Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Đề án các giải pháp xây dựng hiệu quả các hoạt động quản trị trong doanh nghiệp và sự cần thiết của quản trị trong doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.78 KB, 19 trang )

ĐỀ ÁN
SỰ CẦN THIẾT CỦA QUẢN TRỊ TRONG DOANH NGHIỆP VÀ
CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG HIỆU QUẢ CÁC HOẠT ĐỘNG
QUẢN TRỊ TRONG DOANH NGHIỆP.
1
MỤC LỤC
Lời mở đầu 2
I. Các luận điểm cơ bản về quản trị 3
1. Đĩnh nghĩa 3
1.1. Khái niệm về tổ chức – đối tượng căn bản của quản trị 3
1.2. Định nghĩa quản trị 4
1.3. Nhà quản trị 5
2. Chức năng của quản trị 6
2.1. Chức năng của quản trị 6
2.1.1 Các nguồn lực được sử dụng bởi nhà quản trị 6
2.1.2 Các chức năng quản trị 7
3. Vai trò của quản trị 9
II. Sự cần thiết của quản trị trong doanh nghiệp 9
1. Mục tiêu của doanh nghiệp 9
2. Tầm quan trọng của quản trị trong doanh nghiệp 10
3. Lợi ích của quản trị 11
4. Quản trị trong giai đoạn mới 11
4.1. Tác động của toàn cầu hóa đối với hoạt động quản trị 11
4.2. Thách thức nhà quản trị 13
4.3. Thực trạng công tác tổ chức bộ máy quản lý trong các doanh nghiệp
ở nước ta hiện nay 15
4.4. Giải pháp 16
Lời kết 18
Tài liệu tham khảo 19
2
LỜI MỞ ĐẦU


Từ hàng ngàn năm trước đây đã có những nỗ lực có tổ chức dưới sự trông coi
của những người chịu trách nhiệm hoạch định, tổ chức điều khiển và kiểm soát để
chúng ta có những công trình vĩ đại lưu lại đến ngày nay: như Vạn lý trường thành,
Kim tự tháp…Chỉ kể đến Vạn lý trường thành – công trình được xây dựng từ hàng
ngàn năm trước, với độ dài hàng ngàn cây số và là cộng trình lớn nhất trên hành tinh
chúng ta có thể nhìn thấy từ mặt trăng bằng mắt thường, chúng ta sẽ cảm thấy công
trình đó vĩ đại biết chừng nào khi biết được rằng có hơn một triệu người làm việc ở
đây suốt nhiều năm ròng rã. Ai sẽ chỉ cho mỗi người phu làm gì? Ai là người cung
cấp sao cho đầy đủ nguyên liệu tại nơi xây dựng. Chỉ có sự quản trị mới trả lời được
câu hỏi như vậy. Đó là sự dự kiến công việc phải làm, điều khiển những người phu và
áp đặt sự kiểm tra, kiểm soát để bảo đảm công việc được thực hiện đúng như dự định.
Những hoạt động như thế là những hoạt động quản trị quan trọng dù rằng lúc đó có
thể gọi đó bằng những tên khác.
Nhờ quản trị, ta có được những công trình vĩ đại trong quá khứ. Ngày xưa quản
trị đã đóng vai trò quan trọng như thế, vậy trong xu thế hội nhập ngày nay thì sao? Để
có cái nhìn tổng quan hơn, sâu hơn về nhiệm vụ cũng như giải pháp để đưa những
hoạt động quản trị vào các Doanh nghiệp là điều hết sức cần thiết và cấp bách đối với
tất cả các doanh nghiệp hện nay khi mới thành lập và phát triển các hoạt động quản
trị hơn nữa đối với các Doanh nghiệp đã khẳng định được vị trí, tên tuổi của mình ra
ngoài thế giới.
3
I. Các luận điểm cơ bản về quản trị:
1. Định nghĩa:
1.1. Khái niệm về tổ chức – đối tượng căn bản của quản trị:
Nhà quản trị làm việc trong các tổ chức. Vì vậy trước khi xác định quản trị là gì?
Nhà quản trị là ai và họ làm gì, cần làm sáng tỏ những nội dung chính của thuật ngữ
tổ chức.
Một tổ chức là một sự sắp xếp có hệ thống những người được nhóm lại với nhau
để đạt được những mục tiêu cụ thể. Một đơn vị kinh doanh là một tổ chức. Các bệnh
viện, trường học, bảo tàng, câu lạc bộ thể thao, cửa hiệu, công viên giải trí ngoài trời,

