LỜI NĨI ĐẦU
Tài chính – Tiền tệ là mơn học cung cấp những kiến thức nền tảng mở đầu về
lĩnh vực tài chính. Từ đó, người học có thể có cơ sở để đi sâu hơn vào các môn học
chuyên ngành Tài chính – Kế tốn – Ngân hàng.
Nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, trên cơ sở thiết kế mục
tiêu chương trình đào tạo vừa đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn và phù hợp với
yêu cầu đổi mới của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Trường Đại học Lao động –
Xã hội (CS2) tổ chức biên soạn tập giáo trình “Lý thuyết Tài chính – tiền tệ” dành cho
hệ Đại học.
Giáo trình Tài chính – Tiền tệ dành cho hệ Đại học sẽ cung cấp những phần lý
thuyết nền tảng về tài chính, tiền tệ, và những vấn đề có liên quan đến hoạt động tài
chính – tiền tệ trong nền kinh tế. Sau mỗi chương là phần tóm tắt nội dung và câu hỏi
ôn tập để người đọc khái quát hóa vấn đề một cách tốt hơn. Bên cạnh đó, giáo trình
cũng có kèm bộ câu hỏi trắc nghiệm để sinh viên có thể áp dụng nhanh chóng phần
kiến thức của từng chương.
Giáo trình này vừa sử dụng làm tài liệu chính trong giảng dạy và học tập của
giảng viên và sinh viên, vừa có thể làm tài liệu tham khảo trong lĩnh vực tài chính –
ngân hàng.
Mặc dù nhóm tác giả đã có rất nhiều cố gắng trong quá trình biên soạn, song
khó tránh khỏi những thiếu sót, chúng tơi mong nhận được những ý kiến đóng góp bổ
sung để giáo trình ngày càng được hồn chỉnh hơn.
Nhóm tác giả
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
1
h
CHƯƠNG 1: TÀI CHÍNH VÀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Tài chính và thị trường tài chính vẫn ln là hai phạm trù gắn liền với nhau. Việc
tìm hiểu những vấn đề cơ bản về tài chính và thị trường tài chính cũng là một trong
những nền tảng để nghiên cứu sâu hơn các hoạt động về tài chính – tiền tệ. Chương
này cung cấp cho người đọc những kiến thức như:
Lịch sử ra đời, khái niệm, chức năng của tài chính.
Hệ thống tài chính.
Khái niệm và chức năng của tài chính.
Cấu trúc thị trường tài chính.
Thị trường chứng khoán.
1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH
1.1.1 Lịch sử ra đời của tài chính
Tài chính là một phạm trù kinh tế - lịch sử. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của nó
gắn liền với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Từ toàn bộ lịch sử phát sinh, phát triển của tài chính chúng ta thấy: Tài chính chỉ
ra đời và tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định, khi mà ở đó có những hiện
tượng kinh tế - xã hội khách quan nhất định xuất hiện và tồn tại. Có thể xem những
hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan đó là những tiền đề khách quan quyết định sự
ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính.
Đề cập đến sự ra đời của tài chính, có thể đúc kết lại đó là cả một quá trình lâu
dài, dựa trên hai tiền đề nền tảng1.
• Tiền đề thứ nhất - sự ra đời và tồn tại của Nhà nước.
Trong các hình thái xã hội có Nhà nước, tài chính đã từng tồn tại với tư cách là
một công cụ trong tay Nhà nước để phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập quốc
dân, bảo đảm cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước.
Nhà nước đầu tiên trong xã hội loài người, là Nhà nước chủ nô, cùng với sự xuất
hiện và tồn tại của nó, những hình thức sớm của tài chính như thuế cũng bắt đầu
xuất hiện.
Khi một hình thái xã hội mới thay thế một hình thái xã hội cũ, thì một nền tài
chính mới ra đời phù hợp với hình thái Nhà nước mới. F.Ăngghen viết: “Để duy
trì quyền lực cơng cộng đó, cần phải có những sự đóng góp của những người
cơng dân của Nhà nước, đó là thuế má. Với những bước tiến của văn minh thì
bản thân thuế má cũng khơng đủ nữa; Nhà nước cịn phát hành hối phiếu vay nợ,
tức là phát hành công trái”.
Trong các chế độ xã hội phát triển, các Nhà nước với chức năng quản lý xã hội
trong mọi lĩnh vực kinh tế, văn hố, giáo dục, quốc phịng… đều tăng cường tài
chính của mình.
Có thể nói rằng trong điều kiện lịch sử nhất định, khi có sự xuất hiện, tồn tại và
hoạt động của Nhà nuớc (thuế), đã tác động đến quá trình chu chuyển và phân
1
Karl Marx đưa ra hai tiền đề cho sự ra đời của tài chính trong các tác phẩm nghiên cứu Kinh tế chính
trị học đó là sự ra đời và tồn tại của Nhà nước cùng sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
2
h
phối nguồn tài chính của xã hơi và từ đó dẫn đến sự xuất hiện, tồn tại và vận động
của tài chính.
• Tiền đề thứ hai - sự phát triển của kinh tế hàng hoá - tiền tệ.
Lịch sử phát triển của tài chính cho thấy rằng, khi những hình thức tài chính đầu
tiên xuất hiện theo sự xuất hiện của Nhà nước (thuế) thì đã có sự xuất hiện và tồn
tại của sản xuất hàng hoá - tiền tệ, và hình thức tiền tệ đã được sử dụng trong lĩnh
vực của các quan hệ tài chính như một tất yếu.
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, thuế bằng tiền đã được áp dụng (như thế quan,
thuế gián thu, thuế chợ, thuế tài sản…)
Trong chế độ phong kiến, theo với sự mở rộng các quan hệ thị trường, sản xuất
hàng hoá và tiền tệ, lĩnh vực của các quan hệ thuế bằng tiền được mở rộng và tiến
hành thường xuyên hơn (như: thuế đất, thuế gián thu với vật phẩm tiêu dùng,
thuế hộ gia đình…) tín dụng Nhà nước cũng bắt đầu phát triển.
