mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử. Để trở thành người quân tử, con người


Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19

Downloaded by tr?n hi?n ()

13


lOMoARcPSD|21993952

Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử
phải có bổn phận phải "hành đạo".
2.1 Tu thân
Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ
Đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam
Cương và Ngũ Thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ
Đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội
giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tịng, Tứ Đức thì xã hội được an bình.
• Tam Cương: Tam là ba; Cương là giềng mối; Tam Cương là ba mối quan hệ:
Quân thần (vua tôi), Phụ tử (cha con), Phu thê (chồng vợ).
 Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi trung thành
một dạ.
 Phụ tử: Trong quan hệ cha con, cha ni dạy con cái, con cái hiếu kính vâng
phục cha và khi cha già thì phải phụng dưỡng.
 Phu thê: Trong quan hệ chồng vợ, chồng yêu thương và công bình với vợ, vợ
vâng phục và chung thủy giữ tiết với chồng.

• Ngũ Thường: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm điều phải
hằng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
 Nhân: Được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản qui định bản tính con người, chi
phối mọi quan hệ giữa người với người trong xã hội. Khổng Tử cho rằng nhân
là lòng thương người (ái nhân); còn Mạnh Tử cho rằng nhân là lịng trắc ẩn.
Nói chung, nhân là cách đối xử của con người với con người, để tạo ra người.
 Nghĩa: Được hiểu là những gì hợp đạo lý mà con người phải làm, bất kể làm
điều đó có đem lại cho người thực hiện nó ích lợi gì hay không.
 Lễ: Được hiểu là luân lý đạo đức, như ý thức, thái độ, hành vi ứng xử, nếp
sống của mỗi con người trong cộng đồng xã hội, trước lễ nghi, trật tự, kỷ
cương.
 Trí: Được hiểu là sự sáng suất nhận thức thấu đáo mọi vấn đề, hiểu đạo trời,
đạo người, hiểu cả thiên hạ, biết sống hợp với nhân.
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19

Downloaded by tr?n hi?n ()

14


lOMoARcPSD|21993952

Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

 Tín: Được hiểu là lịng ngay dạ thẳng, lời nói và việc làm nhất trí với nhau.
• Tam Tịng: Tam là ba; Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải
theo, gồm: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"
 Tại gia tòng phụ: nghĩa là, người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha.

 Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng.
 Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con.
• Tứ Đức: Tứ là bốn; Đức là tính tốt. Tứ Đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ
phải có, là: Cơng - Dung - Ngơn - Hạnh.
 Cơng: khéo léo trong việc làm.
 Dung: hịa nhã trong sắc diện.
 Ngơn: mềm mại trong lời nói.
 Hạnh: nhu mì trong tính nết.
Người qn tử phải đạt ba điều trong q trình tu thân:
• Đạt Đạo. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người
quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo
vua tơi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung),
tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là
Ngũ thường, hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung dung".
Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ
quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi là Tam tịng.
• Đạt Đức. Qn tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói:
"Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân khơng lo buồn,
người trí khơng nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau,
Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân,
nghĩa, lễ, trí". Hán Nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này cịn gọi là Ngũ thường.
• Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người quân
tử còn phải biết "Thi, Thư, Lễ, Nhạc". Tức là người qn tử cịn phải có một vốn
văn hóa tồn diện.
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khố 19

Downloaded by tr?n hi?n ()

15



lOMoARcPSD|21993952

Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

2.2 Hành đạo
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm
chính trị. Nội dung của cơng việc này được cơng thức hóa thành "tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ". Tức là phải hồn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ
nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm:
• Nhân trị: Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người
và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng
Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình khơng muốn thì đừng làm
cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý,
đạo đức, Khổng Tử nói: "Người khơng có nhân thì lễ mà làm gì? Người khơng
có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).
• Chính danh: Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi
người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh khơng chính thì lời khơng
thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với
vua Tề Cảnh Cơng: "Qn qn, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tơi,
cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo,
chúng được tóm gọn lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và
đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thơi.
Qn tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi,
thư, lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó cịn có thể chỉ những người có đạo đức mà
khơng cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà khơng có đạo

đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường).
Tóm lại, quan điểm đạo đức- chính trị- xã hội của Nho giáo (Khổng Mạnh) là xây dựng mẫu người quân tử (xem người quân tử là giai cấp thống trị).
Muốn trở thành người quân tử không chỉ có tu thân, dù tu thân là gốc mà phải
biết hành động tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. M uốn hành động hiệu quả người
quân tử thực hành đường lối nhân trị- cai trị bằng tình người, bằng sự yêu người,
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19