nhà hàng, ban nhạc, câu lạc bộ hay nhóm cộng đồng, cơ quan công quyền…cũng là
các tổ chức.
Các đặc điểm chung của các tổ chức: Mọi tổ chức đều có những mục tiêu nhất
định và chúng hình thành từ những con người được nhóm gộp lại với nhau theo cách
thức nào đó, và mỗi nhóm đều có một cấu trúc và cùng nỗ lực để đạt được các mục
tiêu mà từng cá nhân riêng lẻ hoạt động đơn độc không thể đạt được (xem hình I-1).
Đặc điểm thứ hai là, không có mục tiêu nào có thể đạt được nếu không có con người
ra các quyết định để thiết lập mục tiêu và thực hiện một loạt các hành động để hiện
thực hoá các mục tiêu đó. Đặc điểm thứ ba là tất cả các tổ chức đều xây dựng một
cấu trúc hệ thống để trên cơ sở đó mà xác định và giới hạn hành vi của các thành viên
của nó.
4
1.2. Định nghĩa quản trị:
Quản trị (Management) là từ thường được dùng phổ biến trong nhiều sách giáo
khoa và nhiều tài liệu khác. Nếu xét riêng từng từ một thì ta có thể tạm giải thích:
- Quản: là đưa đối tượng vào khuôn mẫu qui định sẵn. Ví dụ: Cha mẹ bắt đứa
bé phải làm theo một kế hoạch do mình định ra; sáng phải đi học, buổi trưa nghỉ ngơi,
buổi chiều học bài, trước khi đi phải thưa về phải chào, … Đó là cái khuôn mẫu
chúng phải thực hiện chứ không để đối tượng tự do hoạt động một cách tùy thích.
- Trị: là dùng quyền lực buộc đối tượng phải làm theo khuôn mẫu đã định. Nếu
đối tượng không thực hiện đúng thì sẽ áp dụng một hình phạt nào đó đủ mạnh, đủ sức
thuyết phục để buộc đối tượng phải thi hành. Nhằm đạt tới trạng thái mong đợi, có
thể có và cần phải có mà người ta gọi là mục tiêu.
Trước hết, một cách thô thiển, ai đó hiểu rằng cấp trên làm cho cấp dưới giúp
mình đạt mục tiêu đã đề ra thì tức là người đó đã quản trị tốt Một một người khác
tận dụng được tất cả những công cụ, dụng cụ và tiền bạc của mình để đạt được mục
tiêu lớn nhất.Cũng là quản trị tốt - quản trị tài sản, công cụ của mình. Sau đây là
những khái niệm về Quản trị của một số tác giả là Giáo sư, Tiến sĩ quản trị học trong
và ngoài nước.
- Theo GS. H.Koontz “Quản lý là một hoạt động tất yếu; nó đảm bảo phối hợp

những nổ lực cá nhân nhằm đạt được những mục đích của nhóm (tổ chức). Mục tiêu
của quản lý là nhằm mà trong đó con người có thể đạt được các mục tiêu của nhóm
với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn của cá nhân ít nhất”.
- James Stoner và Stephen Robbín:Quản trị là tiến trình hoạch định, tổ chức,
lãnh đạo và kiểm soát những hoạt động của các thành viên trong tổ chức và sử dụng
tất cả các nguồn lực khác của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
Từ khái niệm trên chúng ta có thể rút ra kết luận: “Quản trị là một quá trình
tác động của chủ thể quản trị lên đối tượng quản trị để thực hiện mục tiêu với
hiệu quả cao trên cơ sở chi phí thấp nhất”
5
1.3. Nhà quản trị
Nhà quản trị là những thành viên trong doanh nghiệp thuộc bộ phận chỉ huy, có
quyền đề ra các quyết định để điều chỉnh hành vi của các thành viên khác.
**Kĩ năng của nhà quản trị:
a. Kỹ năng nhận thức (hay kỹ năng tư duy)
Là chức năng quan trọng nhất đối với nhà quản trị, nó đòi hỏi nhà quản trị phải
am hiểu trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội; thấu hiểu mức độ phức tạp và
biết giảm thiểu mức độ phức tạp; nhận biết, phán đoán chính xác những sự vật và
hiện tượng và phản ứng một cách nhanh nhạy các tình huống phát sinh. Đây có thể
nói là một kỹ năng quan trọng, nhất là trong thời đại ngày nay, thời đại của nền kinh
tế tri thức.
b. Kỹ năng quan hệ
Là kỹ năng có liên quan tới quan hệ với con người, tạo thuận lợi và thúc đẩy con
người hoàn thành các công việc chung. Kỹ năng này thể hiện việc thông qua các hình
thức, phương pháp tác động tới con người như lời nói, chữ viết, thái độ ứng xử,… có
sức thuyết phục, tập hợp (quy tụ) được những người đứng chung quanh mình hoàn
thành tốt những mục tiêu đã đề ra với hiệu quả cao nhất. Tất nhiên, muốn làm được
như vậy còn đòi hỏi ở người quản trị phải có năng lực và uy tín nhất định. Người có
năng lực và uy tín cao trong tập thể sẽ dễ dàng tập hợp các thành viên trong tổ chức;
ngược lại dễ gặp phải sự không chấp nhận của cấp dưới ở nhiều mức độ và bằng

