Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

(Tiểu luận) đề số 2trình bày quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về phạm trù vật chất ý thức và ý nghĩa phương pháp luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.19 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA Khoa học cơ bản
------- *** -------

BÀI TẬP LỚN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Đề số 2: Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về phạm trù “vật chất”, “ý thức” và ý
nghĩa phương pháp luận?
Giảng viên hướng dẫn: Đồng Thị Tuyền .
Nhóm 5

Năm học 2021 - 2022

h


STT

HỌ VÀ TÊN

MÃ SINH
VIÊN

41

Vũ Quang Hiệp

21010637

42



Nguyễn Văn Hiếu

21012058

43

Nguyễn Hữu Hoan

21012873

44

Nguyễn Việt Hoàng

21010657

45

Trịnh Huy Hoàng

21010622

46

Phạm Văn Hoàn

21011062

47


Bùi Trần Việt Hoàng

21013113

48

Nguyễn Việt Hồng

49

50

ĐÁNH
GIÁ
Phần kết luận
Tốt
CƠNG VIỆC

Quan niệm
của chủ nghĩa
Mác-Lênin về
“vật chất”
Vận động,
phương thức
tồn tại của vật
chất+pp
Thuyết trình
+tổng hợp
word

PP

Tốt

Quan niệm
của chủ nghĩa
Mác-lênin về
“ý thức
Bản chất của
ý thức

Tốt

21012496

Kết cấu của ý
thức

Tốt

Lê Việt Hoà

21012059

Tốt

Bùi Gia Huy

21010595


Ý nghĩa
phương pháp
về phạm trù
vật chất- ý
thức
Phần mở đầu

h

Tốt

Tốt
Tốt

Tốt

Tốt


MỤC LỤC
_________________________________________________________________
PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………………..1
PHẦN NỘI DUNG……………………………………………………………..2
1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phạm trù vật chất.......................2
1.1.

Định nghĩa về vật chất………………………………………..........2

1.1.1. Khái niệm....................................................................................2
1.1.2. Sự vận động của vật chất............................................................2

1.2.

Vận động – thuộc tính , phương thức tồn tại của vật chất................3

1.2.1.Vận động......................................................................................3
1.2.2. Vận động và đứng im..................................................................3
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phạm trù “ý thức”......................4
2.1. Nguồn gốc của ý thức.......................................................................4
2.2. Bản chất của ý thức...........................................................................5
2.3. Kết cấu của ý thức.............................................................................7
2.3.1. Theo các yếu tố tổ hợp thành.......................................................7
2.3.2. Theo chiều sâu của nội tâm..........................................................8
3. Ý nghĩa phương pháp luận về phạm trù vật chất - ý thức............................9
PHẦN KẾT LUẬN.............................................................................................10
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................11

h


___________________________________________________________

h


MỞ ĐẦU
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay ý thức hay vật chất là yếu tố thông qua hoạt động
thực tiễn của con người quyết định đường lối chủ trương phát triển kinh tế luôn thu
hút sự quan tâm của nhiều đối tượng.

Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của
bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về mối quan hệ biện chứng
giữa ý thức và vật chất luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động
thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội.
Từ lý luận chủ nghĩa Mác Lênin Đảng ta đã rút ra bài học Mọi đường lối,
chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan.
Nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hố và hiện đại hố. Ngun
nhân sự phát triển kinh tế vững mạnh xuất phát từ mối quan hệ nào? Mối quan hệ
giữa biện chứng vật chất giữ ý thức và vật chất ảnh hưởng tới nền kinh tế như thế
nào?
Và sự thành công hay thất bại, phát triển hay lạc hậu của bất kì nền kinh tế
nào đều do có lập trường triết học đúng đắn. Là một sinh viên kinh tế để góp phần
nhỏ vào tồn diện cơng cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước thốt ra khỏi tình cảnh
kém phát triển, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Với nhận thức đó và muốn tìm hiểu thêm về thực trạng nên kinh tế việt Nam
hiện nay vì vậy em quyết định chọn đề tài: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất
và ý thức. Và sự vận dụng lý luận ấy trong xây dựng kinh tế Việt Nam hiện nay
làm bài tiểu luận của mình.

h


NỘI DUNG
1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phạm trù “vật chất”
1.1.Định nghĩa về vật chất.
1.1.1. Khái niệm
Vật chất là gì? Theo Lê nin định nghĩa về vật chất có nội dung như sau:
“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.