Với sự phát triển vượt bậc của kinh tế hàng hoá - tiền tệ, thu nhập bằng tiền qua
thuế và công trái đã trở thành nguồn thu chủ yếu của Nhà nước. Theo với thu
nhập bằng tiền, chi tiêu bằng tiền đã làm phong phú các hình thức chi tiêu và linh
hoạt trong sử dụng vốn.
Chính trong thời kỳ phát triển kinh tế tư bản, ngân sách Nhà nước - một loại quỹ
tiền tệ tập trung đã hình thành và ngày càng có tính hệ thống chặt chẽ, ngày càng
đóng vai trị quan trọng phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị
Nền kinh tế tư bản ra đời và phát triển, thì hình thức của các quan hệ tài chính đã
là một yếu tố bản chất của tài chính.
Như vậy, sự tồn tại và phát triển của kinh tế - tiền tệ là một tiền đề khách quan
quyết định sự ra đời và phát triển của tài chính.
Khi nói đến tiền đề của tài chính, một số nhà lý luận kinh tế nhấn mạnh nhấn
mạnh đến tiền đề thứ nhất. Những nhà kinh tế học theo quan điểm này, đặc biệt
nhấn mạnh đến sự ra đời và tồn tại của tiền tệ và cho rằng đây là tiền đề có tính
chất quyết định sự ra đời và tồn tại của tài chính. Các nhà lý luận này dẫn chứng
bằng thời kỳ kinh tế xã hội chủ nghĩa, khi đó Nhà nước XHCN khơng thừa nhận
nền kinh tế hàng hoá, nhưng tồn tại tiền tệ nên vẫn tồn tại nền tài chính.
Những nhà lý luận kinh tế khác lại nhất trí đến tiền đề thứ hai - tức là nhấn mạnh
đến sự tồn tại của Nhà nước; nhưng một số nhà kinh tế khác không tán thành
quan điểm đó; các nhà kinh tế này đưa ra ví dụ về một Nhà nước Khơ-me khơng
thừa nhận nền kinh tế hàng hố tiền tệ, do đó khơng có nền tài chính.
Tóm lại, những phân tích trên cho thấy: sản xuất hàng hoá - tiền tệ và nhà nước
chính là những tiền đề khách quan quyết định sự ra đời và tồn tại của tài chính.
1.1.2 Khái niệm và chức năng của tài chính
1.1.2.1 Khái niệm
Các nhà lý luận kinh tế ở các thời kỳ khác nhau và chế độ xã hội khác nhau, nhận
thức về bản tài chính khơng có sự nhất qn hồn tồn. Cho đến nay, đã có nhiều quan
điểm đưa ra về phạm trù tài chính.
• Dựa vào quan điểm của P. J. Drake, theo nghĩa hẹp, tài chính đơn thuần phản
ánh hoạt động thu chi tiền tệ của chính phủ, cịn theo nghĩa rộng hơn tài chính
phản ánh các khoản vay và cho vay ảnh hưởng đến mức cung tiền.
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
3
h
• K.Marx khi nghiên cứu về nền kinh tế tư bản cũng đã nghiên cứu về tài chính
tín dụng xã hội chủ nghĩa2.
Xét biểu hiện bên ngồi, tài chính là các khoản chi trả chuyển từ doanh nghiệp
này thành các khoản thu của doanh nghiệp khác, các khoản nộp (chi) chuyển từ các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, dân cư thành các khoản thu của Ngân sách Nhà
nước, các khoản chi chuyển từ ngân sách Nhà nước thành các khoản thu của các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội, dân cư…
Từ các hiện tượng tài chính trên, có thể thấy hình thức biểu hiện bên ngồi của tài
chính là sự vận động của vốn tiền tệ. Ở đây, tiền tệ đại diện cho một lượng giá trị, một
thế năng về sức mua nhất định và được gọi là nguồn tài chính.
Nguồn tài chính là khả năng tài chính mà các chủ thể trong xã hội có thể khai
thác, sử dụng nhằm thực hiện các mục đích của mình. Sự vận động của các nguồn tài
chính phản ánh sự vận động của những bộ phận của cải xã hội dưới hình thức giá trị.
Kết quả của quá trình phân phối các nguồn tài chính là sự hình thành và sử dụng các
quỹ tiền tệ nhất định. Các quỹ tiền tệ là một lượng nhất định các nguồn tài chính được
dùng cho một mục đích nhất định.
Các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế có thể chia thành 5 nhóm chính:
+ Quỹ tiền tệ của các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Đây
là quỹ tiền tệ của khâu trực tiếp sản xuất kinh doanh.
+ Quỹ tiền tệ của các tổ chức tài chính kinh doanh.
+ Quỹ tiền tệ của nhà nước, trong đó quỹ ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ lớn
nhất và quan trọng nhất của nhà nước. Đây là quỹ tiền tệ mà nhà nước sử dụng
một cách tập trung để giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế xã hội.
+ Quỹ tiền tệ của khu vực dân cư.
+ Quỹ tiền tệ của các tổ chức chính trị, xã hội.
Như vậy, có thể hiểu:
Tài chính là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội. Tài
chính phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối các
nguồn tài chính thơng qua việc tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng
các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội.
Tài chính là một phạm trù được khái quát lên từ sự vận động của tiền tệ gắn liền
với hoạt động của con người.
Tài chính biểu thị vốn dưới các dạng tiền tệ, nghĩa là ở dạng các khoản có thể vay
mượn hay đóng góp vốn thơng qua thị trường tài chính hay các định chế tài chính. Nói
cách khác, tài chính phản ánh các hoạt động mà các cá nhân, công ty và tổ chức tạo lập
tiền tệ và sử dụng nguồn tiền tệ để đáp ứng những nhu cầu phát triển khác nhau.