nhiều hình thức khác nhau.
c. Kỹ năng chuyên môn
Là khả năng cần thiết để thực hiện một công việc cụ thể; biểu hiện trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của nhà quản trị như soạn thảo một văn bản hành chính, lập
một hợp đồng kinh tế, lập trình quản lý, ra một quyết định quản trị,… Mặc khác, kỹ
năng này còn đòi hỏi ở người quản trị phải hiểu biết chuyên môn của đơn vị mình
phụ trách, chẳng hạn một cán bộ quản trị ngân hàng phải am hiểu các nghiệp vụ ngân
hàng của mình.
6
Tuy nhiên, do vai trò của quản trị viên ở các cấp quản trị không giống
nhau nên yêu cầu mức độ thành thạo các kỹ năng có sự khác nhau.
2. Chức năng của quản trị:
2.1. Chức năng của quản trị:
2.1.1. Các nguồn lực được sử dụng bởi nhà quản trị
Nhà quản trị cần sử dụng nguồn lực nhất định để thành đạt các mục tiêu của
mình. Các nguồn lực mà các nhà quản trị sử dụng có thể được phân thành bốn loại:
con người, tài chính, cơ sở vật chất và thông tin.
a. Nguồn lực con người
Nguồn lực con người bao gồm những người cần thiết để hoàn thành công việc.
Mục tiêu của nhà quản trị là tác động và thông qua con người để hoàn thành
công việc.
b. Nguồn lực tài chính
Nguồn lực tài chính bao gồm số tiền mà nhà quản trị và tổ chức sử dụng để đạt
được mục tiêu của tổ chức.
c. Nguồn lực vật chất
Nguồn lực vật chất là những tài sản hữu hình của công ty và các bất động sản,
bao gồmnguyên vật liệu, văn phòng, nhà máy sản xuất, các thiết bị văn phòng,
phương tiện vận chuyểnvà công nghệ.
d. Nguồn lực thông tin
Nguồn lực thông tin là những dữ liệu mà nhà quản trị và tổ chức sử dụng để

hoàn thành công việc.
7
2.1.2. Các chức năng quản trị
Vào năm 1916, trong tác phẩm "Quản trị công nghiệp và quản trị tổng quát", nhà
tư bản công nghiệp người Pháp Henry Fayol cho rằng tất cả nhà quản trị đều thực
hiện năm hoạt động quản trị và được xem như là “tiến trình quản trị”, đó là lập kế
hoạch, tổ chức, phối hợp, điều khiển và kiểm tra. Vào giữa thập niên 1950, hai giáo
sư của trường ULCA là Harold Koontz và Cyril O'Donnell đề nghị một tiến trình bao
gồm các chức năng hoạch định, tổ chức, định biên, lãnh đạo và kiểm soát làm cơ sở
cho các sách nói về quản trị trong thế kỷ này. Các nhà lý luận và thực hành quản trị
tiếp tục nghiên cứu, phát triển và thống nhất ở bốn chức năng quản trị: hoạch định, tổ
chức, lãnh đạo và kiểm tra.
8
a. Hoạch định (Planning).
Một cách tổng quát, hoạch định bao gồm việc xác định các mục tiêu của tổ chức
và phác thảo những cách thức để đạt được chúng. Các nhà quản trị tiến hành việc
hoạch định vì ba lý do:
(1) Thiết lập một định hướng tổng quát cho tương lai của tổ chức, chẳng hạn gia
tăng lợi nhuận, mở rộng thị trường hay gia tăng trách nhiệm xã hội.
(2) Xác định và cam kết về các nguồn lực của tổ chức để hoàn thành mục tiêu.
(3) Quyết định những công việc cần thực hiện để đạt được mục tiêu.
b. Tổ chức (Organizing).
Sau khi phác thảo xong các kế hoạch, nhà quản trị cần phải làm cho những ý
tưởng tương đối vắn tắt này trở thành thành thực tế. Hiểu biết về tổ chức là yêu cầu
vô cùng thiết yếu để thực thi được điều đó. Tổ chức là tiến trình thiết lập một cấu trúc
về các mối quan hệ giúp cho mọi người có thể thực hiện các kế hoạch đã đề ra và
thỏa mãn các mục tiêu của tổ chức. Thực hiện hiệu quả chức năng tổ chức giúp các
nhà quản trị phối hợp tốt hơn các nguồn lực của tổ chức. Sự thành công của tổ chức
phụ thuộc phần lớn vào khả năng sử dụng các nguồn lực này một cách có kết quả và
hiệu quả.

