Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức của doanh nghiệp việt nam trên trường quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.77 KB, 29 trang )

Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
MỤC LỤC
Lời mở đầu 2
1. Các nguyên tắc áp dụng trong quan hệ kinh tế quốc tế 3
1.1. Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) 3
1.2. Chế độ đối xử quốc gia (NT) 4
1.3. Chế độ thuế quan ưu đãi phổ cập (GSP) 5
2. Đặc điểm nền kinh tế Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam trước
ngưỡng cửa hội nhập quốc tế 8
2.1. Đặc điểm nền kinh tế Việt Nam 8
2.1.1 Thành công 8
2.1.2 Hạn chế 12
2.2. Đặc điểm các doanh nghiệp Việt Nam 14
2.2.1 Thành công 14
2.2.2 Hạn chế 16
3. Cơ hội và thách thức khi Việt Nam thực thi đầy đủ các nguyên tắc sau
khi gia nhập WTO 19
3.1 Thách thức 20
3.2 Cơ hội 22
4. Các giải pháp để nắm bắt cơ hội và loại trừ những khó khăn thách thức
24
Lời kết 28
Tài liệu tham khảo 29
1
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Thực hiện đường lối đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại,
Việt Nam đã và đang dần dần từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và
thế giới thể hiện qua việc gia nhập WTO. Quá trình hội nhập đó đòi hỏi việc xây


dựng và áp dụng chính sách phải tính đến luật pháp và thực tiễn quốc tế. Đối với
lĩnh vực thương mại, các nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế đang dần
dần được nghiên cứu và áp dụng tại Việt Nam.
Đối xử tối huệ quốc (MFN) , Đối xử quốc gia (NT) và chế độ thuế quan ưu
đãi phổ cập (GPS) là ba nguyên tắc cơ bản trong thương mại quốc tế, chúng đều
có chung bản chất là không phân biệt đối xử hay nói cách khác là đối xử bình
đẳng. Ba nguyên tắc này được thể hiện rất rõ nét thông qua các Hiệp định của
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đồng thời chúng cũng là những nguyên
tắc quan trọng trong quan hệ hợp tác kinh tế thương mại khu vực và song
phương.
Nhằm đảm bảo các mối quan hệ thương mại được tiến hành trên nguyên tắc
bình đẳng, cùng có lợi, việc đàm phán và áp dụng MFN, NT và GPS trong quan
hệ thương mại quốc tế là một vấn đề quan trọng giúp cho hàng hoá và dịch vụ
của chúng ta có được môi trường bình đẳng để cạnh tranh với hàng hoá tương tự
của các nước khác, đó sẽ là cơ hội lớn nếu doanh nghiệp biết áp dụng khéo léo
các nguyên tắc quốc tế nhưng đó sẽ là trở ngại nếu doanh nghiệp không thích
nghi được với các nguyên tắc này. Các điểm quan trọng của ba nguyên tắc, qua
đó chỉ ra những cơ hội, thách thức đối với doanh nghiệp, đồng thời đề ra những
giải pháp để doanh nghiệp có thể nắm bắt cơ hội và loại bỏ thách thức.
2
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
1. Các nguyên tắc áp dụng trong quan hệ kinh tế quốc tế
1.1.Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN)
• Lịch sử hình thành và phát triển
Thuật ngữ "đãi ngộ Tối huệ quốc" được ra đời vào cuối thế kỷ 19 trong
thực tiễn thương mại của Hoa Kỳ. Vào thời điểm đó, Hoa Kỳ đã đưa ra chế độ
Tối huệ quốc trong các hiệp định song phương như cơ sở để xúc tiến thương mại
với một số đối tác châu Âu có quan hệ thương mại mật thiết với mình (ví dụ:
Pháp, Hà Lan). Đãi ngộ Tối huệ quốc vào thời điểm ra đời chỉ mang ý nghĩa của

chế độ thương mại thuận lợi nhất mà quốc gia sở tại có thể dành cho hàng hoá
nhập khẩu đối tác thương mại của mình. Quy chế này mang tính chất có đi có
lại. Nói cách khác đó là "chế độ đối xử bình đẳng giữa những thực thể được ưu
đãi".
Tuy nhiên, trong bối cảnh thương mại hiện đại, quy chế Tối huệ quốc mang
ý nghĩa chuẩn mực của sự đối xử ưu đãi mà một quốc gia phải dành cho các đối
tác thương mại của mình. Nói cách khác, quốc gia phải bảo đảm dành cho tất cả
các quốc gia đối tác một chế độ ưu đãi thương mại thuận lợi như nhau. Năm
1948, quy chế này chính thức được GATT (Hiệp định chung về thuế quan và
mậu dịch) đưa vào điều 1 của GATT, nay tổ chức này đổi tên là Tổ chức mậu
dịch quốc tế (WTO), coi đây là cơ sở quan trọng kêu gọi các nước hội viên cho
nhau hưởng chế độ tối huệ quốc để thúc đẩy buôn bán giữa các nước hội
viên.Trong các điều ước quốc tế về thương mại cũng như luật thương mại quốc
gia, đãi ngộ tối huệ quốc thường được thể hiện dưới dạng quy định yêu cầu các
sản phẩm hàng hoá dịch vụ có xuất xứ từ một quốc gia đối tác được hưởng chế
độ thương mại "không kém ưu đãi hơn chế độ ưu đãi nhất" mà quốc gia sở tại
dành cho các những sản phẩm hàng hoá dịch vụ tương tự của bất kỳ quốc gia
nào khác. Với sự tồn tại của chế độ đãi ngộ tối huệ quốc, các quốc gia sẽ được
bảo đảm rằng quốc gia đối tác thương mại của mình sẽ không dành cho quốc gia
khác chế độ thương mại ưu đãi hơn, qua đó triệt tiêu lợi thế cạnh tranh tự nhiên
của họ đối với sản phẩm hàng hoá dịch vụ cụ thể trong cạnh tranh với các quốc
gia liên quan đó.
• Định nghĩa
Nguyên tắc Tối huệ quốc (Most Favourde Nation Rule-MFN) là nguyên tắc
truyền thống trong quan hệ kinh tế quốc tế và phổ biến nhất trong lĩnh vực
thương mại. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản được áp dụng đối với
quan hệ thương mại hàng hoá, quan hệ thương mại dịch vụ, quan hệ đầu tư, việc
tạo thuận lợi cho kinh doanh.
3
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức

của các Doanh nghiệp Việt Nam
1 - Tất cả những ưu đãi và miễn giảm mà một bên tham gia trong các quan
hệ kinh tế - thương mại quốc tế đã hoặc sẽ dành cho bất kỳ một nước thứ ba nào,
thì cũng được dành cho bên tham gia kia được hưởng một cách không điều kiện.
2 - Hàng hóa di chuyển từ một bên tham gia trong quan hệ kinh tế thương
mại này đưa vào lãnh thổ của bên tham gia kia sẽ không phải chịu mức thuế và
các tổn phí cao hơn những thuế quan hoặc những thủ tục phiền toái hơn những
thuế quan và thủ tục đang hoặc sẽ áp dụng đối với hàng nhập vào từ nước thứ ba
nào khác. Theo luật pháp quốc tế thì đây là một nguyên tắc điều chỉnh các mối
quan hệ thương mại và kinh tế giữa các nước trên cơ sở các hiệp định, hiệp ước
giữa các nước một cách bình đẳng và cùng có lợi. Do đó xét theo góc độ luật
pháp quốc tế thì điều chủ yếu của quy chế tối huệ quốc là không phải cho nhau
hưởng các đặc quyền, mà là đảm bảo sự bình đẳng giữa các quốc gia có chủ
quyền về các cơ hội giao dịch thương mại và kinh tế.
• Bản chất
Quy chế Tối huệ quốc là không phải cho nhau hưởng các đặc quyền, mà là
đảm bảo sự bình đẳng giữa các quốc gia có chủ quyền về các cơ hội giao dịch
thương mại và kinh tế
Mục đích của việc sử dụng nguyên tắc MFN trong buôn bán quốc tế là
nhằm chống phân biệt đối xử trong buôn bán quốc tế, làm cho điều kiện cạnh
tranh giữa các bạn hàng ngang bằng nhau nhằm thúc đẩy quan hệ buôn bán giữa
các nước đang phát triển. Mức độ và phạm vi áp dụng nguyên tắc MFN phụ
thuộc vào mức độ quan hệ thân thiện giữa các nước với nhau.
• Cơ chế thực thi
Nguyên tắc MFN được các nước tùy vào lợi ích kinh tế của mình mà áp
dụng rất khác nhau, nhưng nhìn chung có 2 cách áp dụng :
* Áp dụng chế độ tối huệ quốc có điều kiện : Quốc gia được hưởng tối huệ
quốc phải chấp nhận thực hiện những điều kiện kinh tế do chính phủ của quốc
gia cho hưởng đòi hỏi
* Áp dụng chế độ tối huệ quốc không điều kiện : là nguyên tắc nước này