Qua đó, tài chính có những đặc điểm sau:
• Tài chính khơng chỉ bao gồm các nguồn lực dưới dạng tiền mặt hay các
khoản tiền gởi mà còn dưới các dạng tài sản tài chính như cổ phiếu, trái
2
Lý thuết về tài chính, tín dụng, tiền tệ và ngân hàng của K.Marx tuy có hạn chế vì điều kiện lịch sử
(Marx nghiên cứu vấn đề này từ cuối TK 19), nhưng giá trị của nó hiện nay nhiều nhà kinh tế học
hiện đại vẫn phải thừa nhận.
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
4
h
phiếu, các công cụ nợ miễn là các loại tài sản này được chấp nhận trên thị
trường như là các cơng cụ trao đổi hay chuyển tải giá trị.
• Tài chính liên quan đến việc chuyển giao các nguồn tài chính giữa các chủ
thể với nhau, từ các chủ thể có nguồn vốn tiết kiệm đến các chủ thể cần
vốn. Xét ở mức độ vĩ mô, mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư biểu thị sự
chuyển giao nguồn lực giữa các chủ thể như cá nhân, doanh nghiệp, chính
phủ… trong tổng thể nền kinh tế.
1.1.2.2 Các chức năng của tài chính
1.1.2.2.1 Chức năng phân phối
Chức năng phân phối của tài chính là chức năng phân chia nguồn tài chính, nhờ
vào đó, các nguồn tài lực đại diện cho những bộ phận của cải xã hội được đưa vào các
quỹ tiền tệ khác nhau để sử dụng cho những mục đích khác nhau và những lợi ích khác
nhau của đời sống kinh tế - xã hội.
Đối tượng của phân phối là của cải xã hội dưới hình thức giá trị, là tổng thể các
nguồn tài chính có trong xã hội. Bao gồm bộ phận của cải xã hội mới được sáng tạo ra
trong kỳ. Đó là tổng sản phẩm trong nước (GDP); bộ phận của cải xã hội còn lại từ
thời kỳ trước. Đó là phần tích luỹ q khứ của xã hội; bộ phận của cải được chuyển từ
nước ngoài vào và bộ phận của cải từ trong nước chuyển ra nước ngoài; bộ phận tài
sản, tài nguyên quốc gia có thể cho thuê, nhượng bán có thời hạn.
Chủ thể của phân phối, đó là Nhà nước (các tổ chức, cơ quan Nhà Nước), các
doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các hộ gia đình hay cá nhân dân cư.
Kết quả của phân phối, hình thành (tạo lập) hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ ở các
chủ thể trong xã hội nhằm những mục đích đã định.
Đặc điểm phân phối:
+ Một là, phân phối của tài chính là sự phân phối chỉ diễn ra dưới hình thức giá
trị, khơng kèm theo sự thay đổi hình thái giá trị.
Thơng qua chức năng phân phối của tài chính, các quỹ tiền tệ nhất định được
hình thành và sử dụng, nhưng chính trong việc hình thành và sử dụng các quỹ, đặc
điểm của tài chính - phân phối dưới hình thức giá trị - vẫn không thay đổi.
+ Hai là, phân phối của tài chính là sự phân phối ln ln gắn liền với sự hình
thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định.
Phân phối của tài chính ln làm chuyển dịch giá trị, biểu hiện bằng sự vận động
của các nguồn tài chính từ quỹ tiền tệ này sang quỹ tiền tệ khác. Điều này liên quan
đến việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ khác nhau.
+ Ba là, phân phối của tài chính là q trình phân phối diễn ra một cách thường
xuyên, liên tục bao gồm cả phân phối lần đầu và phân phối lại, trong đó phân phối lại
có phạm vi rộng lớn và mang tính chất chủ yếu.
• Phân phối lần đầu: là sự phân phối được tiến hành trong lĩnh vực sản xuất
cho những chủ thể tham gia vào quá trình sáng tạo ra của cải vật chất hoặc
thực hiện các dịch vụ trong các đơn vị sản xuất và dịch vụ.
Qua phân phối lần đầu, giá trị sản phẩm xã hội mới chỉ được chia thành
những phần thu nhập cơ bản như:
. Phần bù đắp những chi phí vật chất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất hay
cung cấp dịch vụ.
. Phần hình thành quỹ tiền lương để trả cho người lao động.
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
5
h
. Phần đóng góp vào các quỹ bảo hiểm như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
thương mại.
. Phần thu nhập của các chủ sở hữu về vốn hay tài nguyên ban đầu để góp
phần hình thành nên giá trị sản phẩm.
• Phân phối lại: là tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản, những quỹ
tiền tệ được hình thành trong phân phối lần đầu ra phạm vi toàn xã hội hoặc
theo những mục đích cụ thể hơn của các quỹ tiền tệ.
Thơng qua phân phối lại hình thành thu nhập của các khu vực khơng sản
xuất, dưới hình thức các loại thuế, phí và lệ phí, các khoản đầu tư tiếp tục từ
thu nhập cơ bản của cá nhân và tổ chức đã được hình thành trong phân phối
lần đầu, …
1.1.2.2.2 Chức năng giám đốc
Chức năng giám đốc của tài chính là chức năng mà nhờ vào đó việc kiểm tra
bằng đồng tiền được thực hiện đối với q trình vận động của các nguồn tài chính để
tạo lập các quỹ tiền tệ hay sử dụng chúng theo các mục đích đã định.
Đối tượng của giám đốc tài chính là q trình vận động của các nguồn tài chính,
q trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Chủ thể của giám đốc tài chính cũng chính là các chủ thể phân phối. Bởi vì, để
cho các quá trình phân phối đạt tới tối đa tính mục đích, tính hợp lý, tính hiệu quả; bản
thân các chủ thể phân phối phải tiến hành kiểm tra xem xét các q trình phân phối đó.