c. Lãnh đạo (Leading).
Sau khi hoàn thành việc lập kế hoạch, thiết kế cơ cấu tổ chức, sắp xếp đội ngũ
nhân viên, các nhà quản trị cần thực hiện chức năng lãnh đạo đối với tổ chức. Lãnh
đạo bao gồm các hoạt động nhằm thúc đẩy mọi người thực hiện những công việc cần
thiết để hoàn thành mục tiêu của tổ chức. Chức năng lãnh đạo không phải được thực
hiện sau khi các chức năng hoạch định và tổ chức được hoàn tất; nó còn là một yếu tố
then chốt của các chức năng này.
d. Kiểm tra (Controlling)
Tiến trình mà trong đó một cá nhân, nhóm, hoặc tổ chức giám sát kết quả thực
hiện một cách liên tục và thực hiện các hoạt động điều chỉnh những sai lệch so với
mục tiêu (hoặc các hoạt động không theo kế hoạch) gọi là kiểm tra.
9
1. Vai trò của quản trị:
Hệ thống quản trị thực hiện các chức năng của mình thông qua giữ nhiều vai trò
khác nhau trong quá trình quản trị. Nếu chức năng quản trị là những nhiệm vụ chung
(nhiệm vụ tổng quát) thì vai trò quản trị là những công việc cụ thể, là tập hợp những
hành vi có tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Theo Henry Mitzberg, nhà
nghiên cứu Hoa Kỳ cho rằng quản trị có 10 vai trò phổ biến được tập hợp thành 3
nhóm:
- Nhóm 1: Vai trò quan hệ, bao gồm các vai trò là người đại diện; vai trò
người lãnh đạo; vai trò người quan hệ với các cá nhân và tập thể trong và ngoài tổ
chức.
- Nhóm 2: Vai trò thông tin, bao gồm các vai trò là người cung cấp thông tin;
phổ biến thông tin; thu thập và thẩm định thông tin.
- Nhóm 3: Vai trò quyết định, bao gồm các vai trò nhà doanh nghiệp; vai trò
người giải quyết xung đột; vai trò người phân phối tài nguyên trong tổ chức.
II. Sự cần thiết của quản trị trong doanh nghiệp:
1. Mục tiêu của doanh nghiệp:
1.1. Mục tiêu kĩ thuật:
Doanh nghiệp sẽ tìm cách đạt được các thắng lợi về sản lượng: bằng cách sản xuất

nhiều hơn đối với cùng một tỉ suất sử dụng nhất định, người ta hạ thấp được chi phí
sản xuất, thành tích kĩ thuật sẽ được cải tiến bằng cách tổ chức sản xuất tốt hơn.
1.2. Mục tiêu kinh tế:
Cần đạt được chi phí sản xuất thấp nhất có thể đạt hay sản phẩm tốt nhất nếu có
thể (hay kết hợp cả hai). Cần đạt được lợi tức cao nhất nếu có thể: tổng lợi tức (doanh
số) hay lợi tức thuần, do đó, ở đây có sự đòi hỏi về lợi nhuận: tương quan giữa lợi
nhuận/vốn đầu tư phải đạt đến tỉ số lợi nhuận cao.
10
1.3. Mục tiêu xã hội:
Doanh nghiệp phải đáp ứng các nhu cầu của các người tiêu thụ, bằng cách cung
cấp các sản phẩm có kĩ thuật tốt, với giá cả hợp lí. Doanh nghiệp phải thảo mãn các
mong đợi của người lao động, bằng cách tạo ra các việc làm, bằng cách trả lương
thỏa đáng, bằng cách kích thích một bầu không khí thuận lợi cho tổ chức, nhưng liên
hệ với xã hội, doanh nghiệp phải thỏa mãn các nhu cầu lớn hơn bằng cách góp phần
tạo sự an lạc về kinh tế và xã hội, bằng cách đáp ứng các khát vọng của xã hội được
biểu lộ trong các giá trị của xã hội đó.
2. Tầm quan trọng của quản trị trong doanh nghiệp:
Một tổ chức kinh doanh có thừa nguyên vật liệu, máy móc, nguồn nhân lực…
nhưng sẽ thất bại nếu thiếu yếu tố quan trọng nhất – khả năng sử dụng một cách hiệu
quả nhất những nguồn tài nguyên này. Nhiều doanh nghiệp đã thất bại do không có
sự quản trị tốt, một số người gọi đó là sự hoạch định tồi, một số khác đổ lỗi cho sự
thiếu lo xa hay thậm chí cho rằng họ đã không gặp may mắn. Các nguồn tài nguyên
chỉ có thể sử dụng thích hợp bởi một nhà quản trị giỏi.
Quản trị càng đặc biệt đối với các doanh nghiệp đang phát triển. Với số lượng
công nhân ngày càng tăng, việc quản lí tổ chức kinh doanh sẽ phức tạp hơn nhiều bởi
nó liên quan đến nhiều người và công việc quản lí sẽ trở nên rất khó khăn để duy trì
sự truyền thông có hiệu quả giữa các thành viên với nhau. Doanh nghiệp có thể lâm
vào tình trạng “ tay phải không biết tay trái đang làm gì” nếu không được quản trị tốt.
Tổ chức kinh doanh có thể bị phá sản khi dòng lưu kim ở trong tình trạng nguy kịch,
mặc dù phòng kinh doanh cố chứng tỏ doanh nghiệp đang hoạt động tốt bằng những