Vật chất được phản ánh với hình thức tồn tại cụ thể của nó. Dùng để chỉ thực
tại khách quan phản ánh qua cảm giác. Khi đó, vật chất mang đến hình thức chứa
đựng cụ thể và có dạng tồn tại hữu hình. Từ khái niệm này, có thể thấy được với
tính chất tồn tại được chứng minh. Từ đó, đánh giá được đưa ra dễ dàng với các
dạng tồn tại đó có được xác định là vật chất hay khơng.
Vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm
giác ở con người. Con người thông qua cảm giác để đánh giá về sự tồn tại của vật
chất. Cũng như khẳng định được, phân biệt được giữa vật chất và ý thức. Hai khái
niệm này tách rời nhau, và mang đến các dạng tồn tại khác hoàn toàn. Khi nó trực
tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người. Vật chất là cái được ý
thức phản ánh bằng cảm giác thỏa mãn với khái niệm trên.
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học theo nghiên cứu. Là kết quả của
sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của
các sự vật, hiện tượng. Khi đó, hướng đến các giải thích cho sự tồn tại bên cạnh ý
nghĩa trong xác định. Nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra,
không mất đi. Vật chất có dạng tồn tại cố định hoặc khơng, nhưng được đảm bảo
cho cảm giác phản ánh.
1.1.2. Sự vận động của vật chất.
Còn tất cả những sự vật, những hiện tượng là những dạng biểu hiện cụ thể
của vật chất nên nó có q trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa. Từ đó mà theo
thời gian, một vật chất có thể khơng giữ ngun dạng tồn tại hay hình thức ban
đầu. Tuy nhiên, vẫn đảm bảo được thể hiện với cảm giác. Vì vậy, khơng thể đồng
nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất. Cũng như
không thể xác định vật chất với đặc điểm thể hiện của nó ở thời điểm nhất định để
mang đến các quy chụp.

h


1.2. Vận động – thuộc tính , phương thức tồn tại của vật chất

1.2.1 Vận động
Ph. Ăngghen viết: “Vận động hiểu nghĩa chung nhất, tức được hiểu là phương
thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cổ hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả
mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi đơn giản
nhất cho tới tư duy”.(2)
Vận động là phạm trù của triết học dùng chỉ phương thức tồn tại của vật chất,
nêu ra sự thay đổi của mọi sự vật, mọi quá trình diễn ra trong không gian. Đối với
triết học, vật động là mọi sự biến đổi thông qua sự vật động mới bộc lộ bản chất
của mình. Đây cũng là điều mà các nhà duy vật trước Mác chưa nhìn thấy được.

Dựa trên những thành tựu của khoa học thì vận động được chia thành 5 hình
thức: vận động cơ học, vật lý, sinh học, hố học và xã hội. Các hình thức vận động
cao sẽ bao hàm các hình thức vận động thấp. Ví dụ trong vận động vật lý bao hàm
vận động cơ học.
1.2.2. Vận động và đứng im.
Theo quan điểm của Mác thì đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động
hay nói cách khác là trạng thái cân bằng. Đứng im chỉ xảy ra trong một lúc hoạt
động nào đó chứ khơng phải mọi hình thức vận động trong cùng một lúc mà biểu
hiện như một quá trình vận động của sự vật ổn định chưa thay đổi. Vì thế vận động
và đứng im có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó vận động là tuyệt đối xảy

h


ra vĩnh viễn còn đứng im là trạng thái tạm thời. Vận động khơng do ai tạo ra mà nó
chỉ chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác.
2.Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phạm trù “ý thức”.
2.1.Nguồn gốc của ý thức.
Nguồn gốc của ý thức dựa vào quan điểm từ chủ nghĩa duy vật biện chứng
gồm:

Nguồn gốc tự nhiên của ý thức.Nguồn gốc tự nhiên của ý thức được tạo bởi
các yếu tố tự nhiên từ ý thức chính là bộ óc và sự hoạt động cùng các mối quan hệ
thế giới khách quan và con người. Trong đó thì thế giới khách quan có sự tác động
tới bộ óc của con người tạo ra khả năng về sự hình thành ý thức từ con người đối
với thế giới khách quan. Tóm lại, ý thức là sự phản ánh về thế giới khách quan từ
con người.
Phản ánh là sự tái tạo về đặc điểm dạng vật chất này bởi dạng vật chất khác
khi tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là 1 thuộc tính từ tất cả các
dạng vật chất nhưng phản ánh dưới nhiều hình thức như phản ánh sinh học, phản
ánh tâm lý, phản ánh vật lý hóa học, phản ánh năng động sáng tạo. Trong đó, hình
thức này sẽ tương ứng q trình tiến hóa vật chất tự nhiên.
Phản ánh về hóa học vật lý là một hình thức thấp nhất và đặc trưng cho vật
chất vơ sinh. Phản ánh đó được thể hiện qua biến đổi về lý, hóa, cơ khi có sự tác
động lẫn nhau bởi các dạng vật chất vơ sinh. Hình thức được phản ánh chưa định
hướng lựa chọn mà chỉ mang tính thụ động của vật nhận tác động.
Phản ánh tâm lý: là sự phản ánh cho động vật đặc trưng đã được phát triển
đến trình độ mà có hệ thần kinh trung ương, phản ánh này thể hiện dưới cơ chế
phản xạ có điều kiện lên những tác động môi trường sống.
Phản ánh ý thức là hình thức để phản ánh năng động và sáng tạo bởi con
người.Phản ánh sinh học: là hình thức được phản ánh cao hơn và đặc trưng giới tự
nhiên hữu sinh. Qúa trình phát triển giới tự nhiên hữu sinh, được thể hiện qua tính
kích thích, phản xạ và tính cảm ứng.
Nguồn gốc xã hội của ý thức. Lao động và ngơn ngữ chính là nhân tố cơ bản
nhất, trực tiếp tạo thành nguồn gốc xã hội của ý thức.
Lao động là một q trình con người sử dụng về cơng cụ tác động với giới tự
nhiên để thay đổi giới tự nhiên phù hợp nhu cầu con người. Trong quá trình lao
động thì con người có sự tác động tới thế giới khách quan để bộc lộ những kết cấu,
thuộc tính, quy luật vận động, theo đó biểu hiện ra những hiện tượng nhất định để
con người quan sát được.


h


Những hiện tượng mà con người quan sát được đó, được thể hiện thông qua
hoạt động của các giác quan, có sự tác động vào bộ óc con người. Và thông qua
bằng bộ não con người sẽ tạo ra khả năng để hình thành những tri thức và ý thức.
Tóm lại, ý thức được ra đời chủ yếu bởi hoạt động cải tạo thế giới khách
quan quan quá trình lao động.
Ngơn ngữ chính là cái vỏ của vật chất từ ý thức, hình thức vật chất nhân tạo
có vai trị trong thể hiện, lưu trữ nội dung ý thức.
Sự ra đời ngôn ngữ được gắn liền với lao động, theo đó lao động đã mang tính
tập thể ngay từ đầu. Mối quan hệ các thành viên địi hỏi có sự giao tiếp, ý chí, trao
đổi tri thức,… giữa các thành viên của cộng đồng con người.
Khi đòi hỏi các nhu cầu trên thì ngơn ngữ được khởi nguồn và phát triển tồn
tại trong lao động sản xuất, sinh hoạt xã hội. Nhờ ngơn ngữ từ đó con người được
giao tiếp và trao đổi, đồng thời truyền đạt nội dung, lưu trữ nội dung ý thức của thế
hệ này sang thế hệ khác.
2.2. Bản chất của ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm, do không hiểu được nguồn gốc ra đời của ý thức nên đã
có những quan niệm sai lầm về bản chất của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm đã cường
điệu vai trò của ý thức một cách thái quá, trừu tượng tới mức thốt ly đời sống hiện
thực, biến nó thành một thực thể tồn tại độc lập, thực tại duy nhất và nguồn gốc
sinh ra thế giới vật chất.
Ngược lại, chủ nghĩa duy vật siêu hình đã tầm thường hố vai trị của ý thức.
Họ coi ý thức cũng chỉ là một dạng vật chất; hoặc coi ý thức chỉ là sự phản ánh
giản đơn, thụ động thế giới vật chất, tách rời thực tiễn xã hội rất phong phú, sinh
động. Những quan niệm sai lầm đó đã khơng cho phép con người hiểu được bản
chất của ý thức, cũng như biện chứng của quá trình phản ánh ý thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng, trên cơ sở nhận thức đúng đắn nguồn gốc ra
đời của ý thức và nắm vững thuyết phản ánh đã luận giải một cách khoa học bản