Phát hiện ra những mặt được và chưa được của q trình phân phối, từ đó giúp
tìm ra các biện pháp hiệu chỉnh các quá trình vận động của các nguồn tài chính, q
trình phân phối của cải xã hội theo các mục tiêu đã định nhằm đạt hiệu quả cao của
việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Giám đốc tài chính là giám đốc bằng đồng tiền, nhưng nó khơng đồng nhất với
mọi loại giám đốc bằng đồng tiền khác trong xã hội. Giám đốc tài chính được thực
hiện đối với q trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Trong khi đó, giá cả là một
phạm trù giá trị có khả năng giám đốc bằng đồng tiền nhưng khác biệt với phạm trù tài
chính. Trong quan hệ trao đổi, mua bán; khả năng giám đốc của giá cả trước hết nhờ
vào chức năng thước đo giá trị của tiền tệ để đo lường giá trị của hàng hoá nhằm đảm
bảo nguyên tắc ngang giá. Giám đốc tài chính là loại giám đốc rất toàn diện, thường
xuyên, liên tục và rộng rãi.
Chức năng phân phối và chức năng giám đốc của tài chính có mối quan hệ chặt
chẽ, hữu cơ gắn bó với nhau, làm tiền đề và bổ sung cho nhau. Chức năng phân phối là
tiền đề cho chức năng giám đốc vì phân phối tạo ra nhu cầu và khả năng kiểm tra,
giám sát bằng đồng tiền đối với tồn bộ q trình phân phối. Ngược lại, chức năng
giám đốc được thực hiện đảm bảo cho việc thực hiện chức năng phân phối phù hợp với
các quy luật kinh tế khách quan, nâng cao tính hiệu quả của phân phối.
1.1.3 Hệ thống tài chính
1.1.3.1 Khái niệm hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính là tổng hợp những khâu tài chính trong các lĩnh vực hoạt động
khác nhau, nhưng giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình tạo lập,
phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính.
1.1.3.2 Cơ cấu hệ thống tài chính
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
6
h
Trong thực tế, các quan hệ tài chính diễn ra rất phức tạp và đa dạng, chúng đan
xen nhau trong một tập hợp hàng loạt các hoạt động khác nhau của nền kinh tế. Tuy
nhiên, đó khơng phải là những hoạt động hỗn loạn, mà ngược lại chúng tuân thủ những
nguyên tắc, những quy luật nhất định, trong đó những quan hệ tài chính có tính chất
đặc thù giống nhau nhóm lại thành một bộ phận riêng. Giữa các bộ phận này ln có
mối liên hệ, tác động ràng buộc lẫn nhau và tạo thành hệ thống tài chính.
Theo mối quan hệ, thì hệ thống tài chính thể hiện mối quan hệ hữu cơ giữa các
chủ thể cung, cầu về vốn thơng qua thị trường tài chính và các định chế tài chính trung
gian.
Sơ đồ 1.1 Cơ cấu thị trường tài chính
Tài chính nhà
nước
Tài chính doanh
nghiệp
Thị trường tài chính
Tài chính dân cư,
tổ chức xã hội
Tài chính quốc tế
Trong đó:
Bộ phận tài chính
Tài chính
nhà nước
Tài chính
doanh nghiệp
Tài chính
các doanh
nghiệp sản
xuất và
dịch vụ
Tài chính
các tổ chức
tài chính
Tài chính dân cư và
các tổ chức xã hội
Tài
chính
của dân
cư
Tài chính
các tổ chức
xã hội
Theo hoạt động của các chủ thể tài chính, cơ cấu hệ thống tài chính bao gồm thị
trường tài chính cùng với tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tài chính dân cư
(cá nhân, hộ gia đình) và các tổ chức xã hội.
Tài chính nhà nước
Tài chính nhà nước là khâu tài chính quan trọng, hoạt động gắn liền với việc tạo
lập và sử dụng các quỹ tiền tệ chung của nhà nước, đó là phục vụ cho việc thực hiện
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
7
h
các chức năng kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phịng của nhà nước. Tài chính nhà
nước tác động đến sự hoạt động và phtas triển của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Điều
này được thể hiện bằng quá trình phân phối và phân phối lại của ngân sách nhà nước –
khâu chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc gia. Đây là một “tụ điểm” của các nguồn
tài chính gắn với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước với
mục đích phục vụ cho sự hoạt động của bộ máy Nhà nước các cấp và thực hiện các
chức năng của Nhà nước trong quản lý kinh tế - xã hội.
Tài chính doanh nghiệp
Chính tại đây nguồn tài chính xuất hiện, đồng thời đây cũng là nơi thu hút trở lại
phần quan trọng các nguồn tài chính trong nền kinh tế. Trong hệ thống tài chính, tài
chính doanh nghiệp được coi như những tế bào có khả năng tái tạo ra các nguồn tài
chính. Do vậy, nó có tác động rất lớn đến đời sống xã hội, đến sự phát triển hay suy
thoái của nền sản xuất. Tài chính doanh nghiệp có quan hệ mật thiết đến tất cả các bộ
phận của hệ thống tài chính trong quá trình hình thành và sử dụng vốn có nội dung
khác nhau.
Trong nền kinh tế thị trường, đặc trưng cơ bản của bộ phận tài chính doanh
nghiệp thể hiện ở chỗ, nó bao gồm những quan hệ tài chính vận hành theo cơ chế kinh
doanh hướng tới lợi nhuận cao. Chính nhờ cơ chế này mà nguồn tài chính được tăng
cường và mở rộng không ngừng đáp ứng tốt nhất nhu cầu về vốn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Có thể chia tài chính doanh nghiệp thành tài chính các doanh nghiệp sản xuất –
dịch vụ và tài chính các tổ chức tài chính.
Tài chính dân cư và các tổ chức xã hội
• Tài chính dân cư
Hoạt động tài chính của các nước có nền kinh tế phát triển và hoạt động tài
chính ở nước ta những năm gần đây đã chỉ ra rằng nếu có những biện pháp
thích hợp, chúng ta có thể huy động được một khối lượng vốn đáng kể từ
các hộ gia đình để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, đồng thời cịn
góp phần to lớn vào việc thực hiện các chính sách về định hướng tích lũy và
tiêu dùng của Nhà nước.