bản báo cáo đầy ấn tượng đẹp. (Quản trị doanh nghiệp- nxb thông kê Nguyễn Hải
Sơn - 1996 trang 235).
Quản trị thực hiện công việc không phải là một quá trình đơn giản. Quản trị làm
tăng khả năng tiếp cập, nâng cao khả năng hoạt động, phân bổ nguồn lực tốt hơn, tạo
ra sự giàu có, làm giảm rủi ro: phá sản, khủng hoảng tài chính, nâng cao mối quan hệ
giữa các đối tượng thụ hưởng.
11
3. Lợi ích của quản trị:
3.1. Lợi ích của công ty và nhà quản lý:
Quản trị thực hiện công việc không phải là một quá trình đơn giản. Vậy tại sao
chúng ta phải thực hiện? Khi được tiến hành đúng cách, quá trình này sẽ giúp người
quản lý giảm thời gian hướng dẫn nhân viên hoặc giải quyết những khó khăn trong
quá trình thực hiện công việc. Việc giúp nhân viên hiểu được những kỳ vọng ở họ sẽ
giúp họ làm việc độc lập hơn. Xác định được các khó khăn, rào cản trong quá trình
thực hiện công việc có thể cải thiện được năng suất làm việc. Quá trình quản trị thực
hiện công việc giúp nhân viên thực hiện công việc theo mục tiêu và yêu cầu của Công
ty. Tuy nhiên, nếu thực hiện không đúng, nó có thể gây ra sự tức giận, thất vọng và
tạo cảm giác không công bằng trong công ty.
3.2. Lợi ích với nhân viên
Quá trình quản trị thực hiện công việc giúp nhân viên hiểu được vai trò, trách
nhiệm, các kỳ vọng và yêu cầu mức độ hoàn thành. Nó cũng tạo ra cách thức xác
định rõ các yêu cầu/kỳ vọng, ghi nhận lại kết quả, và điều chỉnh các yêu cầu theo sự
thay đổi.
4. Quản trị trong giai đoạn mới
4.1. Tác động của toàn cầu hóa đối với hoạt động quản trị:
Trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng đã tác động mạnh mẽ đến
quản trị trên hai phương diện: cơ hội và thách thức buộc các tổ chức phải đẩy mạnh
hội nhập với hình thức và bước đi phù hợp. Thực tế cho thấy quản trị các doanh
nghiệp ở Việt Nam phải đi nhanh quá trình hội nhập.
Trong quản trị phải đối mặt: tình trạng yếu kém chậm phát triển của doanh

nghiệp, đối diện với một thế giới phát triển cao hơn và đang biến đổi với tốc độ
nhanh hơn. Doanh nghiệp Việt Nam phải nhập vào quỹ đạo phát triển của thế giới đó,
vận động trong hệ thống quy tăc chung của hệ thống toàn cầu. Để phát triển doanh
nghiệp Việt nam bắt buộc phải giải quyết nhiệm vụ kép:
1. Thoát khỏi sự yếu kém sản xuất kinh doanh cua doanh nghiệp.
2. Chuyển nhanh sang quản trị xu thế toàn cầu.
12
Hai nhiệm vụ trên cùng nằm trên trục phát triển. Song nội dung của chúng
không hoàn toàn dồng nhất.
Nhiệm vụ thứ nhất nhấn mạnh đến điểm xuất phát (mục tiêu vượt thoát khỏi
tình trạng hiện taị), đến logic tuần tự của sự phát triển (chuyển từ quản trị kém hiệu
quả sang quản trị có hiệu quả)
Nhiệm vụ thứ hai nhấn mạnh đến đích phải đạt đến ( mục tiêu hướng đich), đến
logic phát triển, thực chất là đón đầu đi tắt, bỏ qua một trình độ , một thời đại kĩ thuật
để rút ngắn khoảng cách quản trị với các nước phát triển, tiến tới hội nhập.
Tình huống bắt buộc giải quyết cùng lúc hai nhiệm vụ đó đòi hỏi phải có thái độ
triệt để với hội nhập, các hoạt động quản trị phải thực sự xuất phát từ mục tiêu hiệu
quả kinh tế.
Một số “nút” đột phá về quản trị để hội nhâp:
Nhà nước cần ít can thiệp vào các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, kể cả
doanh nghiệp nhà nước. Đó chủ yếu là chức năng của thị trường. Chỉ xuất phát từ các
tín hiệu định hướng của thị trường mới có thể chuyển phương hướng đầu tư nghiêng
về thay thế nhập khẩu, hướng nội, dựa vào bảo hộ tập trung phát triển các ngành thâm
dụng vốn hơn là thâm dụng lao động như thời gian qua sang hướng dựa trên lợi thế,
hướng vào lợi thế và nâng cao sức cạnh tranh. Để phát triển môi trường kinh doanh
lành mạnh hơn, một số điểm cần phải làm với vai trò quyết định của nhà nước là:
1. Hạn chế tối đa xu hướng độc quyền của các doanh nghiệp và doanh nghiệp
FDI (Căn nguyên của sự hình thành các nhóm lợi ích độc quyền- hướng nội được thể
chế hóa).
2. Thi hành các chính sách khuyến khích xuất khẩu và cạnh tranh quốc tế.