chất của ý thức. Vật chất và ý thức là hai hiện tượng chung nhất của thế giới hiện
thực, mặc dù khác nhau về bản chất, nhưng giữa chúng ln có mối liên hệ biện
chứng. Do vậy, muốn hiểu đúng bản chất của ý thức cần xem xét nó trong mối
quan hệ qua lại với vật chất, mà chủ yếu là đời sống hiện thực có tính thực tiễn của
con người.  
Như vậy ta có thể thấy, Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan, là q trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc
người.

h


Sau khi xem xét ý thức về mặt bản thể luận, thì ý thức chỉ là "hình ảnh" về
hiện thực khách quan trong óc người. Đây là đặc tính đầu tiên để nhận biết ý thức
Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, ý thức không phải là sự vật, mà
chỉ là "hình ảnh" của sự vật ở trong óc người. Ý thức tồn tại phi cảm tính, đối lập
với các đối tượng vật chất mà nó phản ánh ln tồn tại cảm tính. Thế giới khách
quan là ngun bản, là tính thứ nhất. Cịn ý thức chỉ là bản sao, là "hình ảnh" về
thế giới đó, là tính thứ hai.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Về nội dung mà ý thức
phản ánh là khách quan, cịn hình thức phản ánh là chủ quan. Ý thức là cái vật chất
ở bên ngoài "di chuyển" vào trong đầu óc của con người và được cải biến đi ở
trong đó
Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội.Ý
thức phản ánh ngày càng sâu sắc, từng bước xâm nhập các tầng bản chất, quy luật,
điều kiện đem lại hiệu quả hoạt động thực tiễn.
Sự phản ánh ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt: Một là, trao đổi thông
tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Đây là q trình mang tính hai chiều, có
định hướng và chọn lọc các thơng tin cần thiết. Hai là, mơ hình hố đối tượng
trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất đây là quá trình "sáng tạo lại"

hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hoá các đối tượng vật chất thành các ý tưởng
tinh thần phi vật chất. Ba là, chuyển hố mơ hình từ tư duy ra hiện thực khách
quan, tức quá trình hiện thực hố tư tưởng, thơng qua hoạt động thực tiễn biến cái
quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các
dạng vật chất ngồi hiện thực.
Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực
khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử. Ý thức không phải là cái không thể
nhận thức được như chủ nghĩa duy tâm quan niệm, nhưng nó cũng khơng phải cái
tầm thường như người duy vật tầm thường gán cho nó. Thực chất, ý thức chỉ là
thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất đặc biệt là bộ óc người; nói cách khác,
chỉ có con người mới có ý thức. Lồi người xuất hiện là kết quả của lịch sử vận
động, phát triển lâu dài của thế giới vật chất.
Cấu trúc hoàn thiện của bộ óc người là nền tảng vật chất để ý thức hoạt động;
cùng với hoạt động thực tiễn và đời sống xã hội phong phú tạo động lực mạnh mẽ
thúc đẩy ý thức hình thành và khơng ngừng phát triển. Khơng có bộ óc của con
người, khơng có hoạt động thực tiễn xã hội thì khơng thể có ý thức. Sáng tạo là
thuộc tính đặc trưng bản chất nhất của ý thức. Sức sáng tạo của ý thức trong tinh
thần và sức sáng tạo của con người trong thực tiễn khác nhau về bản chất nhưng