Đặc trưng cho bộ phận này là sự tồn tại của các quỹ tiền tệ trong các hộ gia
đình và cá nhân. Nguồn hình thành quỹ tiền tệ trong khu vực dân cư là: thu
nhập từ lao động (tiền lương, tiền công, tiền thưởng, phụ cấp, tiền làm thêm
việc khác,…); thu nhập từ góp vốn đầu tư; thu nhập từ tài sản sản thừa kế và
quà tặng; thu nhập từ trúng thưởng; … Các quỹ tiền tệ này được sử dụng
chủ yếu cho tiêu dùng, phần còn lại được tiết kiệm hay tái phân phối dưới
hình thức đầu tư.
Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng, tính chất phân tán và đa dạng là đặc
điểm nổi bậc của tài chính hộ gia đình. Nguồn lực tài chính khơng quy tụ
vào những tụ điểm lớn mà phân bố rải rác, không đồng đều trong hàng triệu
tế bào nhỏ của nền kinh tế, đó là các hộ gia đình. Nhưng tổng quy mơ của
nguồn vốn tiềm tàng trong các hộ gia đình thì rất lớn và cần phải có các biện
pháp lưu tâm thích đáng.
Tài chính hộ gia đình có thể có quan hệ thường xuyên với tất cả các tụ điểm
vốn và các bộ phận trong hệ thống tài chính.
• Tài chính các tổ chức xã hội
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
8
h
Ở các nước khác trên thế giới hay Việt Nam đều có sự thành lập và hoạt
động của các tổ chức xã hội. Để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển, các tổ
chức xã hội cũng cần có các quỹ tiền tệ độc lập và hoạt động tài chính của
các quỹ tiền tệ đó.
Thu của các quỹ tiền tệ trong các tổ chức xã hội được hình thành bằng kinh
phí đóng góp của các hội viên, bằng tiền quyên góp, ủng hộ của các tầng lớp
dân cư trong và ngồi nước, của các tổ chức phi chính phủ,…
Quỹ tiền tệ của các tổ chức xã hội được sử dụng cho các mục đích chính
(thường mang tính phi lợi nhuận) khi thành lập hội và chi tiêu cơ bản để duy
trì hoạt động. Khi tạm thời nhàn rỗi, nguồn tài chính của các tổ chức xã hội
cũng được đưa vào thị trường tài chính để cung ứng cho các chủ thể cần
vốn.
Tài chính quốc tế
Trong nền kinh tế thị trường, khi các quan hệ kinh tế đã quốc tế hóa thì hệ thống
tài chính cũng là một hệ thống mở với những quan hệ tài chính đối ngoại hết sức
phong phú. Trên thực tế, những quan hệ này không tập trung vào một tụ điểm
nhất định mà chúng phân tán, đan xen vào các quan hệ tài chính khác. Tuy nhiên,
do tính chất đặc thù và vị trí đặc biệt quan trọng của các quan hệ tài chính quốc tế
cho nên người ta thừa nhận nó hình thành một bộ phận tài chính có tính chất độc
lập tương đối.
Những kênh vận động của tài chính quốc tế gồm:
• Quan hệ nhận viện trợ hoặc vay vốn nước ngoài cho quỹ NSNN hoặc cho các
doanh nghiệp, thậm chí cho cả dân cư.
• Quan hệ về tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài giữa các tổ chức kinh tế trong
nước và nước ngồi.
• Q trình thanh tốn xuất - nhập khẩu giữa các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế trong và ngồi nước.
• Việc thực hiện các hợp đồng tái bảo hiểm, chuyển phí bảo hiểm và thanh tốn
bảo hiểm đối với các pháp nhân nước ngoài hoặc ngược lại, thu nhận phí bảo
hiểm và nhận bồi thường từ các tổ chức nước ngồi.
• Q trình chuyển tiền và tài sản giữa các cá nhân ngoài nước cho thân nhân
trong nước và ngược lại.
Thị trường tài chính
Sự ra đời của thị trường tài chính đã giúp nguồn vốn trong nền kinh tế được khơi
thông dễ dàng hơn. Thông quan hoạt động của thị trường tài chính, những luồng vốn
từ những chủ thể thừa vốn đã được chuyển sang những chủ thể thiếu vốn thơng qua
hoạt động tài chính trực tiếp. Việc dẫn vốn trực tiếp được thực hiện bằng cách những
chủ thể cần vốn bán ra thị trường các công cụ nợ, các cổ phiếu hoặc thực hiện các món
vay thế chấp. Những chủ thể có vốn sẽ sử dụng tiền vốn của mình để mua vào các
cơng cụ nợ hoặc các cổ phiếu đó, như vậy vốn đã được chuyển từ chủ thể có vốn sang
chủ thể cần vốn một cách trực tiếp.
Từ đây, mọi nguồn vốn cần thiết cho đầu tư phát triển kinh tế được khơi thơng,
làm nâng cao hiệu quả chung của tồn bộ nền kinh tế và cải thiện mức sống của người
tiêu dùng ngay cả khi khả năng thực tế về tài chính của họ chưa cho phép.
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
9
h
1.2 THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
1.2.1 Khái niệm thị trường tài chính
Thị trường tài chính là thị trường trong đó các loại vốn ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn được chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu để đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế
xã hội, là nơi gặp gỡ giữa những bên có nguồn vốn dư thừa với những bên có nhu cầu
sử dụng vốn.
Để hiểu rõ hơn về thì trường tài chính thì khơng thể khơng đề cập đến ba yếu tố
cơ bản của thị trường tài chính đó là đối tượng, cơng cụ và chủ thể của thị trường tài
chính.
Đối tượng của thị trường tài chính:
Là những nguồn cung cầu về vốn trong xã hội của các chủ thể kinh tế như
Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các định chế tài chính trung gian
và công chúng. Thực chất của việc mua bán trên thị trường tài chính là mua
bán quyền sử dụng vốn.