3. Từng bước tự do hóa hoạt động tài chính và tiền tệ.
4. Đảm bảo tối đa quyền tự chủ của doanh nghiệp
Cơ chế thị trường chắc chắn là phương thức hữu hiệu nhất để thực hiện bước
quá độ lao động (giải quyết áp lực lớn nhất hiện nay là việc làm – thất nghiệp), cũng
là khâu trọng tâm của quá trình hình thành cơ cấu kinh tế hợp lí, có thể diễn ra thuận
lợi và có hiệu quả.
13
Lựa chọn mô hình để hội nhập quốc tế
Từ điểm xuất phát thấp , tiềm lực yếu, trong điều kiện sự biến đổi khoa học –
công nghệ trên thế giới lại diễn ra rất nhanh, liệu nước ta có đạt được những thành
công mong muốn trong việc tao ra nền khoa học – công nghệ đạt tiêu chuẩn quốc tế
trong một thời gian tương đối ngắn (10 – 20 năm) không, có thể đạt kết quả trong bốn
chương trình khoa học công nghệ và ưu tiên (công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ tự động hóa) đủ làm cơ sở bảo đảm cho sự
phát triển kinh tế trên nền tảng tự chủ công nghệ không?
Thực chất của vấn đề mô hình phát triển doanh nghiệp ở Viêt Nam hiện nay là
xử lí mối quan hệ giữa mô hình nghiêng về tiếp thu - ứng dụng các thành tựu khoa
hoc – công nghệ và mô hình nghiêng về tạo lập cơ sở khoa học riêng, để từ đó phát
triển nền công nghệ - công nghiệp của mình trong 15 năm tới. Ngắn gọn hơn đó là
vấn đề về sự lụa chọn bước đi, lựa chọn trật tự và ưu tiên phát triển khoa học - công
nghệ trong quan hệ với phát triển kinh tế trong giai đoạn tới. Cách đi này nhiều doanh
nghiệp Đông Á đã thành công.
Khoảng cách khá xa về trình độ phát triển giữa Việt Nam với thế giới, sự hạn
chế về tiềm lực vật chất đòi hỏi doanh nghiệp phải thiết lập một trật tự.
4.2. Thách thức nhà quản trị:
Ngày nay, việc lãnh đạo một doanh nghiệp đã khác rất xa so với cách đây nửa
thế kỷ. Vậy thì những kỹ năng nào mà người đứng đầu doanh nghiệp cần để đạt được
thành công - không những chỉ vào thời điểm này mà còn trong tương lai?
Đối với công việc của một nhà quản trị, yếu tố quan trọng nhất, không gì khác
chính là kỹ năng lãnh quản trị. Nhưng trong môi trường kinh doanh luôn biến động

không ngừng, không thể rập khuôn cung cách các nhà quản trị đã từng có hiệu quả
trong quá khứ mà hi vọng rằng vẫn có thể vượt qua được những thử thách ở thì hiện
tại.
Lối cư xử độc đoán, hay quát tháo nhân viên của những ông chủ thập niên 50 sẽ
làm bạn mất đi các cộng sự thân tín. Còn cung cách làm việc xuề xòa, dễ dãi của
những năm 90 lại dẫn đến sự trì trệ trong hiệu quả kinh doanh, không thể theo kịp tốc
độ cạnh tranh trên thương trường hiện nay.
14
Vậy thì một nhà quản trị trong thế kỷ 21 muốn thành công cần phải hội tụ những
tố chất:
1. Sự linh hoạt hay khả năng thích ứng
Nếu chỉ được chọn duy nhất một kỹ năng cho công việc của mình, thì đây chính
là kỹ năng nhà quản trị nên có ngay lập tức, đó là lời khuyên của Marty Linsky-
đồng sáng lập của Công ty tư vấn Hiệp hội lãnh đạo Cambridge (Massachusetts). Với
thực tiễn kinh doanh thay đổi từng ngày từng giờ, các nhà lãnh đạo cần sẵn sàng học
hỏi, cập nhật thật nhanh và xử lý kịp thời trước mọi tình huống.
2. Sự tự nhận thức
Trước khi có thể khắc phục được những thử thách của công ty, nhà quản trị nên
nhìn vào gương. Bởi theo Ken Blanchard - đồng tác giả cuốn sách về quản lý kinh
điển “Nhà quản lý một giờ” và mới đây là cuốn “Lãnh đạo trình độ cao” - thì: “Quá
trình quản trị trước tiên nên bắt đầu bằng việc nhìn vào chính bản thân mình. Sau đó
bạn sẽ hoàn toàn sẵn sàng giải quyết “một đối một”, kế đến là tiếp quản một nhóm
và cuối cùng là cả công ty". Chỉ khi nào xác định được sức mạnh quản trị của mình,
bạn mới có thể sử dụng nó một cách thành thục, tiếp tục cải thiện những mặt còn yếu
kém hay tìm kiếm những người bổ sung sức mạnh cho mình.
Cái quan trọng là nhà quản trị phải nhạy bén và có cái nhìn tổng quát. Nhạy bén
để có thể giúp doanh nghiệp thích ứng tốt trong moi trường cạnh tranh gay gắt như
hiện nay, có cái nhìn tổng quát để biết được hiện tại mình đang ở vị trí nào, vị thế của
doanh nghiệp ra sao từ đó đưa ra những chiến lược thích hợp.
Thách thức lớn nhất mà các nhà quản trị luôn phải đối mặt trong suốt nhiều năm