h


chỉ là những biểu hiện khác nhau của năng lực sáng tạo, khẳng định sức mạnh của
con người trong nhận thức và cải tạo thế giới.  
2.3.Kết cấu của ý thức.
Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Có nhiều ngành khoa học, nhiều cách tiếp
cận, nghiên cứu về kết cấu của ý thức
2.3.1. Theo các yếu tố tổ hợp thành.
Theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất là: tri thức, tình
cảm và ý chí, trong đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất. Ngồi ra ý thức cịn có

thể bao gồm các yếu tố khác như niềm tin, lí trí,…
Tri thức là tồn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận
thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại
ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi
biểu hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn
tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà
theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”.
Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri
thức về tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát
triển của nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức khoa
học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,…
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ.
Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ
sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại
cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người;
là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và
thực tiễn. Lênin cho rằng: khơng có tình cảm thì “xưa nay khơng có và khơng thể
có sự tìm tịi chân lý”; khơng có tình cảm thì khơng có một yếu tố thôi thúc những
người vô sản và nửa vô sản, những công nhân và nông dân nghèo đi theo cách
mạng.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối
tượng đó trong các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như
tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tơn giáo,…
Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở
trong quá trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng động
của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác
được mục đích của hoạt động nên tự đấu tranh với mình để thực hiện đến cùng

h



mục đích đã lựa chọn. có thể coi ý chí là quyền lực của con người đối với mình; nó
điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích một cách tự giác;
nó cho phép con người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành
động theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân chính của ý chí khơng chỉ
thể hiện ở cường độ của nó mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa
của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý chí là một trong những yếu tố
tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh giai
cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song
tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là
nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các
yếu tố khác
2.3.2. Theo chiều sâu của nội tâm.
Tiếp cận theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, ý thức bao gồm tự ý
thức, tiềm thức, vô thức.
Thứ nhất là tự ý thức:
Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời cũng tự
nhận thức bản thân mình. Đó chính là tự ý thức. Như vậy, tự ý thức cũng là ý thức,
là một thành tố quan trọng của ý thức, nhưng đây là ý thức về bản thân mình trong
mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Nhờ vậy con người tự nhận thức về
bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác có tư duy, có các hành vi
đạo đức và có vị trí trong xã hội. Những cảm giác của con người về bản thân mình
trên mọi phương diện giữ vai trị quan trọng trong việc hình thành tự ý thức. Con
người chỉ tự ý thức được bản thân mình trong quan hệ với những người khác, trong
quá trình hoạt động cải tạo thế giới. Chính trong quan hệ xã hội, trong hoạt động
thực tiễn xã hội và qua những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần do chính con
người tạo ra, con người phải tự ý thức về mình để nhận rõ bản thân mình, tự điều
chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.

Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của cả xã
hội, của một giai cấp hay của một tầng lớp xã hội về địa vị của mình trong hệ
thống những quan hệ sản xuất xác định, về lý tưởng và lợi ích chung của xã hội
mình, của giai cấp mình, hay của tầng lớp mình.
Tiếp đến là tiềm thức:
Là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngồi sự kiểm sốt của chủ
thể, song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự
kiểm soát của chủ thể ấy. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã

h


có được từ trước nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong
tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức có thể
chủ động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể khơng cần kiểm
sốt chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức có vai trị quan trọng cả trong hoạt động
tâm lý hàng ngày của con người, cả trong tư duy khoa học. Trong tư duy khoa học,
tiềm thức chủ yếu gắn với các loại hình tư duy chính xác, với các hoạt động tư duy
thường được lặp đi lặp lại nhiều lần. ở đây tiềm thức góp phần giảm sự quá tải của
đầu óc trong việc xử lý khối lượng lớn các tài liệu, dữ kiện, tin tức diễn ra một
cách lặp đi lặp lại mà vẫn đảm bảo được độ chính xác và chặt chẽ cần thiết của tư
duy khoa học.
Cuối cùng là vô thức:
Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành
vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự
truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính tốn của lý trí.
Vơ thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham
muốn, giấc mơ, bị thôi miên, mặc cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác… Mỗi hiện
tượng ấy có vùng hoạt động riêng, có vai trị, chức năng riêng, song tất cả đều có
một chức năng chung là giải tỏa những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt

ngưỡng nhất là những ham muốn bản năng không được phép bộc lộ ra và thực hiện
trong quy tắc của đời sống cộng đồng. Nó góp phần lập lại thế cân bằng trong hoạt
động tinh thần của con người mà không dẫn tới trạng thái ức chế q mức như ấm
ức, “libiđo”…
Như vậy, vơ thức có vai trò tác dụng nhất định trong đời sống và hoạt động
của con người. Nhờ vô thức mà con người tránh được tình trạng căng thẳng khơng
cần thiết khi làm việc “quá tải”. Nhờ vô thức mà chuẩn mực con người đặt ra được
thực hiện một cách tự nhiên… Vì vậy, khơng thể phủ nhận vai trị cái vơ thức trong
cuộc sống, nếu phủ nhận vô thức sẽ không thể hiểu đầy đủ và đúng đắn về con
người.
Tuy nhiên không nên cường điệu, tuyệt đối hóa và thần bí vơ thức. Không
nên coi vô thức là hiện tượng tâm lý cô lập, hoàn toàn tách khỏi hoàn cảnh xã hội
xung quanh khơng liên quan gì đến ý thức. Thực ra, vơ thức là vơ thức nằm trong
con người có ý thức. Giữ vai trò chủ đạo trong con người là ý thức chứ khơng phải
vơ thức. Nhờ có ý thức mới điều khiển được các hiện tượng vô thức hướng tới
chân, thiện, mỹ. Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con
người.
3.Ý nghĩa phương pháp luận về phạm trù vật chất - ý thức.

h


Theo quan điểm của triết học, mội hoạt động đều phải xuất phát từ quy luật
khách quan.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn con người phải tôn trọng khách
quan, đồng thời phải phát huy tính năng động chủ quan của mình. Tơn trọng khách
quan là tơn trọng tính khách quan của vật chất, tôn trọng các quy luật tự nhiên và
xã hội…
Phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho
mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của mình.

Khơng được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, khơng được lấy
tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.
Tiếp theo nó có thể phát huy tính năng động, tích cực của ý thức để xã hội
ngày càng phát triển thì phải phát huy tối đa vai trị tích cực của ý thức, vai trị tích
cực của nhân tố con người, nhận thức đúng quy luật khách quan.
Phải biết dựa trên quy luật khách quan để xác định mục tiêu, kế hoạch; biết
tìm ra và vận dụng các phương pháp tổ chức hoạt động hiệu quả để đạt được mục
tiêu để ra một cách tối ưu.
Phải khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí (chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan,
nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực); bệnh bảo thủ trì
trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại ngồi chờ…; đặc biệt là trong quá trình đổi mới
hiện nay.

h


KẾT LUẬN
Trên đây chúng ta đã phân tích những nội dung của quan điểm triết học
Mac-lênin về vật chất,ý thức ,ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm đó.Nó đã
giải quyết triệt để hai mật trong một vấn đề cơ bản của triết họ theo quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng,khác phục hạn chế sai lầm của CNDV trước Mác về
phạm trù vật chất: bác bỏ phủ nhận quan điểm của CNDT và tôn giáo về vấn đề
này, nó tạo cơ sở cho các nhà triết học duy vật biện chứng xây dựng quan điểm vật
chất trong lĩnh vực đời sống xã hội.Về ý thức bản chất của nó là sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong bộ óc của con người một cách năng động, sáng
tạo.Cùng với đó ta cũng rút ra ý nghĩa của phương pháp luận là nhận thức cảm
tính, cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Qua q trình tìm hiểu thì nhóm 5 đã đưa ra những lý lẽ để làm rõ quan
điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin về phạm trù “vật chất”, “ý thức” và ý nghĩa
phương pháp luận. Bài có thể cịn nhiều thiếu sót, hy vọng cơ và các bạn có thể sửa

chữa và bổ sung cho nhóm để hồn thiện hơn cho bài làm.

h


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />2. />%E1%BA%BFt_h%E1%BB%8Dc_Marx_-_Lenin)
3. />4. Giáo trình triết học Mác –Lênin, Hội đồng biên soạn giáo trình Triết học MácLênin, Hà Nội

h



×