cho nước khác hưởng chế độ MFN mà không kèm theo điều kiện ràng buộc nào
cả.
1.2.Chế độ đối xử quốc gia (NT)
• Định nghĩa
Là nguyên tắc quan trọng được quy định trong nhiều hiệp định thương mại
song phương và đa phương, cùng với nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc (MFN)
tạo nên nguyên tắc cơ bản không phân biệt đối xử của WTO.
4
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
Nguyên tắc này đòi hỏi những sản phẩm nước ngoài và nhiều khi cả các
nhà cung cấp nước ngoài được đối xử trên thị trương nội địa không kém ưu đãi
hơn (ngang bằng) so với sản phẩm nội địa cùng loại và các nhà cung cấp nội địa.
• Bản chất
Nguyên tắc đối xử quốc gia được hiểu là sự đối xử bình đẳng giữa các đối
tượng trong nước với các đối tượng tương tự của nước thành viên khác. Nguyên
tắc đối xử quốc gia áp dụng trong thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và
sở hữu trí tuệ.
• Cơ chế thực thi
Nguyên tắc đối xử quốc gia chỉ được áp dụng một khi một sản phẩm, dịch
vụ hay quyền sở hữu trí tuệ nào đó đã vào thị trường nội địa. Chính vì thế, việc
đánh thuế quan đối với một loại hàng nhập khẩu không được coi là vi phạm
nguyên tắc này cho dù các sản phẩm sản xuất trong nước không phải chịu loại
thuế tương đương nghĩa là bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua
biên giới, trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa khẩu, bắt đầu đi vào
thị trường nội địa, sẽ được hưởng sự đối xử ngang bằng (không kém ưu đãi hơn)
với sản phẩm tương tự được sản xuất trong nước.
1.3.Chế độ thuế quan ưu đãi phổ cập (GSP)
• Lịch sử hình thành và phát triển
GSP là hệ thống ưu đãi về thuế quan do các nước công nghiệp phát triển

dành cho một số sản phẩm nhất định mà họ nhập khẩu từ các nước đang phát
triển (gọi là các nước nhận được ưu đãi). Áp dụng GSP cho phép giảm thuế
nhập khẩu theo chế độ tối huệ quốc hoặc miễn hoàn toàn thuế nhập khẩu đối với
hàng hoá có xuất xứ nhập khẩu từ các nước đang phát triển.
Lần đầu tiên Hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương mại và phát triển
(UNCTAD) thông qua việc áp dụng hệ thống thuế quan ưu đãi chung(GSP)
dành cho các nước đang phát tnển. Mục tiêu của việc áp dụng GSP là giúp cho
các nước đang phát triển tăng khả năng xuất khẩu, mở rộng thị trường, khuyến
khích phát triển công nghiệp, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của các nước
này.
Trên cơ sở của Hệ thống GSP, mỗi quốc gia xây dựng một chế độ GSP cho
riêng mình với những nội dung, quy định, mức ưu đãi khác nhau tuy nhiên mục
tiêu của hệ thống GSP vẫn được đảm bảo.
• Định nghĩa
Hệ thống ưu đãi phổ cập, tên tiếng Anh là Generalized System of
Preferences (viết tắt GSP), là một hệ thống mà theo đó các nước phát triển, được
gọi là các nước cho hưởng, cho các nước đang phát triển, được gọi là các nước
5
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
được hưởng, hưởng chế độ ưu đãi bằng cách giảm hoặc miễn thuế. Chế độ ưu
đãi được xây dựng trên cơ sở không có sự phân biệt và không đòi hỏi bất kỳ
nghĩa vụ nào từ phía các nước đang phát triển. Nội dung chính của chế độ thuế
quan ưu đãi phổ cập là:
+ Giảm thuế hoặc miễn thuế quan đối với hàng nhập khẩu từ các nước đang
hoặc kém phát triển.
+ GSP áp dụng cho các loại mặt hàng công nghiệp thành phẩm hoặc bán
thành phẩm và hàng loạt các mặt hàng công nghiệp chế biến.
• Bản chất
Các mục tiêu chính của GSP là:

- Tạo điều kiện để các nước đang phát triển thấy được khả năng tiềm tàng
về mở rộng buôn bán phát sinh từ chế độ GSP và tăng cường khả năng sử dụng
chế độ này.
- Tăng kim ngạch xuất khẩu của các nước được hưởng.
- Thúc đẩy công nghiệp hoá của các nước này.
- Đẩy mạnh mức tăng trưởng kinh tế của những nước này.
- Phổ biến thông tin về các quy định và thủ tục điều chỉnh buôn bán theo
chế độ này.
- Giúp đỡ các nước được hưởng thiết lập những điểm trọng tâm trong nước
để tăng cường sử dụng GSP.
- Cung cấp thông tin về các quy định liên quan đến thương mại như thuế
chống phá giá và chống bù giá, các quy định hải quan, thủ tục giấy phép nhập
khẩu, và pháp luật thương mại khác quy định các điều kiện thâm nhập thị trường
các nước cho hưởng.
Chế độ ưu đãi phổ cập mới không có giới hạn ưu đãi. Các hạn ngạch trước
kia, khối lượng xác định được miễn thuế hoặc các mức trần hạn chế khối lượng
hàng xuất khẩu được hưởng ưu đãi đã được loại bỏ. Miễn giảm thuế được điều
chỉnh theo mức độ nhạy cảm của sản phẩm mà đã được chia làm bốn loại sau:
- Các sản phẩm rất nhạy cảm: ví dụ như dệt may, quần áo
- Các sản phẩm nhạy cảm: ví dụ như sản phẩm da, giày dép
- Các sản phẩm bán nhạy cảm: đồ trang sức, hàng điện tử và một số hàng
da
- Các sản phẩm không nhạy cảm: nội thất bằng gỗ, đồ chơi, trò chơi, hàng
thể thao.
• Cơ chế thực thi
6
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
Nước cho hưởng ưu đãi GSP:
Những nước đang có chế độ ưu đãi phổ cập:

Hiện nay, có 16 chế độ ưu đãi khác nhau đang hoạt động tại 28 nước phát
triển, bao gồm 15 nước thành viên của EU.
EU: Áo, Bỉ, Đan Mạch, Đức, Ailen, Italy, Luc Xăm Bua, Hà Lan, Anh, Hy
Lạp, Phần Lan, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Bồ Đào Nha, Pháp.
Nhật, Niu - Di - Lân, Thuỵ Sĩ, Bun - Ga - Ry, Hung - Ga - Ry, Séc, Ba Lan,
Nga, các quốc gia trung lập (CIS), Ca - Na - Đa, Na - Uy, Ôx-Trây-Lia, Ru-Ma-
Ni.
Nước được hưởng GSP:
Bao gồm những nước đang phát triển và những nước kém phát triển. Các
nước kém phát triển thường được hưởng một chế độ đặc biệt riêng, có nhiều ưu
đãi hơn các nước đang phát triển. Đối với mỗi quốc gia dành ưu đãi, các nước
được hưởng được liệt kê trong danh sách ban hành kèm theo chế độ GSP. Danh
sách này có thể được sửa đổi bổ sung.
Hàng hoá được hưởng ưu đãi.
Hàng hoá được hưởng ưu đãi được phân loại thành hai nhóm: các sản phẩm
công nghiệp và các sản phẩm nông nghiệp.
Danh mục hàng hoá được hưởng được các nước cho hưởng ưu đãi ban
hành có sửa đổi định kỳ và được xây dựng trên có sở biểu thuế xuất nhập khẩu
của nước đó.
Việc bổ sung hay loại bỏ một mặt hàng nào đó trong danh mục được các
nước cho hưởng ưu đãi thực hiện dựa trên tình hình sản xuất trong nước mặt
hàng đó.
Không phải bất kỳ sản phẩm nào nhập khẩu vào các nước cho hưởng từ
những nước được hưởng đều được miễn hay giảm thuế theo GSP. Để được
hưởng chế độ thuế quan ưu đãi GSP, hàng nhập khẩu vào thị trường những nước
cho hưởng phải thỏa mãn 3 điều kiện cơ bản sau
Điều kiện xuất xứ :
Mục đích chính của Điều kiện xuất xứ là đảm bảo là những lợi ích của chế
độ ưu đãi thuế quan theo Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) chỉ được dành cho
những sản phẩm mà thực sự có được do thu hoạch, sản xuất, gia công hoặc chế

biến ở những nước xuất khẩu được hưởng.
Một mục đích nữa là những sản phẩm xuất xứ ở một nước thứ ba, ví dụ là
một nước không được hưởng, chỉ quá cảnh qua, hoặc đã chỉ trải qua một giai
đoạn chế biến không đáng kể hoặc không ảnh hưởng tới thành phần, bản chất
7
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
của sản phẩm tại một nước được hưởng ưu đãi, sẽ không được hưởng ưu đãi từ
chế độ thuế quan GSP.
Điều kiện vận tải:
Quy định bắt buộc sản phẩm có xuất xứ phải được vận chuyển thẳng từ
nước được hưởng đến nước cho hưởng là một vấn đề quan trọng phổ biến của
tất cả các quy tắc xuất xứ GSP trừ của Úc. Mục đích của quy định này là cho
phép cơ quan hải quan nước cho hưởng nhập khẩu bảo đảm rằng sản phẩm nhập
khẩu chính là những sản phẩm từ nước được hưởng, có nghĩa là chúng không bị
tác động, thay thế, gia công chế biến thêm hoặc được đưa vào buôn bán tại bất
kỳ nước thứ ba trung gian nào.
Điều kiện về giấy chứng nhận xuất xứ:
Việc đòi ưu đãi từ chế độ GSP phải được chứng minh bằng chứng từ phù
hợp về xuất xứ và vận tải
Mức độ ưu đãi
Các nước cho hưởng ưu đãi quy định thuế suất ưu đãi cho chế độ GSP dựa
trên mức thuế suất của chế độ đối xử tối huệ quốc (MFN).
Nhìn chung, thuế suất ưu đãi theo chế độ GSP ở mức thấp khoảng vài phần
trăm hoặc được miễn hoàn toàn.
Cơ chế bảo vệ
Với ưu đãi thuế quan GSP được hưởng, hàng hoá của các nước được hưởng
sẽ có thêm ưu thế trong thị trường nứơc nhập khẩu. Tuy nhiên, hàng hoá này sẽ
tạm thời không được hưởng ưu đãi thuế quan GSP nữa trong một số trường hợp
nhất định. Khi một hàng hoá nhập khẩu theo GSP ảnh hưởng đến công nghiệp