qua có thể miêu tả bằng 2 chữ "hiệu quả". Thời thế có thể thay đổi nhưng thách thức
này thì không hề thay đổi. Trong thế kỉ 20, tính hiệu quả mà các nhà quản trị cần
hướng tới lại được nâng thêm 1 tầng cao nữa bởi sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, sự
ra đời của các công nghệ mới, các lý thuyết kinh tế mới, các vấn đề, khó khăn mới.
Theo tôi, thách thức mà các nhà quản trị gặp phải trong thế kỷ này là sự cạnh tranh
trong tính hiệu quả của việc kết hợp các yếu tố trong hoạt động của tổ chức, đặc biệt
là ứng dụng của Công nghệ thông tin vào quản trị.
15
Một thách thức nữa đó là khả năng dự đoán về sự biến động của thị trường, khẳ
năng này sẽ quyết định sự thành bại của tổ chức vì điều đầu tiên làm nên thành công
của 1 tổ chức đó chính là xác định đúng mục tiêu và vấn đề Quản trị rủi ro cũng ko
thể ko nhắc tới.
4.3. Thực trạng công tác tổ chức bộ máy quản lý trong các doanh nghiệp ở
nước ta hiện nay
Từ đại hội Đảng VI, Đảng ta đã chủ trương đổi mới nền kinh tế, chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà
nước. Sau hơn 20 năm thực hiện có rất nhiều các doanh nghiệp làm ăn ngày càng
phát triển nhưng cũng có các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ dẫn đến tình trạng phá sản
hoặc giải thể. Sự thành công hay thất bại của các doanh nghiệp có phần đóng góp
không nhỏ về vấn đề tạo lập tổ chức bộ máy doanh nghiệp .Trước đây bộ máy quản
lý thường rất cồng kềnh trình độ quản lý kém .Ngày nay các doanh nghiệp nói chung
đã biết đổi mới hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của mình cho phù hợp với
xu hướng phát triển của thời đại. Tỷ lệ lao động gián tiếp so với lao động toàn doanh
nghiệp trước đây là 20% nhưng hiện nay kể cả doanh nghiệp nhà nước tỷ lệ này còn
khoảng 8-15% ngoài ra còn có doanh nghiệp tỷ lệ này là 6 %.
Từ khi đất nước mở cửa nền kinh tế, tiếp nhận sự đầu tư nước ngoài thì hình
thức quản lý và phương pháp quản lý cũng được du nhập vào để bắt kịp thời đại. Các
doanh nghiệp đã tìm tòi học hỏi áp dụng các cách quản lý đó. Các loại hình doanh
nghiệp xuất hiện kéo theo các hình thức tổ chức bộ máy quản lý với quy mô lớn nhỏ
khác nhau.