Cơng cụ của thị trường tài chính
Là các loại giấy tờ có giá, được xem là nguồn sống cho hoạt động của thị
trường. Đây là loại giấy xác nhận quyền sở hữu một phần vốn hay tài sản và
được hưởng một lợi ích nhất định của người chủ sở hữu giấy tờ có giá đối với
một phần tài sản hay vốn của tổ chức phát hành. Tổ chức phát hành có nghĩa
vụ thực hiện các điều khoản đã cam kết ngày từ lúc bắt đầu phát hành giấy tờ
có giá đó.
Với các loại giấy tờ có giá như: cơng trái nhà nước, chứng khoán do doanh
nghiệp phát hành, trái phiếu công ty, trái phiếu của các định chế tài chính
trung gian và các dạng kỳ phiếu, séc ...
Chủ thể của thị trường tài chính
Là những pháp nhân và thể nhân đại diện cho những nguồn cung về vốn và
cầu về vốn tham gia trên thị trường tài chính cụ thể là chính phủ, các doanh
nghiệp, dân cư, các định chế tài chính trung gian,… Trong đó, các định chế tài
chính đóng vai trị trung gian chi phối khá lớn đến dòng chảy vốn của thị
trường.
Như vậy, thị trường tài chính là nơi gặp gỡ của các nguồn cung và nguồn cầu về
vốn, nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại giấy tờ có giá, qua đó hình thành nên
giá mua và bán các loại cơng cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, tín
phiếu,… hình thành nên giá cả các loại vốn đầu tư bao gồm lãi suất, lãi suất cho vay,
lãi suất ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
1.2.2 Phân loại thị trường tài chính
Thị trường tài chính rất phong phú, đa dạng, tùy theo tiêu chí mà có thể chia thành
nhiều loại khác nhau.
1.2.2.1 Căn cứ vào kỳ hạn của các chứng từ mua bán trên thị trường.
Có thế phân chia thị trường tài chính thành thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
1.2.2.1.1 Thị trường tiền tệ (Money Market)
Khái niệm
Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các chứng từ nợ ngắn hạn có thể chuyển
nhượng được trong vịng một năm. Cũng có thể hiểu thị trường tiền tệ là thị
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
10
h
trường mà ở đó người ta chuyển nhượng các khoản vốn ngắn hạn giữa các chủ
thể nhằm thỏa mãn nhu cầu thanh khoản và đầu tư ngắn hạn.
Hoạt động của thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động của ngân
hàng và các tổ chức tín dụng, vì các ngân hàng thương mại là chủ thể quan trọng
nhất trong việc thu hút và cung cấp các nguồn vốn ngắn hạn.
Đặc điểm của thị trường tiền tệ
• Luân chuyển vốn ngắn hạn không quá 1 năm. Công cụ của thị trường tiền
tệ là các khoản vay hay các chứng khốn đáo hạn trong vịng 1 năm.
• Hình thức tài chính đặc trưng là hình thức tài chính gián tiếp, với các ngân
hàng thương mại đóng vai trị trung gian tài chính giữa người đi vay và
người cho vay.
• Các cơng cụ của thị trường tiền tệ có tính thanh khoản cao, cung cấp lợi
tức tiết kiệm cho các nhà đầu tư.
Thị trường tiền tệ được phân thành
• Thị trường cho vay ngắn hạn của các định chế tài chính trung gian: Các tổ
chức này sẽ huy động các nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, cá
nhân bằng hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm và đem cho các tổ chức
kinh tế, cá nhân khác vay lại nếu cần.
• Thị trường hối đối (thị trường ngoại hối): là nơi diễn ra các hoạt động
mua bán và vay mượn ngoại tệ giữa các chủ thể có liên quan. Thành viên
tham gia thị trường hối đoái chủ yếu là ngân hàng thương mại, doanh
nghiệp, các nhà môi giới ngoại hối, các nhà cung cấp dịch vụ tư vấn, các
nhà kinh doanh, ngân hàng trung ương.
• Thị trường liên ngân hàng: đây là thị trường hoạt động phục vụ cho các
khách hàng là các ngân hàng thương mại. Đây là thị trường vốn ngắn hạn
giữa các ngân hàng với nhau do ngân hàng trung ương tổ chức để giải
quyết nhu cầu vốn giữa các ngân hàng thương mại về bù đắp thiếu hụt
trong thanh toán bù trừ, đáp ứng nhu cầu thanh tốn của khách hàng…
• Thị trường mở: là nơi diễn ra các hoạt động mua bán giấy tờ có giá ngắn
hạn. Thị trường này được sự tham gia của rất nhiều chủ thể trong nền kinh
tế, trong đó chủ thể đóng vai trị chi phối đối với thị trường này là nhà
nước.
1.2.2.1.2 Thị trường vốn (Capital market)
Khái niệm
Thị trường vốn là thị trường dành cho các khoản vốn dài hạn. Thị trường này
cung cấp vốn cho các khoản đầu tư dài hạn của chính phủ, các doanh nghiệp
và các hộ gia đình.
Do thời gian luân chuyển vốn trên thị trường này dài hạn hơn so với thị
trường tiền tệ nên các công cụ trên thị trường vốn có độ rủi ro cao hơn và tất
nhiên mức lợi tức của nó cũng sẽ cao hơn.
Có thể chia thị trường vốn thành thị trường vay nợ dài hạn và thị trường
chứng khốn.
• Thị trường vay nợ dài hạn, bao gồm:
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
11
h
-
Thị trường thế chấp: là thị trường cung cấp tín dụng trung và dài hạn
cho các chủ thể trong nền kinh tế, thường địi hỏi phải có tài sản thế
chấp. Hoạt động trên thị trường này là các ngân hàng thương mại và
các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Thị trường chuyên cho vay các
món nợ dài hạn dùng để tài trợ mua bán địa ốc, nhà xưởng
- Thị trường cho thuê tài chính: cho thuê tài chính là hình thức tín dụng
trung và dài hạn được thực hiện thơng qua việc cho th tài sản như
máy móc, thiết bị, động sản và bất động sản khác trên cơ sở hợp đồng
cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê.
Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển
và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sỡ
hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và
thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê và được hai bên thỏa
thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền mua lại tài sản
thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng
cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp
đồng cho thuê tài chính ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản
đó tại thời điểm ký hợp đồng.
Trong điều kiện mở rộng quy mô sản xuất của các doanh nghiệp để đáp
ứng nhu cầu thị trường, tăng khả năng cạnh tranh mà vẫn có thể giữ
nguồn vốn lớn để hoạt động thì cho th tài chính là một lựa chọn khả
thi mà doanh nghiệp nên hướng tới.
• Thị trường chứng khoán
Là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán trung
và dài hạn. Cụ thể là cổ phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá trung, dài
hạn khác.
Thị trường chứng khốn giữ vai trị nịng cốt trong thị trường tài chính của
một quốc gia.
Thông qua hoạt động của thị trường chứng khốn đã giúp gia tăng tính
thanh khoản cho các loại chứng khốn; đẩy mạnh hoạt động đầu tư tài
chính của các chủ thể trong nền kinh tế; và là công cụ trợ giúp chính phủ
thực hiện mục tiêu chính sách quốc gia.
Các chủ thể tham gia trị trường chứng khoán gồm: chủ thể phát hành
chứng khoán; nhà đầu tư (tổ chức, cá nhân); cơng ty chứng khốn; ủy ban
chứng khốn nha nước; sở giao dịch, trung tâm giao dịch chứng khoán;
trung tâm lưu ký chứng khoán.
Hoạt động của thị trường chứng khoán được xem là hàn thử biểu của nền
kinh tế. Vì từ đó có thể phần nào đánh giá hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có phương án kinh doanh hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, cũng cho thấy động thái phát triển của nền kinh tế, để chính
phủ có thể điều chính kịp thời chính sách kinh tế vĩ mô.
Thị trường tiền tệ và thị trường vốn là hai bộ phận cấu thành nên thị trường tài
chính cùng thực hiện một chức năng là cung cấp vốn cho nền kinh tế. Do đó các
nghiệp vụ hoạt động ở trên hai thị trường có mối liên quan bổ sung và tác động hỗ
tương.
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
12
h
Lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và mua bán
chứng khoán trên thị trường vốn. Mặt khác, các biến đổi về giá cả và lãi suất trên thị
trường tiền tệ thường kéo theo các biến đổi trực tiếp trên thị trường vốn như quan hệ
cung cầu và giá của cổ phiếu và trái phiếu.
Ngược lại, các thay đổi về chỉ số giá cổ phiếu của thị trường vốn cũng phản ảnh
các hiện tượng tốt hay xấu, đã đang hoặc sẽ xảy ra trên thị trường tiền tệ. Đối với thị
trường vốn, việc duy trì một lãi suất ổn định là cần thiết cho sự ổn định của thị trường.
1.2.2.2 Căn cứ vào mục đích hoạt động của thị trường.
Thị trường tài chính được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
1.2.2.2.1 Thị trường sơ cấp (Primary Market)
Khái niệm
Là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này,
vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu
tư mua các chứng khốn mới phát hành.
Vai trị của thị trường sơ cấp
• Chứng khốn hóa nguồn vốn cần huy động, vốn của công ty được huy
động qua việc phát hành chứng khốn.
• Thực hiện q trình chu chuyển tài chính trực tiếp bằng cách đưa các
khoản tiền nhàn rỗi tạm thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền sang
dạng vốn dài hạn.
Đặc điểm của thị trường sơ cấp
• Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các chứng khoán đem lại vốn cho
người phát hành. Là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành và đồng thời
tạo ra hàng hóa cho thị trường giao dịch.
• Những chủ thể bán chứng khốn trên thị trường sơ cấp được xác định
thường là chủ thể phát hành, chủ thể được ủy quyền đại diện phát hành
hoặc chủ thể bảo lãnh phát hành như Kho bạc, ngân hàng nhà nước, cơng
ty phát hành, tập đồn bảo lãnh phát hành…
• Giá chứng khốn trên thị trường sơ cấp do tổ chức phát hành quyết định.
1.2.2.2.2 Thị trường thứ cấp (Secondary Market)
Khái niệm
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên
thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các
chứng khốn đã phát hành.
Vai trị của thị trường thứ cấp
• Cung cấp thị trường, tạo ra những điều kiện dễ dàng để bán những công cụ
tài chính trên thị trường sơ cấp nhằm thu tiền mặt, tức là tạo cho các cơng
cụ tài chính tăng cao tính thanh khoản.
• Thị trường thứ cấp xác định giá của mỗi chứng khốn mà cơng ty phát
hành bán ở thị trường sơ cấp.
Đặc điểm thị trường thứ cấp
• Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán chứng khoán
thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khốn chứ khơng
thuộc về nhà phát hành. Nói cách khác các luồng vốn khơng chảy vào
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
13
h
những người phát hành chứng khoán mà chuyển vận giữa những người
đầu tư chứng khốn trên thị trường.
• Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do,
giá chứng khoán trên thị trường thứ cấp do cung và cầu quyết định.
• Thị trường thứ cấp là thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể
mua và bán các chứng khốn nhiều lần trên thị trường thứ cấp.
Tóm lại, giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau trong đó thị trường sơ cấp là thị trường cơ sở, là tiền đề cho sự hình thành và
phát triển của thị trường thứ cấp, thị trường thứ cấp là động lực, là điều kiện cho sự
phát triển của thị trường sơ cấp.
Nếu khơng có thị trường sơ cấp thì sẽ khơng có chứng khốn cho thị trường thứ
cấp hoạt động; và ngược lại, nếu khơng có thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp khó
có thể hoạt động một cách trơi chảy được. Vì khi đó các loại chứng khốn rất khó khăn
khi phát hành, khơng ai dám đầu tư vào chứng khốn vì chứng khốn khơng thể
chuyển đổi thành tiền tệ khi cần, vốn của họ bị ứ đọng.