sản xuất mặt hàng đó trong nước, nước cho hưởng ưu đãi sẽ thực hiện những
biện pháp cần thiết theo cơ chế bảo vệ của hệ thống GSP. Có nhiều cơ sở để xác
định hàng hoá nhập khẩu theo GSP có ảnh hưởng tới nền công nghiệp nội địa
không, thường là một mức trần về khối lượng nhập khẩu, về khối lượng trị giá
thực hiện
2. Đặc điểm nền kinh tế Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam trước
ngưỡng cửa hội nhập quốc tế
2.1.Đặc điểm nền kinh tế Việt Nam
2.1.1. Thành công
• Việc gia nhập WTO đã góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường
quốc tế về kinh tế, chính trị, ngoại giao, Các đối tác kinh tế, thương mại đánh
giá Việt Nam như là một đối tác quan trọng và giàu tiềm năng của khu vực
Ðông - Nam Á. Vai trò của nước ta trong các hoạt động của WTO, ASEAN,
APEC, ASEM và các tổ chức quốc tế ngày càng được nâng cao. Ðặc biệt, việc
8
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2008 -
2009 đã chứng tỏ uy tín quốc tế ngày càng cao của Việt Nam.
• Việc điều chỉnh thể chế kinh tế, hoàn thiện từng bước khung pháp lý,
xóa bỏ các rào cản và nâng cao tính minh bạch trong chính sách kinh tế, thương
mại, cải thiện môi trường kinh doanh đã làm tăng hiệu quả và thúc đẩy kinh tế
phát triển bền vững hơn. . Nhận thức của người dân và các doanh nghiệp về việc
tham gia WTO đã có sự chuyển biến tích cực. Mặc dù chịu ảnh hưởng của
khủng hoảng tài chính, tiền tệ toàn cầu, nhưng Việt Nam vẫn là nơi hấp dẫn các
nhà đầu tư nước ngoài vào một số ngành như điện tử, tin học, dệt may, luyện và
cán thép, ngân hàng, tài chính bảo hiểm, bất động sản ,GDP năm 2008 của
nước ta vẫn tăng trưởng ở mức 6,23%, xuất khẩu vẫn bảo đảm nhịp độ tăng
trưởng khá: Năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 48,56 tỷ USD, tăng 21,9%
so với năm 2006. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã đa dạng hơn và hàng

hóa của Việt Nam đã thâm nhập tốt hơn, đứng vững hơn trong các thị trường lớn
như Hoa Kỳ, EU,
• Do việc điều chỉnh chính sách kinh tế theo các cam kết quốc tế, môi
trường kinh doanh và đầu tư trở nên thông thoáng và minh bạch hơn, dẫn đến
việc gia tăng luồng vốn FDI vào Việt Nam. Năm 2007, Việt Nam đã thu hút
trên 20,3 tỷ USD, tăng 69,2% so với năm 2006. Sang năm 2008, dù tình hình
kinh tế thế giới xấu đi, nhưng vốn FDI cam kết đã đạt hơn 64 tỷ USD, gấp gần
ba lần năm 2007. Ðiều này phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào
tiến trình hội nhập, mở cửa thị trường, cũng như vào triển vọng và tiềm năng
phát triển kinh tế của Việt Nam, tin tưởng vào sự ổn định chính trị, xã hội và
những quyết sách tích cực và hiệu quả của Chính phủ Việt Nam trong việc đối
phó với cơn khủng hoảng tài chính hiện nay. Mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính tiền tệ toàn cầu năm 2008, nhưng GDP vẫn đạt mức tăng trưởng
khoảng 6,5%, tuy có giảm hơn so với năm 2007, thu hút đầu tư nước ngoài tăng
rất mạnh trong năm 2007, năm 2008, số vốn đăng kí đạt gần 64 tỉ USD.
• Việc mở cửa thị trường dịch vụ theo cam kết WTO góp phần phát triển
cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nâng cao trình độ công nghệ cho các nhà sản xuất, dẫn
tới việc tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Mặt khác, thông qua việc liên
doanh, hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam cũng được tăng
cường thêm về vốn, trình độ quản lý, nhân sự và phát triển công nghệ.
• Ngành công nghiệp Việt Nam đã phát triển theo hướng tích cực, sản xuất
công nghiệp đạt năng suất tương đối cao: Năm 2007 giá trị sản xuất công nghiệp
đạt trên 574 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% so với 2006; Năm 2008 ước đạt 650
nghìn tỷ đồng tăng 14,6% so với năm 2007; Các ngành sản xuất sử dụng nhiều
lao động như thủy sản, may mặc, giày dép, đồ nội thất, thủ công cũng có tốc độ
tăng trưởng cao.
9
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
• Mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ toàn cầu năm

2008, nhưng GDP của Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng khoảng 6,5%, tuy có
giảm hơn so với năm 2007, thu hút đầu tư nước ngoài tăng rất mạnh trong năm
2007, đặc biệt đạt kỷ lục số vốn đăng kí cao gần 64 tỉ USD trong năm 2008.
Việc gia nhập WTO sẽ làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế qua đó tăng hiệu quả và
thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững hơn nữa. Một mặt, các cam kết mở cửa thị
trường sẽ tác động lên giá nhập khẩu, việc cắt giảm thuế quan sẽ tăng sức ép
cạnh tranh đối với doanh nghiệp trong nước, vì vậy việc tái cơ cấu ở một số
ngành để đứng vững và phát triển trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng cao. Mặt
khác, thị trường ổn định hơn khi ta gia nhập WTO cũng là điều kiện để cho các
ngành phát triển theo định hướng xuất khẩu có hiệu quả hơn so với phát triển
theo định hướng thay thế nhập khẩu.
• Gia nhập WTO sẽ làm gia tăng cơ hội thâm nhập thị trường nước ngoài
cho các sản phẩm. Năm 2007 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng 21,9% so
với năm 2006, năm 2008 tăng 29,5% so với năm 2007, mặt hàng xuất khẩu cũng
đa dạng hơn, hàng dệt may và giầy dép trở thành ngành sản xuất có kim ngạch
xuất khẩu lớn nhất do thuế đã được giảm và Hoa Kỳ đã xoá bỏ hạn ngạch đối
với mặt hàng này, kết quả trực tiếp có được từ việc đàm phán gia nhập WTO.
Một tác động gián tiếp của WTO là sự thay đổi tích cực hơn trong chuyển dịch
cơ cấu xuất khẩu, từ sản phẩm thô (dầu mỏ, than đá, gạo) sang sản phẩm chế
biến (dệt may, gỗ nhựa), tỷ trọng dầu thô trong kim ngạch xuất khẩu đã giảm từ
21,0% năm 2006 xuống còn 17,5% năm 2007 và 16,5% năm 2008. Doanh
nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu vào toàn bộ 148 nước thành viên của WTO
với mức thuế ưu đãi, thâm nhập được vào các thị trường trọng yếu trên thế giới
như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản, do thị trường được
mở rộng và không bị phân biệt đối xử; Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, khả
năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu càng cao, nhưng Việt Nam càng có nguy cơ
phải đối mặt với những vụ điều tra chống bán phá giá do các thành viên WTO
áp dụng đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, cơ chế phi thị trường mà Việt
Nam sẽ chỉ được các nước loại bỏ sau năm 2018 sẽ là một trở ngại lớn đối với
các nhà xuất khẩu Việt Nam. Tuy nhiên, vị thế thành viên WTO sẽ giúp Việt

Nam thuận lợi hơn trong các vụ kiện do ta có thể phối hợp với các nước thành
viên WTO khác có chung lợi ích để có tiếng nói chung.
Sự gia tăng nhập khẩu cũng là một tác động của việc gia nhập WTO, tổng
kim ngạch nhập khẩu năm 2007 đạt 62,68 tỷ USD, tăng 39,6% so với năm 2006;
năm 2008 đạt 79,9 tỷ USD, tăng 27,5% so với năm 2007. Nhập khẩu tăng mạnh
do tăng trưởng cao, nhu cầu đầu tư lớn, nguồn vốn FDI nhiều và bản thân cơ cấu
kinh tế (như đòi hỏi đầu vào nhập khẩu lớn cho xuất khẩu và sản xuất nói
chung) và giá quốc tế các mặt hàng nguyên nhiên vật liệu trên thị trường thế giới
tăng cao.
10
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
Trong một nền kinh tế hiện đại, dịch vụ ngày càng trở nên một thành phần
quan trọng. Từ năm 2000-2008, dịch vụ đã đóng góp trung bình 38,3% vào
GDP. Mở cửa thị trường dịch vụ, Việt Nam cải cách thể chế đem lại môi trường
thuận lợi hơn cho các nhà cung cấp dịch vụ, đem lại cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công
nghệ cao hơn cho các nhà sản xuất, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Ngày
càng có nhiều nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài tham gia vào thị trường Việt
Nam sẽ mang đến nhiều cơ hội hợp tác hơn cho các doanh nghiệp, nên các
doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ vốn, nhân sự và công nghệ thông
qua việc hợp tác này. Việt Nam cũng phát huy được lợi thế trong các ngành dịch
vụ sử dụng trình độ kỹ thuật và chuyên môn cao. Tuy nhiên, cam kết mở cửa thị
trường ở một số ngành dịch vụ có thể ảnh hưởng đến thu nhập và việc làm của
người lao động. Các doanh nghiệp bán lẻ trong nước, đặc biệt các hộ gia đình
kinh doanh bán lẻ, có thể sẽ bị các tập đoàn bán lẻ cạnh tranh.
• Tác động vào lĩnh vực công nghiệp khi tham gia vào WTO là chính sách
quản lý kinh tế của Việt Nam trở nên minh bạch hơn, giảm phân biệt đối xử giữa
các thành phần kinh tế, làm cho lĩnh vực công nghiệp đạt tỷ lệ tăng trưởng cao,
đóng góp 8,48% vào GDP năm 2007, cao hơn năm 2006 và đứng thứ 2 khu vực
Đông Nam Á. Theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam đã xoá bỏ các biện pháp

trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp thay thế hàng nhập khẩu đối với tất cả các ngành
công nghiệp, việc bãi bỏ hai hình thức trợ cấp này sẽ ảnh hưởng đến một số
doanh nghiệp nhưng không nhiều.
• Sau khi gia nhập WTO, nhập khẩu nông sản của Việt Nam gia tăng, đa
số các mặt hàng nông sản nhập khẩu là những mặt hàng Việt Nam chưa sản xuất
được hoặc có lợi thế cạnh tranh thấp. Đối với xuất khẩu nông sản, tác động của
việc gia nhập WTO là không lớn vì các mặt hàng xuất khẩu chính như gạo, cà
phê, cao su từ trước khi gia nhập WTO cũng không gặp rào cản nào. Thị trường
xuất khẩu của Việt Nam ngày càng được mở rộng sang châu Âu và châu Mỹ với
hai đối tác chính là EU và Hoa Kỳ, nhưng thị trường xuất khẩu ở châu Á và các
nước ASEAN lại bị thu hẹp lại. Việc gia nhập WTO đã cải thiện tích cực môi
trường kinh doanh trong nước. Hệ thống chính sách trở nên minh bạch, chế độ
quản lý giá, các biện pháp trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp thay thế hàng nhập khẩu
được bãi bỏ, các doanh nghiệp đều được hoạt động trong môi trường kinh doanh
bình đẳng. Hội nhập có tác động tích cực đến tạo việc làm cho người dân nhưng
chỉ tham gia vào ngành xuất khẩu và đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
Tác động chủ yếu là tác động gián tiếp thông qua việc cung cấp dịch vụ cá nhân
và cộng đồng, lương thực thực phẩm cho nhóm dân cư có thu nhập được cải
thiện, tăng thu ngân sách, trong chừng mực nhất định, cũng đồng nghĩa với việc
tăng
• Có thể khẳng định, sau 2 năm gia nhập WTO, mặc dù còn nhiều khó
khăn trước mắt, nhưng nền kinh tế Việt nam đã vượt qua được những thách
11
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
thức, rút ra được những bài học bổ ích để từng bước phát triển bền vững. Với
xuất phát điểm là một nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, ở trình độ
thấp và có quy mô nhỏ so với kinh tế thế giới, các biến động phức tạp và khó
lường trước của nền kinh tế thế giới thời gian qua đã có tác động không nhỏ tới
nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, so với nhiều nước trong khu vực, chúng ta vẫn

đạt được những chỉ tiêu kinh tế đáng khích lệ. Hoạt động xuất nhập khẩu vẫn
tiếp tục khởi sắc, duy trì tăng trưởng cao, năm 2008 dự kiến xuất khẩu xấp xỉ 63
tỉ USD, tăng trên 29,5% so với 2007, nhập khẩu ước đạt 79,9 tỉ USD, tăng
27,5% so với 2007. 10 mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có kim ngạch trên 1 tỉ
USD như: Dệt may, cà phê, cao su, thủy sản, dầu thô, giầy dép, điện tử và linh
kiện điện tử, sản phẩm gỗ và nhóm sản phẩm cơ khí, tiếp tục được giữ vững;
đồng thời mặt hàng dây điện và cáp điện cũng có khả năng trở thành thành viên
của “câu lạc bộ 1 tỉ USD” này.
2.1.2. Hạn chế
Việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới đã tác động lớn đến kinh tế-xã
hội của Việt Nam, đem lại những kết quả như mong muốn: tăng GDP, tăng
trưởng xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, phát triển các ngành dịch vụ. Tuy nhiên,
bên cạnh những thành tựu này còn có những mặt tồn tại, hạn chế buộc chúng ta
phải xem xét một cách đầy đủ hơn.
• Về năng lực thể chế đã có những chuyển biến tích cực nhưng cần phải
tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho phù hợp với cam kết gia nhập WTO
và các chuẩn mực kinh tế thị trường, một số văn bản phát luật hướng dẫn thực
hiện các cam kết gia nhập WTO chưa được ban hành kịp thời, chưa rõ ràng
khiến cho việc thực hiện các cam kết còn khó khăn. Các yếu tố này đã gây khó
khăn nhất định cho cơ quan quản lý, cấp phép đầu tư cũng như một số doanh
nghiệp, nhà đầu tư muốn hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Sự phối hợp giữa
các bộ, ngành nhiều khi còn chưa chặt chẽ, nhất quán và kịp thời; Lạm phát cao,
nhập siêu lớn và sự xuất hiện những dấu hiệu dễ bị tổn thương của hệ thống tài
chính-ngân hàng là những vấn đề phức tạp nước ta đang phải đối phó. Vấn đề
bất ổn kinh tế vĩ mô đang trở thành đòi hỏi cấp thiết.
• Ngành công nghiệp chủ yếu vẫn là sơ chế, gia công với giá trị gia tăng
chưa cao và còn phụ thuộc nhiều vào đầu vào nhập khẩu. Chủng loại hàng hoá
còn đơn điệu, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm còn yếu. Năng
suất lao động trong nông nghiệp còn thấp vì sự dư thừa lao động do chuyển dịch
lao động sang công nghiệp và dịch vụ chưa mạnh mẽ. Đời sống người nông dân

được nâng cao nhưng lại bị ảnh hưởng bởi lạm phát nên mức độ cải thiện chưa
đáng kể.
• Xuất khẩu tăng trưởng nhanh song dễ bị tổn thương bởi ảnh hưởng của
thị trường thế giới hay việc áp dụng các rào cản thương mại của nước nhập
12
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
khẩu. Quy mô xuất khẩu còn nhỏ, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người
thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Các mặt hàng xuất khẩu có
giá trị gia tăng cao còn thấp; những mặt hàng xuất khẩu mới có đóng góp kim
ngạch đáng kể xuất hiện chậm. Khả năng chủ động nắm bắt những cơ hội thuận
lợi để thâm nhập và khai thác các thị trường xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Tuy
thị trường tài chính, ngân hàng và thị trường bất động sản khá sôi động, nhưng
đến năm 2007, khu vực này vẫn còn nhỏ bé, chiếm chưa tới 2,0% GDP. Sự thiếu
hụt nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng cũng đang là yếu tố cần khắc
phục trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
• Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn yếu kém, không chỉ
có một khoảng cách xa đối với nước phát triển mà còn kém hơn với các nước
đang phát triển khác cùng khu vực. Theo định nghĩa được quốc tế công nhận thì:
"Khả năng cạnh tranh quốc tế là năng lực cung cấp hàng hoá tốt, dịch vụ tốt trên
thị trường quốc tế, đồng thời có thể nâng cao được đời sống nhân dân nước
mình trong điều kiện thị trường tự do lành mạnh". Dựa trên số liệu năm 2000,
năng lực cạnh tranh của kinh tế Việt Nam đứng hàng thứ 53 trên thế giới, trong
khi Thái Lan đứng hàng thứ 31, Philippin đứng hàng thứ 37 và Malaixia đứng
hàng thứ 25.
Năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam không cao. Nếu làm một phép
so sánh đơn giản, giá cả của một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam
thấp hơn nhiều so với giá cả xuất khẩu các mặt hàng cùng loại của nước khác.
Chẳng hạn, năm 1998, giá cà phê của Việt Nam chỉ có 1554 USD/tấn trong khi
giá cà phê của Braxin là 2343,5 USD/tấn và chung của thế giới là 2583