Thực tế cho thấy về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý hiện nay ở các doanh nghiệp
nước ta còn qúa cồng kềnh, tỉ lệ cán bộ quản lý còn khá cao so với công nhân trực
tiếp sản xuất. Bên cạnh đó về tuổi đời còn cao đa số trên 45 tuổi trở lên tuy có kinh
nghiệm thực tế nhiều nhưng sự tiếp thu khoa học kỹ thuật và sự đổi mới của nền kinh
tế thị trường còn hạn chế dẫn đến việc thay đổi cơ chế quản lý theo sự phát triển của
nền kinh tế thị trường còn chưa cao.Vì vậy cần có một lớp cán bộ trẻ có năng lực.
Bên cạnh sự thành công của các doanh nghiệp cũng có rất nhiều sự thất bại của
các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước vì vẫn còn mang tính chất bảo
16
thủ của nền kinh tế bao cấp nên đã dẫn đến thất bại.
4.4. Giải pháp:
Nhìn chung quản trị ở doanh nghiệp Việt Nam cần phải học hỏi để dần bắt kịp
thời đại. Bên cạnh hoàn thiện bộ máy quản lý,nâng cao trình độ quản trị, tiếp thu
khoa học kỹ thuật mới, quan trọng lúc này:
4.4.1. Xây dựng lợi thế cạnh tranh:
Mỗi một doanh nghiệp đều tiềm ẩn những đặc thù riêng,những ưu thế mà khi
biết tận dụng khai thác nó sẽ trở thành một điểm mạnh để doanh nghiệp đứng được
trên thị trường. Nếu các nhà quản trị đưa ra một lợi ích mà đối thủ không có thì nó
chính là lợi ích độc nhất và là một lợi thế cạnh tranh,khi đó doanh nghiệp sẽ không bị
đánh giá đồng đều khi các đối thủ canh tranh lần lượt xuất hiện
Định nghĩa của marketing du kích trong 30 ngày về lợi thế là một sự khác biệt
tích cực giúp khách hàng hiện tại và triển vọng lựa chọn rõ ràng khi có sự xuất hiện
của đối thủ cạnh tranh. Ngược lại, sự bắt chước, mô phỏng sẽ không tạo ra khác biệt
nào.Các nhà quản trị hiện đại cần có khả năng truyền thông hiệu quả lợi thế cạnh
tranh của doanh nghiệp tới thị trường mục tiêu bằng cả lời nói và các sản phẩm in
ấn.Tom Monoghan,nhà tỷ phú,nhà quản trị tài ba với hệ thống Domino’s pizza đã
đưa doanh thu lên 2.8 tỉ USD cuối 1996 chia sẻ rằng: “Chìa khóa thành công của
Domino’s Pizza không phải là những chiếc bánh thơm ngon hay giá rẻ, mà chính là
dịch vụ giao bánh nhanh nhất. Domino’s Pizza tập trung vào dịch vụ vận chuyển
pizza hơn là đơn thuần bán bánh. “Đối với tập đoàn bán lẻ Woolworths phương

châm bán hàng của họ là:”Chúng tôi tạo điều kiện cho những người nghèo được mua
sắm như những người giàu ”Chính điều này đã đem lại cho Woolworths sự tin tưởng
và yên tâm mua sắm của khách hàng. Đối với PNJ, phương châm "Nâng cao lợi thế
cạnh tranh bằng giá thành sản phẩm và chất lượng dịch vụ - đặc biệt là dịch vụ
khách hàng", PNJ luôn mong muốn đem đến cho khách hàng niềm tin tưởng và sự
hài lòng cao nhất. Do đó Công ty đã gặt hái được những thành công to lớn trong năm
2008, tạo một chỗ đứng vững chắc trong lĩnh vực kinh doanh Vàng bạc Đá quý tại
Việt Nam.
17
4.4.2. Duy trì các chuẩn mực đạo đức:
Đối mặt với nền kinh tế hiện đại,các nhà quản trị luôn phải chịu sức ép từ nhiều
phía để có thể đưa ra những chiến lược đúng đắn nhất.Có những áp lực tạo tính tích
cực tuy nhiên cũng có những sức ép khiến các nhà quản trị đi đến mục tiêu bằng con
đường sai lầm:cạnh tranh không công bằng, sản phẩm có sự gian lận, giảm chi phí
ảnh hưởng chất lượng… Đã đến lúc người lãnh đạo cần phát huy tư chất đạo đức
trong kinh doanh thay vì chỉ có năng lực tư duy và tình cảm đơn thuần trước kia.
Phẩm chất đạo đức đòi hỏi người lãnh đạo thực thụ luôn trăn trở những câu hỏi như:
Như thế nào thì được coi là quá nhiều? Lớn đến chừng nào thì nên dừng lại? Chúng
ta sẽ sẵn sàng đi xa đến đâu? Lợi nhuận hay sự tín nhiệm quan trọng hơn.
18
KẾT LUẬN
Toàn cầu hóa là một trong những quá trình xã hội hóa ngày càng trở nên sâu sắc,
qua đó các thị trường được mở rộng, các cơ hội mỗi quốc gia cũng được tăng lên, mặt
khác nó tạo ra một môi trường cạnh tranh rất gay gắt và nó trở thành nhân tố đe dọa
tới tình hình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Để đáp ứng được yêu cầu của quá
trình toàn cầu hóa thì các doanh nghiệp Việt Nam với tư cách là chủ thể của nền kinh
tế, là tế bào của xã hội, là những công cụ quan trọng để nhà nước thực hiện các chính
sách kinh tế của mình. Vì vậy, các doanh nghiệp phải có đường lối chính sách hợp lý
nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả của hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp
của mình. Và để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, các doanh

nghiệp phải thực sự chú ý tới hoạt động quản lý kinh doanh trong doanh nghiệp./.
19

×