Downloaded by tr?n hi?n ()

16


lOMoARcPSD|21993952

Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

coi người như bản thân mình và chính danh- cai trị sao cho vua ra vua, tôi ra tôi,
cha ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ. Hạn chế lớn nhất của Nho giáo
là xem nhẹ khoa học tự nhiên và lao động sản xuất, chưa hiểu được tầm quan
trọng của pháp luật, xem nhẹ quần chúng nhân dân tức kẻ “tiểu nhân”…
III. ẢNH HƯỞ NG CỦA NHO GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐ NG VĂN HOÁ TINH
THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT
1. Ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam thời kỳ trước cách mạng
Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ
19, suốt hai triều đại Lê Nguyễn. Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu
Nho giáo Trung Quốc, nhưng khơng cịn giữ ngun trạng thái ngun sơ của nó
nữa mà có những biến đổi nhất định. Q trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí
Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến văn hóa hết

sức sáng tạo của người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ
nước, góp phần tạo nên tính đa dạng, nhưng thống nhất và độc đáo của văn hóa
Việt Nam.
Suốt thời Hạ Thương và lâu sau hơn nữa, nước Văn Lang của tộc người
Lạc Việt ở miền sông Hồng đã thành một thực tế lịch sử. Ngay cả nhà Chu cũng
chưa hề với tay tới đất nước của vua Hùng, của lạc hầu, lạc tướng, lạc dân. Nhà
Tần khi đã thôn tính lục quốc thì có sai qn mom men xuống miền xa lạ cực
nam tiếp giáp với Văn Lang, Âu Lạc, nhưng bị đánh bật ra ngay. Vậy thuở ấy
làm gì ở nước ta có hơi hám Nho giáo tuy ở phương Bắc đức Khổng cùng môn
đồ đã làm nhiệm vụ sáng lập Khổng giáo rồi.
Đến nhà Hán được dựng lên ở Trung Nguyên, rồi Nam tiến, sáp nhập
Nam Việt của họ Triệu, mà Nam Việt của họ Triệu thì đã đánh chiếm Âu Lạc, thì
từ đó bắt đầu thời kỳ gọi là Bắc thuộc của lịch sử dân tộc Việt Nam, khơng cịn
Văn Lang, Âu Lạc nữa, nước ta trở thành Giao Chỉ, Giao Châu, An Nam đô hộ
phủ của Hán, Đường, Ngô… suốt thời gian dài hàng ngàn năm. Đến thế kỷ thứ X
sau Công nguyên mới dứt Nam Hán. Trong giai đoạn giữa và giai đoạn sau của
thời kỳ Bắc thuộc, đã có những nhà cai trị và có nhiều nhân sĩ Bắc phương lánh
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khố 19

Downloaded by tr?n hi?n ()