USD/tấn; giá gạo và giá cao su của chúng ta cũng trong tình trạng tương tự. Giá
gạo của Việt Nam năm 1998 là 289 USD/tấn trong khi giá gạo của Thái Lan là
393,3 USD/tấn cao hơn mức giá chung của thế giới là 347 USD/tấn. Điều này, là
do khâu chế biến và tiếp thị sản phẩm của chúng ta còn yếu kém. Chính sự yếu
kém trong các khâu này dẫn đến sự thua thiệt không đáng có của hàng hoá Việt
Nam.
• Việt Nam hội nhập nền kinh tế thế giới trong làn sóng cuối cùng của thế
kỷ XX, chính yếu tố thời gian này đã đặt ra một thách thức lớn. Đó là chúng ta
phải cùng lúc tham gia hai quá trình cạnh tranh: cạnh tranh với các nước phát
triển và cạnh tranh với các nước đang phát triển. Nếu các thập kỷ trước, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singgapore, Hồng Công tham gia hội nhập mà ít phải
tính đến các yếu tố cạnh tranh với các nước đang phát triển (điều này đã giúp họ
trong việc tận dụng ưu thế về nguồn lao động rẻ mạt, cần cù, năng suất lao động
cao để đánh bại hàng hoá của các nước phát triển vốn phải thuê lao động tương
đương, thậm chí là kém hơn), đồng thời các nước này có thể sử dụng mạnh mẽ
các hàng rào bảo hộ thuế quan và phi thuế quan để phát triển nền công nghiệp
trong nước thì đến đợt hội nhập lần này, chúng ta gặp phải khó khăn hơn gấp
13
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
nhiều lần. Việt Nam phải tham gia vòng xoáy cạnh tranh "song trùng", lại phải
dỡ bỏ trong một thời gian ngắn các rào cản thương mại. Trước mắt, đến năm
2006, hàng rào thuế quan của nước ta với các nước ASEAN đối với hàng công
nghiệp chế biến sẽ giảm xuống còn 5%, hàng rào phi thuế quan sẽ bãi bỏ. Hiệp
định Thương mại Việt - Mỹ được Quốc hội hai bên thông qua quy định các hàng
rào thương mại và đầu tư sẽ phải giảm thiểu trong vòng 10 năm tới. Điều này
tạo sức ép không nhỏ cho hàng hoá Việt Nam khi hàng hoá từ các nước đang
phát triển tràn vào. Hơn nữa, khả năng cạnh tranh của Việt Nam thấp hơn nhiều
so với một số nước đang phát triển trong cùng khu vực (Thái Lan, Malaixia,
Philippin). Do vậy, các ngành sản xuất của ta cần chú trọng đến việc chiếm lĩnh

thị trương trong nước, tránh bị thua ngay trên sân nhà.
• Tính đến ngày hôm nay, VN đã xuất cảng đi khắp nơi trên thế giới một
số lượng đáng kể về trọng lượng, nhưng ngược lại thu hồi một số ngoại tệ không
đáng kể so với lượng hàng bán ra. Đó là nông phẩm, thực phẩm, tôm cá, các mặt
hàng gia công như quần áo, giày da, xẽ gỗ, dầu thô và một số mặt hàng tiểu thủ
công nghệ.
• Ngược lại, VN phải nhập cảng xăng dầu và nguyên vật liệu, máy móc
thiết bị, hóa chất, phân bón, thực phẩm "cao cấp" như thịt gà, bò , năng lượng,
viễn thông, ngân hàng Đây là những mặt hàng nhẹ về cân lượng nhưng cần
phải chi ra một số lớn ngoại tệ. Do đó, VN luôn luôn đối mặt với sự thâm thủng
ngân sách cho ngoại thương từ trước đến nay.
• Thêm nữa, những mặt hàng xuất cảng của VN chỉ để giải quyết cuộc
sống của hàng triệu nông dân hay công nhân với mức lương tối thiểu- trong khi
đó cuộc sống của nông dân và công nhân VN ngày càng tệ hại hơn, mặc dù VN
cố gắng gia tăng mức sản xuất hàng năm. Lấy thí dụ về ngành may mặc hiện tại.
Một công nhân Việt Nam làm việc 12 giờ/ngày, sáu ngày/tuần lãnh được từ 600
đến 800 ngàn Đồng VN/tháng, tương đương 37 đến 50 Mỹ kim. Trong lúc đó,
một thợ may Việt Nam tại Mỹ làm việc tám giờ/ngày với mức lương tối thiểu
quy định là 7,75 Mỹ kim/giờ, tức 62 US$/ngày, hơn xa một tháng lương của một
công nhân cùng ngành tại VN.
2.2.Đặc điểm các doanh nghiệp Việt Nam
2.2.1. Thành công
Năng lực sản xuất và kinh doanh của các ngành tăng lên rõ rệt từ khi Việt
Nam gia nhập WTO. Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động phức
tạp nhưng hầu hết các ngành hàng nước ta đều đạt mức tăng trưởng cao so với
nhiều nước trong khu vực. Theo số liệu ước tính, năm 2008, tổng mức bán lẻ
hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 31% so với năm 2007 (nếu loại trừ yếu tố
tăng giá, mức tăng còn 7%); kim ngạch xuất khẩu đạt 62,9 tỉ USD, tăng 29,5%
so với năm 2007; kim ngạch nhập khẩu đạt 79,9 tỉ USD, tăng 27,5% so với năm
14

Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
2007. Nhìn chung, xuất khẩu các mặt hàng chủ lực thuộc các ngành hàng đều
tăng rõ rệt.
- Hàng hóa của Việt Nam có cơ hội thâm nhập được thị trường các nước
thành viên WTO thuận lợi hơn do thị trường được mở rộng và không bị phân
biệt đối xử; có điều kiện tiếp cận với các nguồn tín dụng, công nghệ hiện đại,
các loại hình dịch vụ, vật tư, nguyên liệu.
- Môi trường kinh doanh trong nước đã được cải thiện theo hướng thuận lợi
và minh bạch hơn. Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính đã có tác động tích cực
đối với phát triển các doanh nghiệp mới ở hầu hết các ngành hàng. Việc phát
triển hệ thống ngân hàng và bảo hiểm cũng như mở ra các kênh tài chính tạo cơ
hội lựa chọn tiếp, cận tài chính tốt hơn cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu, các
doanh nghiệp thuộc các ngành ưu tiên như đóng tàu hay phát triển năng lượng
mới.
- Việc mở cửa thị trường nội địa, cắt giảm thuế và các rào cản phi thuế đối
với các sản phẩm như máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu đã tạo điều kiện
cho nhiều mặt hàng đến với người tiêu dùng và doanh nghiệp trong nước với
mức giá hợp lý hơn, hướng tới nâng cao năng lực cạnh tranh nhờ được cung cấp
nguồn lực tốt hơn.
Cơ hội đối với Việt Nam khi gia nhập WTO cơ bản đã nhìn thấy rõ. Đó là
mở rộng thị trường xuất khẩu, đa dạng hóa các mối quan hệ kinh tế-thương mại,
tăng thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài; là cơ hội cho các doanh nghiệp
Việt Nam tham gia vào sân chơi chung toàn cầu vừa là động lực và áp lực buộc
doanh nghiệp phải thích nghi và phát triển
Giải thưởng Sao Vàng đất Việt được xét trao tặng hàng năm cho các
thương hiệu, sản phẩm tiêu biểu của Việt Nam có thể so sánh và cạnh tranh với
thế giới, qua đó Vinh danh các doanh nghiệp Việt Nam tiêu biểu khuyến khích,
động viên và định hướng cho các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm đến công tác

xây dựng thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh trong hội nhập quốc tế.
Sáng 2/9, tại Hà Nội, Trung ương Hội doanh nhân trẻ Việt Nam (Hội Liên
hiệp Thanh niên Việt Nam) đã trao giải thưởng Sao Vàng đất Việt 2009 cho 200
thương hiệu đoạt giải.
Theo Ban tổ chức, việc xác định các tiêu chí và quy trình bình chọn TOP
200, TOP 100 và đặc biệt là TOP 10 thương hiệu tiêu biểu Việt Nam năm 2009
là một bước đột phá quan trọng của giải thưởng. Những doanh nghiệp được bình
chọn danh hiệu TOP 10 phải là những đại diện tiêu biểu cho ngành, đảm bảo
đầy đủ 7 chỉ số ưu tiên: tính minh bạch, doanh số, tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở
hữu, tốc độ tăng trưởng doanh số, số lao động, mức đóng góp ngân sách Nhà
15
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
nước, những đóng góp từ thiện xã hội và năng lực quản lý, khả năng kiểm soát
rủi ro, đảm bảo tăng trưởng bền vững của doanh nghiệp.
Các thương hiệu được bầu chọn là TOP 10 Thương hiệu Việt Nam 2009
đều thuộc các doanh nghiệp hàng đầu như: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Việt Nam; Công ty Vàng bạc Đá quý Sài Gòn-SJC…
Tổng doanh thu của TOP 200 doanh nghiệp đoạt giải thưởng lên tới 453
ngàn tỷ đồng, doanh thu xuất khẩu đạt 1,8 tỷ USD, mức nộp ngân sách trên 34
ngàn tỷ đồng và hơn 305 nghìn lao động.
2.2.2. Hạn chế
Các DNVVN của Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh, tuy nhiên vẫn còn
nhiều hạn chế và yếu kém:
Thứ nhất: Chất lượng và khả năng cạnh tranh về mặt quản lý còn yếu kém.
Đội ngũ chủ DN, giám đốc và cán bộ quản lý DNVVN còn nhiều hạn chế về
kiến thức và kỹ năng quản lý. Số lượng DNVVN có chủ DN, giám đốc giỏi,
trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn
chủ DN và giám đốc DN tư nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và
quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh, đặc