17


lOMoARcPSD|21993952

Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa


nạn, tránh loạn chạy xuống Giao Châu tìm nơi nương náu và sống bằng nghề dạy
học, thì từ đó Nho giáo mới có những hạt giống đầu tiên ở sứ sở này, cũng từ đó
đã vào nước ta những tư tưởng như Đạo giáo của Trung Quốc, như Phật giáo của
Ấn độ, những tôn giáo này lắm lúc trộn lẫn với Nho giáo mà thường dễ thâm
nhập dân gian hơn là Nho giáo. Cần chú ý rằng, so với Phật và Đạo, thì trong
phạm vi thời Bắc thuộc, Nho giáo rất ít được đi vào các tầng lớp xã hội bản xứ,
có lẽ bởi vì muốn học Nho thì cần phải biết chữ Hán, mà chữ hán thì khó đọc
lắm, cịn theo Phật, theo Đạo thì chỉ cần có lịng tin, mà tín ngưỡng dân gian
khơng phải xa xăm gì lắm với Phật giáo, “quyền năng và phù phép” đạo giáo. Lý
do chính cắt nghĩa được vì sao trải từ Tiền Hán đến Nam Hán, người Việt Nam
rất ít thấm Nho giáo là ở chỗ Nho giáo dính liền với nhà cai trị, với kẻ cầm quyền
ngoại bang. Thời kỳ dài Bắc thuộc đó ít có những người Việt học thành đạt tại
Trường An; trái lại thì có rất đơng nhà sư và phật tử tổ chức, tham gia các cuộc
khởi nghĩa đánh đổ chính quyền đơ hộ. Lịch sử ghi danh chỉ một nhà khoa bảng
Việt đỗ đạt ở Trường An mà giữ chức gác cổng thành nên bực tức về Nam hợp
tác với Lý Bí khởi nghĩa.
Các triều đại đầu tiên của Việt Nam độc lập đều xa lạ với Nho giáo hay là
không gần gũi với Nho giáo. Ở các triều đình này, khơng phải nhà nho mà nhà sư
(Phật hay Đạo) đóng vai trị chính. Phật giáo khi ấy là quốc giáo. Nhà Lý xuất xứ
từ cửa Phật. Các vua Trần là người sáng lập Thiền Tông Việt Nam, Nho giáo
chưa có thế lực lớn. Nhưng khi đã có một chính quyền phong kiến tập trung, ở
bên cạnh Trung Quốc, thì sớm hay muộn, từ từ hay mau chóng, cũng chính thức
du nhập bởi vì Nho giáo là một cách trị quốc đã tỏ ra hữu hiệu từ cả ngàn năm.
Nó cũng là một cách để tu thân, tề gia, tạo được sự an bình trong xã hội. Cho nên
từ triều Lý đã thấy nhà vua lập Văn Miếu thờ Khổng Tử và các học trị xuất sắc
của ơng ở Thăng Long. Trong lúc Phật giáo còn là quốc giáo thì suốt thời kỳ Lý
Trần thực lực của Nho giáo ở triều đình và trong dân càng ngày càng phát triển
như một tất yếu lịch sử Việt Nam.
Nho giáo chiếm lĩnh vai trò trong nhà nước Việt Nam độc lập, từ triều Lê
(thế kỷ XV) sau khi tầng lớp nho sĩ dân tộc đã lập công lớn trong cuộc kháng

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19

Downloaded by tr?n hi?n ()

18


lOMoARcPSD|21993952

Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

chiến dài 20 năm đánh đuổi qn M inh xâm lược. Bình Ngơ Đại Cáo của
Nguyễn Trãi, Lê Lợi, về mặt văn hóa chính trị, có thể được xem là cái vương
miện để trao cho Nho giáo Việt Nam.
Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ
19, suốt hai triều đại Lê Nguyễn. Xét về mặt nguồn gốc lịch sử thì Nho giáo ở
Việt Nam, cũng tựa như Nho giáo ở các nuớc Á Đông khác, là một nhánh Nho
giáo mà gốc là Nho giáo Trung Quốc. Có thể nhận thấy rằng Nho giáo (hay bất
cứ tơn giáo nào) du nhập một nước có văn hiến thì phải uốn mình theo văn hóa
nước đó; vừa uốn mình theo, vừa đóng góp vào nhiều hay ít, cụ thể như thế nào
tùy khả năng tiếp thu và sáng tạo của mỗi dân tộc. Tiếp thu mà không sáng tạo
thì cả văn hóa và dân tộc đều sẽ mất. Việt Nam tiếp thu Nho giáo phương Bắc mà
sáng tạo Nho giáo của mình chứ khơng phải sao chép thuộc lòng Khổng Mạnh,
Hán nho, Tống nho…
Đặc điểm nổi bật của Nho giáo Việt Nam là sống chan hoà với Phật giáo,
Đạo giáo và những tín ngưỡng dân gian.
1.1


Ảnh hưởng tích cực

 Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng các
nhà nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần xây dựng
một hệ thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh quân sự và
kinh tế quốc gia.
 Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Khổng Tử là người “học
nhi bất yếm, hối nhân bất nguyện”. Hàng nghìn năm qua, nhà nước Việt Nam
đều lấy Nho học - Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp
luật và đặc biệt là giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy
tài vẫn cịn có ý nghĩa. Nho giáo coi trọng đức là coi trọng cách làm người, coi
trọng con người là yếu tố quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao
văn hóa con người đặc biệt về văn hóa, sử học, triết học. Với phương châm
“học nhi ưu tắc sĩ”, học để có thể tìm ra một nghề nghiệp mới và nâng cao vị
trí xã hội của bản thân là động lực hiếu học trong nhân dân. Hiếu học là đặc
Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khố 19

Downloaded by tr?n hi?n ()

19



×