biệt là yếu về năng lực kinh doanh quốc tế. Từ đó, khuynh hướng phổ biến là
các DN hoạt động quản lý theo kinh nghiệm, thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu
kiến thức trên các phương diện: Quản lý tổ chức, chiến lược cạnh tranh, phát
triển thương hiệu, sử dụng máy tính và công nghệ thông tin. Một số chủ DN mở
công ty chỉ vì có sẵn tiền vốn và thích kinh doanh, trong khi đó thiếu kiến thức
và kỹ năng về kinh doanh, vì vậy đã dẫn đến rủi ro và thất bại.
Thứ hai: năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
cao làm yếu khả năng cạnh tranh của các DNVVN. So sánh giữa sản phẩm trong
nước với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philipines, thì các
sản phẩm sản xuất của các DN Việt Nam có giá thành cao hơn từ 1,58 đến 9,25
lần mặc dù giá nhân công lao động thuộc loại thấp so với các nước trong khu
vực.
Thứ ba: Năng lực cạnh tranh về tài chính vẫn còn rất yếu kém. Quy mô vốn
và năng lực tài chính (kể cả vốn của chủ sở hữu và tổng nguồn vốn) của nhiều
DN còn rất nhỏ bé, vừa kém hiệu quả, vừa thiếu tính bền vững. Số lượng DN
nhỏ và vô cùng nhỏ chiếm tỷ lệ khá cao. Việt Nam có hơn 72. 000 DN đang
hoạt động, số lượng có tăng lên nhưng quy mô chủ yếu là nhỏ và siêu nhỏ. Số
DN có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm tới 44,1%, quy mô lao động dưới 10 người
chiếm 46,6%. Nếu so sánh năm 2004 với năm 2000, số vốn và số lượng lao
động bình quân trong mỗi DN đã giảm từ 26 tỷ đồng và 84 lao động xuống còn
24 tỷ đồng và 72 lao động (theo số liệu của Tổng cục Thống kê).
16
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
Thứ tư: Nhận thức và sự chấp hành luật pháp còn hạn chế. Một số khá lớn
DNVVN còn chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, đặc biệt
là các quy định về thuế, quản lý tài chính, quản lý nhân sự, chất lượng hàng hoá
và sở hữu công nghiệp. Tình trạng các DNVVN bị các cơ quan chức năng phàn
nàn, xử phạt vi phạm các chế độ về thuế, tài chính còn phổ biến. Nguyên nhân
của tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này cũng là do việc nhận thức,

hiểu biết của DN về luật pháp còn nhiều hạn chế. Tâm lý làm ăn chuôi vẫn còn
khá phổ biến.
Thứ năm: Sự yếu kém về thương hiệu đã góp phần làm yếu khả năng cạnh
tranh. Hầu hết các DNVVN ở Việt Nam chưa xây dựng được các thương hiệu
mạnh, chưa khẳng định được uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường khu
vực và quốc tế. Nhiều DN ở Việt Nam, đặc biệt là các DNVVN chưa có chiến
lược xây dựng thương hiệu, chưa tạo được uy tín về chất lượng sản phẩm và
dịch vụ, do đó khả năng cạnh tranh còn yếu. Theo số liệu khảo sát của VCCI,
chỉ có gần 10% số doanh nghiệp là thường xuyên tìm hiểu thị trường nước ngoài
và trong số này chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu; Khoảng 42% doanh nghiệp tìm hiểu thị
trường nước ngoài không thường xuyên và khoảng 20% doanh nghiệp, chủ yếu
là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không có các hoạt động tìm hiểu thị trường
nước ngoài.
Việc mở cửa thị trường dẫn đến sức ép cạnh tranh tăng lên, VN sẽ không
còn lý do nào để cấm đoán ngoại quốc tham gia trực tiếp vào thị trường nội địa
của VN. Từ đó, mức cạnh tranh sẽ quyết liệt hơn và chưa chi thua thiệt có thể
chắc chắn về phần doanh thương VN qua sự chênh lệch về nguồn vốn, kỹ thuật,
cung cách khuyến mãi, và thị hiếu của người tiêu dùng VN. các doanh nghiệp
Việt Nam không chỉ phải cạnh tranh ở thị trường trong nước mà còn phải cạnh
tranh ở thị trường thế giới. Nhiều khoản trợ cấp hoặc có tính trợ cấp của Nhà
nước đối với một số ngành hàng cho một số ngành trước đây buộc phải bãi bỏ
theo cam kết gia nhập WTO.
Trước mắt, chúng ta thấy rõ những kỹ nghệ của VN liệt kê sau đây đang đi
dần vào chỗ bế tắc :
- Kỹ nghệ đường hiện nay hoàn toàn bị phá sản vì không cạnh tranh được
so với đường Trung Quốc và Thái Lan có phẩm chất tốt hơn và giá rẽ hơn. Việc
này kéo theo sự bế tắc của nông dân trồng mía.
- Chăn nuôi gia súc ở VN cũng đang đứng trước cơn phá sản do kỹ thuật
chăn nuôi còn nhiều khiếm khuyết. Từ đó, việc nhập cảng cánh và đùi gà Mỹ

hiện tại là một dịch vụ đem nhiều lợi nhuận lớn lao. Vì cánh và đùi gà Mỹ giá
rất rẽ $0.2/bls ( vì người Mỹ không thích ăn) , khi nhập vào VN có thể bán ra
$1,5/kg.
17
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
- Các kỹ nghệ đơn giản khác như xe đạp, dụng cụ làm bếp, trang trí nội thất
sẽ không còn khả năng cạnh tranh với hàng TQ nếu chưa nói đến các nhà sản
xuất lớn như ở HK, Pháp, Ý Những mặt hàng rất bắt mắt và được người VN
ưa chuộng từ lâu. Chính tâm lý ưa chuộng hàng ngoại quốc của người VN sẽ
giết chết công kỹ nghệ VN khi VN gia nhập vào cuộc chơi chung. Và mặt trái
của WTO có thể biến VN thành một thị trường tiêu thụ của quốc tế hơn là một
thị trường sản xuất.
Quy mô của doanh nghiệp chủ yếu là vừa và nhỏ, năng lực tài chính còn
yếu kém, kỹ năng và kiến thức chuyên sâu về quản lý trong môi trường cạnh
tranh quốc tế còn có hạn, thiếu sự liên kết và chỉ tham gia được vào các khâu có
giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu đối với hầu hết các ngành
hàng, nên phải lệ thuộc nhiều vào các trung gian thương mại nước ngoài. Năng
lực nghiên cứu và thiết kế, khả năng đổi mới công nghệ của hầu hết các doanh
nghiệp còn rất hạn chế, lực lượng lao động có trình độ cao không đủ đáp ứng
nhu cầu phát triển. Theo bà Phạm Chi Lan, thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ
tướng cho biết từ một cuộc khảo sát mới đây diễn ra ngay tại TPHCM, trung tâm
kinh tế lớn nhất nước cho thấy: 95% DN được hỏi nói rằng họ không biết WTO
là gì! Số còn lại phần lớn đều chỉ hiểu một cách rất mơ hồ.
Các doanh nghiệp phải đối mặt với các quy định về thực thi quyền sở hữu
trí tuệ, tuân thủ các quy định về nhãn mác và xuất xứ hàng hóa, bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ. Mặc dù các hàng rào phi thuế quan được cắt giảm đối với một số mặt
hàng và một số thị trường như hạn ngạch xuất khẩu ngành dệt may vào thị
trường Hoa Kỳ và EU…, nhưng chúng ta vẫn phải đối mặt với các hàng rào kỹ
thuật mới ngày càng tinh vi hơn theo quy định riêng của một số nước. Các mặt

hàng thủy sản và nông sản xuất khẩu của Việt Nam vẫn bị cản trở bởi các quy
định về an toàn vệ sinh thực phẩm ngày càng khắt khe hơn. Các mặt hàng công
nghiệp chế biến và cơ khí luôn phải đối mặt với các vụ kiện chống bán phá giá.
Sự phát triển của một số ngành thuộc lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội chưa theo kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, ngành điện, giao thông
và một số lĩnh vực dịch vụ công chưa phát triển khiến doanh nghiệp trả giá dịch
vụ cao hơn, làm giảm năng lực cạnh tranh.
Xử lý mâu thuẫn giữa một bên là mở cửa, giảm thuế để hạ giá thành đầu
vào cho sản xuất và để cho người tiêu dùng được tiếp cận với hàng hóa giá rẻ,
một bên là muốn bảo hộ để duy trì sản xuất trong nước. Phần lớn các ngành
hàng vừa được sản xuất trong nước lại vừa được nhập khẩu. Với chủ trương bảo
hộ một số ngành, chúng ta đang thực hiện chính sách thuế nhập khẩu cao đối với
sản phẩm hàng hóa hoàn chỉnh và thuế nhập khẩu thấp hơn đối với nguyên liệu
và linh kiện, chi tiết rời để khuyến khích sản xuất và lắp ráp trong nước. Tuy
nhiên, nhiều ngành sản xuất không tranh thủ cơ hội này để phát triển sản xuất và
18
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
cải tiến công nghệ mà chỉ trông chờ vào chính sách bảo hộ, vì vậy khi thực hiện
cam kết gia nhập WTO thì những hàng hóa này được sản xuất ra luôn có giá cao
hơn so với đối thủ cạnh tranh, khó tiêu thụ ở cả thị trường trong và ngoài nước.
3. Cơ hội và thách thức khi Việt Nam thực thi đầy đủ các nguyên tắc sau
khi gia nhập WTO
Về những cơ hội, gồm năm vấn đề chính:
Một là, khi gia nhập WTO, Việt Nam được tiếp cận thị trường hàng hoá và
dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm
và các ngành dịch vụ không bị phân biệt đối xử.
Hai là, với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết
chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày

càng được cải thiện.
Ba là, gia nhập WTO, Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành
viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội đấu
tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều
kiện bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp.
Bốn là, việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc
đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của Việt Nam
đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
Năm là, cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi
mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều
kiện cho Việt Nam triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại.
Về những thách thức, gồm bốn vấn đề lớn
Một là, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên
bình diện rộng hơn, sâu hơn.
Hai là, trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng
đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi
quốc gia sự “phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư được
hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ
phá sản một phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá
giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh
xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ chương của Đảng:
“Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”.
Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ
thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên.Trong điều kiện tiềm lực đất nước có
19
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị
trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ.

Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề trong việc bảo vệ môi
trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống đẹp
của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ: gia nhập tổ chức thương mại thế giới,
hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với thách thức
không nhỏ. Cơ hội tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà
tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép
trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tuỳ thuộc vào nỗ lực vươn lên của
chúng ta. Cơ hội và thách thức không phải “nhất thành biến mất” mà luôn vận
động, chuyên hoá và thách thức đối với ngành này có thể là cơ hội cho ngành
khác phát triển. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua và
đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ hội mới hơn. Ngược lại không tận dụng được cơ
hội, thách thức sẽ lấn át, cơ hội sẽ biến mất, thách thức sẽ chuyển thành những
khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ở đây, nhân tố chủ quan, nội lực của đất
nước, tinh thần tự lực tự cường của toàn dân tộc là quyết định nhất.
Thủ tướng cũng bày tỏ tin tưởng: "Với thành tựu to lớn sau 20 năm Đổi
mới, quá trình chuyển biến tích cực trong cạnh tranh và hội nhập kinh tế những
năm vừa qua, cùng với kinh nghiệm và kết quả của nhiều nước đã gia nhập
WTO, cho chúng ta niềm tin vững chắc rằng: Chúng ta hoàn toàn có thể tận
dụng cơ hội, vượt qua thách thức. Có thể có một số doanh nghiệp khó khăn,
thậm chí lâm vào cảnh phá sản nhưng phần lớn các doanh nghiệp sẽ trụ vững và
vươn lên, nhiều doanh nghiệp mới sẽ tham gia thị trường và toàn bộ nền kinh tế
sẽ phát triển theo mục tiêu và định hướng của chúng ta".
Cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp khi thực thi các nguyên tắc này
Điểm chung các doanh nghiệp trong KCN phần lớn xuất phát điểm hiện
nay là các doanh nghiệp nhỏ và vừa làm ăn theo lối nhỏ lẻ, manh mún, sử dụng
vốn vay ngân hàng là chính. Các doanh nghiệp đều thiếu thông tin về thị trường,
giá cả. Trình độ tay nghề, ý thức, tác phong công nghiệp của lao động địa
phương không cao, vì không được đào tạo bài bản (đa số là nông dân) và cũng
thường xuyên biến động. Vì vậy chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp

chưa cao, khả năng cạnh tranh thấp. Công nghệ sản xuất ở mức trung bình thấp,
các doanh nghiệp chỉ đầu tư công nghệ, trang thiết bị theo từng giai đoạn nên
chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp xuất
khẩu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3.1.Thách thức
Nguy cơ bị áp dụng các biện pháp tự vệ.
20
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
Việc gia nhập WTO một mặt làm tăng cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt
là sang các thị trường đang áp dụng các hạn ngạch đối với Việt Nam, nhưng một
mặt cũng kèm theo nguy cơ bị các thành viên, đặc biệt là các thành viên lớn như
Hoa Kỳ, EU áp dụng biện pháp tự vệ.
Trung Quốc là một bài học về vấn đề này. Hiện nay, xuất khẩu hàng dệt
may Trung Quốc – nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới – đang bị ảnh
hưởng mạnh do Hoa Kỳ và EU đã và sẽ áp đặt hạn ngạch hoặc tái áp đặt hạn
ngạch đối với nhiều mã hàng theo điều khoản tự vệ Trung Quốc đã nhân nhượng
khi gia nhập WTO. Theo ước tính, những biện pháp hạn chế của Hoa Kỳ trong
thời gian gần đây đã làm giảm tới 30% xuất khẩu của Trung Quốc vào thị
trường này và Trung Quốc đang bị giảm thị phần tại Hoa Kỳ đối với nhiều mã
hàng. Mặc dù so với Trung Quốc, ngành dệt may Việt Nam có năng lực chỉ
bằng 1/50 và hiện chỉ chiếm 3% thị phần hàng dệt may nhập khẩu vào Hoa Kỳ.
Mặt khác, Việt Nam đa phần chỉ xuất khẩu hàng may sẵn nên không ảnh hưởng
đến ngành công nghiệp dệt của Hoa Kỳ. Tuy nhiên không loại trừ khả năng khi
lượng hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh sau khi gia nhập, Hoa
Kỳ và một số thành viên khác sẽ áp dụng biện pháp tự vệ với hàng dệt may Việt
Nam, từ đó có khả năng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao và ảnh hưởng xấu tới ngành
dệt may do đặc thù của ngành là thời gian từ khi ký kết hợp đồng – thu xếp vải,
nguyên phụ liệu – sản xuất, giao hàng kéo dài từ 4-5 tháng. Việc các nước nhập
khẩu có quyền áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu hàng dệt may vào bất cứ

thời điểm nào sẽ làm tăng tính ổn định và gây thiệt hại nghiêm trọng đối với các
nhà xuất khẩu và nhập khẩu do sản xuất bị dở dang.
Nguy cơ bị áp dụng các biện pháp chống bán phá giá
Vụ kiện cá tra, cá basa của Hoa Kỳ đối với Việt Nam và một loạt những vụ
kiện chống bán phá giá mà các thành viên phát triển thường áp dụng với các
thành viên đang phát triển cho thấy một thực tế là hàng xuất khẩu từ các thành
viên đang phát triển, bao gồm cả hàng dệt may Việt nam có nhiều nguy cơ bị
các thành viên phát triển như Hoa Kỳ, EU áp dụng biện pháp chống bán phá
giá. Đặc biệt, dệt may là mặt hàng mà Việt Nam rất có ưu thế về giá, cho nên
nguy cơ này có khả năng cao.
Hàng dệt may sản xuất trong nước có thể bị cạnh tranh mạnh hơn
Hiện nay hầu hết hàng dệt may nước ngoài có mặt tại Việt Nam là hàng
Trung Quốc giá rẻ nhập lậu. Vì vậy, việc giảm thuế theo lộ trình cam kết với
WTO có khả năng cũng sẽ không làm tăng mạnh lượng hàng nhập khẩu vào
Việt Nam, đặc biệt là từ thị trường Trung Quốc, mà chỉ có tác động làm tăng
một số lượng nhất định hàng dệt may, đặc biệt là hàng may sẵn vào thị trường
trong nước. Do vậy, đây có thể được coi là một thách thức không đáng kể.
21
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
Ngược lại khi gia nhập WTO: Thuế giảm,bỏ hạn chế định lượng nhập khẩu
hàng may mặc Trung Quốc, Thái Lan và nước ngoài vào tự do cũng là một
thách thức lớn.Ngành dệt may chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng do các hình thức trợ
cấp hiện tại bị bãi bỏ hoặc cắt giảm. Việt Nam sẽ phải cam kết bãi bỏ ngay từ
thời điểm gia nhập hình thức trợ cấp dưới dạng cấp phát tiền trực tiếp cho doanh
nghiệp theo doanh số xuất khẩu khi tham gia các chương trình xúc tiến thương
mại và trên thực tế Việt Nam đã bỏ hình thức trợ cấp này từ tháng 7/2005. Như
vậy, tác động đối với ngành dệt may đến từ việc Việt Nam sẽ phải cắt giảm 3
hình thức ưu đãi còn lại - Ưu đãi về tín dụng; Ưu đãi về đầu tư; Bảo lãnh tín
dụng đầu tư thuộc. Như vậy, ngành dệt may sẽ nhận được ít hỗ trợ hơn từ phía

Chính phủ, do đó sẽ bị ảnh hưởng sau khi Việt Nam gia nhập. Tuy nhiên, mức
độ ảnh hưởng cụ thể còn tùy thuộc vào khả năng chủ động, lường trước khó
khăn và chủ động điều chỉnh chính sách sản xuất và xuất nhập khẩu của các
doanh nghiệp.
3.2.Cơ hội
Mở rộng thị trường, tăng quy mô sản xuất từ đó hưởng tính lợi ích kinh tế nhờ
quy mô
Khi Việt nam gia nhập WTO, các thành viên WTO sẽ phải bãi bỏ hạn
ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam (đây là một yêu cầu của WTO như đã
được phân tích ở trên). Hoa Kỳ hiện đang là một thị trường xuất khẩu lớn nhất
của Việt Nam về mặt hàng này (chiếm hơn 50%) thị phần nhưng lại đang áp đặt
hạn ngạch với ta. Khi ta gia nhập, thị trường lớn nhất này sẽ buộc phải bãi bỏ
hạn ngạch, do đó, ta có nhiều cơ hội đẩy mạnh lượng hàng xuất khẩu sang thị
trường này. Thêm vào đó, các thị trường khác như EU sẽ không có cơ hội áp đặt
hạn ngạch như đã làm trước đây, từ đó đảm bảo tính ổn định hơn cho thị trường
dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, việc tăng này cũng có khả năng đi kèm với nguy
cơ bị kiện bán phá giá và viện dẫn áp đặt tự vệ như đã trình bày ở trên.
Giảm chi phí xuất khẩu gắn với việc phân bổ hạn ngạch, từ đó làm tăng khả
năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu
Theo tính toán, việc phân bổ hạn ngạch dệt may theo Hiệp định ATC đã
làm tăng chi phí xuất khẩu cho doanh nghiệp. Chi phí này chiếm một tỷ trọng
đáng kể trong tổng chi phí xuất khẩu và đối với Việt nam, chi phí do hạn ngạch
sinh ra đối với mặt hàng dệt xuất khẩu sang US/Canada chiếm 6.9% tổng chi
phí, đối với mặt hàng may mặc vào 2 thị trường này là 7.1% và chi phí do hạn
ngạch sinh ra khi xuất khẩu sang EU đã là 7.5% đối với mặt hàng dệt và 7.2%
đối với mặt hàng may mặc. Như vậy, khi gia nhập WTO, với việc các thành viên
WTO phải bỏ hạn ngạch đối với Việt Nam, hàng dệt may xuất khẩu của Việt
Nam sẽ có điều kiện giảm giá xuất khẩu do không phải mất chi phí do việc cấp
hạn ngạch gây ra.
22

Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
Tỷ trọng chi phí do hạn ngạch gây ra trong tổng chi phí XK
US/Canada
(%)
EU (%)
Dệt May
mặc
Dệt May
mặc
Bangladesh 15.3 8.1 8.4 7.3
Trung Quốc 20.0 33.0 12.0 15
Hồng Kông,
Trung Quốc
1.0 10.0 1.0 5.0
Hungary 6.9 5.0 0 0
Ấn Độ 9.8 34.2 12.0 15.2
Indonesia 8.1 7.8 6.3 6.0
Philippin 6.5 7.8 5.7 6.0
Ba Lan 6.9 5.0 0 0
Sri Lanka 15.3 8.3 5.5 6.6
Thái Lan 8.3 13.2 6.4 7.8
Thổ Nhĩ Kỳ 7.0 4.9 1.5 0
Việt Nam 6.9 7.1 7.5 7.2
Các nước trung
Âu khác
6.9 5.0 0 0
Nguồn: Hildegunn Kyvik Nordas (2004), The Global Textile and Clothing
Industry post the Agreement on Textiles and Clothing, WTO – Cẩm nang hội
nhập

Các doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi hơn trong thủ tục xuất khẩu, từ đó tăng
kim ngạch xuất khẩu
Cơ chế hạn ngạch làm nảy sinh những vấn đề xã hội như nạn tham nhũng,
tiêu cực và sách nhiễu doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp
có năng lực sản xuất và chất lượng hàng hóa tốt lại không có cơ hội xuất khẩu
do không có hạn ngạch. Việc xóa bỏ hạn ngạch của các nước đối với Việt Nam
khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ góp phần giải quyết dứt điểm tình trạng này, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trong việc xuất khẩu hàng
dệt may và góp phần nâng cao uy tín về chất lượng hàng dệt may trên thị trường
thế giới.
Hệ thống luật pháp trở nên thuận lợi hơn đối với các hoạt động kinh doanh và
doanh nghiệp dệt may được bảo vệ bởi các công cụ giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế
23
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
Theo nguyên tắc minh bạch hóa chính sách, trong quá trình gia nhập WTO,
Việt Nam phải minh bạch hoá toàn bộ các chính sách liên quan đến thương mại
của mình và thông báo các kế hoạch hành động để tuân thủ dần dần các nguyên
tắc của WTO. Thông qua quá trình này, khuôn khổ pháp lý của Việt Nam về
ngành dệt may sẽ minh bạch hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế tạo môi trường
kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh và khuyến khích thương mại, đầu tư
cũng như hợp tác về các vấn đề khác với cộng đồng quốc tế.
Khi Việt nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp có khả năng phải đối mặt
nhiều hơn với các vụ kiện chống bán phá giá. Tuy nhiên, việc gia nhập sẽ giúp
các doanh nghiệp được giải quyết thỏa đảng hơn theo cơ chế giải quyết tranh
chấp của WTO, hạn chế tình trạng áp đặt đơn phương như hiện nay.
Tạo điều kiện thuận lợi hơn để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tư cách thành viên WTO là bằng chứng của một môi trường kinh doanh
thuận lợi, và nhờ đó, sẽ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào khu vực

xuất khẩu và khu vực sản xuất cho thị trường nội địa. Tuy nhiên, xác định mức
độ mà tư cách thành viên WTO tác động đến FDI là một việc khó khăn, bởi có
quá nhiều nhân tố ảnh hưởng đến các quyết định đầu tư. Năm 2002, Trung Quốc
được kết nạp vào WTO, Trung Quốc thu hút được 52,7 tỷ USD đầu tư trực tiếp
nước ngoài và Trung Quốc trở thành nước đứng đầu thế giới về FDI.
Việt Nam cũng đã thành công trong việc thu hút đầu tư. Đến năm 2004,
tổng FDI vào Việt Nam là 4,1 tỷ USD, trong đó số FDI vào ngành dệt may là
3.215 triệu USD (vốn đăng ký) với tổng số dự án là 534 từ 28 quốc gia và vùng
lãnh thổ.
Như vậy, với những thay đổi trong hệ thống pháp lý của Việt Nam qua tiến
trình đàm phán gia nhập sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao tính minh
bạch và trách nhiệm trong các quy định liên quan đến đầu tư, và như vậy, sẽ tạo
nên môi trường thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước, trong
đó đương nhiên có các nhà đầu tư vào ngành dệt là ngành thượng nguồn cung
cấp nguyên liệu cho ngành may Việt Nam, là yếu tố quan trọng cho việc phát
triển bền vững ngành dệt may Việt Nam
4. Các giải pháp để nắm bắt cơ hội và loại trừ những khó khăn thách thức
Giải pháp chung là cần tận dụng triệt để thời cơ sẽ đẩy lùi thách thức và tạo
ra thời cơ, vận hội mới hơn. Cũng cần thấy rõ vai trò của doanh nghiệp, của nhà
nước là quyết định. Doanh nghiệp đương đầu với với cạnh tranh, cho nên hành
trang hội nhập phải trang bị đầy đủ cả về trí tuệ, năng lực và tài chính. Nhà nước
là người mở đường thì các quyết sách phải kịp thời, sáng suốt, phù hợp các cam
kết gia nhập WTO
24
Các giải pháp để loại trừ và nắm bắt những khó khăn thách thức
của các Doanh nghiệp Việt Nam
Giải pháp đối với các ngành ngân hàng, trước hết là, hoàn thiện hệ thống
pháp luật ngân hàng: sửa đổi luật ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín
dụng; xây dựng, chỉnh sửa và bổ sung các quy định về cấp phép, tổ chức và hoạt
động của các tổ chức tín dụng phù hợp các cam kết gia nhập WTO; hoàn thiện

các quy định về quản lý ngoại hối; cải cách hệ thống kế toán ngân hàng phù hợp
chuẩn mực kế toán quốc tế; hoàn thiện các quy định về thanh toán không dùng
tiền mặt; quy định về các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng mới (quản lý tài sản
tài chính, quản lý danh mục đầu tư, các dịch vụ uỷ thác, dịch vụ ngân hàng điện
tử, dịch vụ thanh toán và bù trừ tài sản tài chính, cung cấp và xử lý thông tin tài
chính, tư vấn về đầu tư và danh mục đầu tư, về mua lại và tái cơ cấu doanh
nghiệp…)
Thứ hai, nâng cao năng lực của ngân hàng nhà nước về điều hành chính
sách tiền tệ; tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều hành các công cụ chính sách tiền tệ,
nhất là các công cụ gián tiếp; gắn điều hành tỷ giá với lãi suất theo cơ chế thị
trường; xác định trách nhiệm của ngân hàng nhà nước trong điều hành chính
sách tiền tệ, nâng cao tính công khai, minh bạch trong điều hành chính sách tiền
tệ
Thứ ba, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngân hàng thương mại: lành
mạnh hoá và nâng cao năng lực tài chính cho các ngân hàng thương mại, xử lý
xong về căn bản nợ đọng của các ngân hàng thương mại nhà nước; tăng vốn tự
có theo các phương án đã được thủ tướng chính phủ phê duyệt; tiến hành cổ
phần hoá ngân hàng ngoại thương và ngân hàng nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long
và các ngân hàng thương mại khác; phát triển nguồn nhân lực; hiện đại hoá công
nghệ; nâng cao hiệu lực quản lý và tăng cườn năng lực quản trị rủi ro, mở rộng
và đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác phổ biến thông tin, tuyên truyền về hội nhập
kinh tế quốc tế, nhất là cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực dịch
vụ ngân hàng, thông qua các hình thức khác nhau như tổ chức các buổi họp báo,
thuyết trình, cung cấp thông tin cho báo chí và định kỳ công bố các chương
trình, kế hoạch hành động của các ngành liên quan việc thực thi các cam kết
song phương và đa phương.
Hướng tới chuẩn mực quốc tế
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang hướng các sản phẩm của
mình tới tiêu chuẩn quốc tế bằng cách đổi mới công nghệ, áp dụng phương thức

quản lý hiện đại, tiếp cận thị trường khu vực và thế giới.
Ý tưởng về việc xây dựng Buôn Mê Thuật trở thành thủ đô cà phê của thế
giới mặc dù cần được nghiên cứu nghiêm túc và có đủ thời gian để biến “giấc
mơ” thành hiện thực, nhưng có thể coi đây là một điển hình về phương châm
mới “tư duy toàn cầu, hành động quốc gia”.
25

×