1.2.2.3 Căn cứ vào phương thức tổ chức và giao dịch của thị trường.
Có thể phân chia thị trường tài chính thành thị trường tập trung và thị trường phi
tập trung.
1.2.2.3.1 Thị trường tập trung
Khái niệm
Thị trường tập trung là thị trường mà việc giao dịch mua bán chứng khốn
được thực hiện có tổ chức và tập trung tại một điểm nhất định. Ở Việt Nam
hiện nay là sở giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh.
Đặc điểm
• Hoạt động mua bán chứng khốn tại sở giao dịch bắt buộc phải thơng qua
các trung gian môi giới gọi là các nhà môi giới chứng khốn.
• Sở giao dịch cung cấp cho những người mua và bán chứng khoán các
phương tiện và dịch vụ cần thiết để tiến hành giao dịch như: dịch vụ thanh
tốn, lưu ký chứng khốn, hệ thống máy tính nối mạng…
• Chỉ có những loại chứng khốn đã được đăng ký niêm yết giá mới được
mua bán trên thị trường.
1.2.2.3.2 Thị trường phi tập trung (OTC)
Khái niệm
Là thị trường mà các hoạt động mua bán chứng khoán được thực hiện phân
tán ở những địa điểm khác nhau chứ không tập trung tại một nơi nhất định.
Trên thế giới thị trường phi tập trung được tổ chức dưới hình thức một thị
trường giao dịch qua quầy.
Đặc điểm
• Thị trường phi tập trung khơng có địa điểm giao dịch chính thức, thay vào
đó là các nhà mơi giới kết nối các giao dịch qua mạng máy tính diện rộng
giữa các cơng ty chứng khốn và trung tâm quản lý hệ thống.
• Cơ chế xác lập giá trên thị trường này là thương lượng giữa bên mua và
bên bán chứ không phải khớp lệnh như sở giao dịch.
Mục tiêu của thị trường phi tập trung.
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
14
h
• Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tiếp cận thị trường thuận tiện, nhanh
chóng qua hệ thống giao dịch máy tính điện tử.
• Tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện giao dịch với thông tin thị trường
tối đa.
• Tạo điều kiện cho nhà đầu tư có thể mua bán chứng khốn bất kỳ lúc nào,
ở đâu.
• Tạo điều kiện cho các nhà quản lý thị trường có thể giám sát tốt thị trường
và các nhà mơi giới, giao dịch chứng khốn có thể hoạt động thuận tiện.
1.2.3 Các cơng cụ tài chính
Để thực hiện việc chuyển giao vốn trên thị trường tài chính, cần thiết phải có sự
xuất hiện của các cơng cụ tài chính. Thị trường tài chính càng phát triển thì các cơng
cụ tài chính càng trở nên đa dạng và linh hoạt hơn. Có rất nhiều cơng cụ tài chính ra
đời và tồn tại đã tạo đà thúc đẩy thị trường tài chính các nước phát triển. Trong phạm
vi tài liệu này, căn cứ vào thời hạn chuyển giao vốn, có thể phân chia các cơng cụ tài
chính thành các cơng cụ trên thị trường tiền tệ và các công cụ trên thị trường vốn.
1.2.3.1 Các công cụ trên thị trường tiền tệ.
Với tính chất nguồn vốn luân chuyển thời hạn ngắn, trên thị trường tiền tệ lưu
hành các cơng cụ tài chính chủ yếu như tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, thương
phiếu, chấp phiếu ngân hàng, hợp đồng mua…
1.2.3.1.1 Tín phiếu kho bạc
Tín phiếu kho bạc là cơng cụ vay nợ ngắn hạn của chính phủ, do kho bạc nhà
nước phát hành để bù đắp cho những thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước.
Tín phiếu kho bạc thuộc loại chứng khốn chiết khấu, có độ rủi ro thấp nhất trên
thị trường tiền tệ, và mức lãi suất của nó cũng thường thấp hơn các cơng cụ khác lưu
thơng trên thị trường tiền tệ.
Tín phiếu kho bạc thường được phát hành theo từng lô bằng phương pháp đấu
thầu, khối lượng và lãi suất tín phiếu kho bạc được hình thành qua kết quả đấu thầu.
1.2.3.1.2 Các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được
Chứng chỉ tiền gửi là công cụ nợ do các ngân hàng phát hành, cam kết trả lãi định
kỳ cho khoản tiền gửi và sẽ hoàn trả vốn gốc cho người gởi tiền khi đến ngày đáo hạn.
Giai đoạn đầu khi mới ra đời, các chứng chỉ tiền gửi không được phép bán lại
hoặc không được hồn trả trước kỳ hạn, nếu khơng sẽ phải chịu một khoản phạt.
Nhưng về sau để tăng tính hấp dẫn của các chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn được
phép bán lại trước hạn với một mức giá khấu trừ, khi đó được gọi là chứng chỉ tiền gửi
có thể chuyển nhượng được.
1.2.3.1.3 Thương phiếu
Thương phiếu là những giấy nợ do các cơng ty có uy tín phát hành.
Trước đây, để vay vốn đáp ứng nhu cầu tức thời trong ngắn hạn, các cơng ty ln
tìm đến ngân hàng thương mại. Sau này, ngồi hình thức vay vốn ngắn hạn từ ngân
hàng, các cơng ty cũng có thể vay thông qua bán thương phiếu cho các trung gian tài
chính và các cơng ty khác.
Thương phiếu được chuyển nhượng theo hình thức chiết khấu, có mức độ rủi ro
cao hơn trái phiếu kho bạc nên lãi suất chiết khấu cao hơn.
Việc chuyển nhượng thương phiếu được thực hiện bằng hình thức ký hậu.
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
15
h
1.2.3.1.4 Chấp phiếu ngân hàng
Chấp phiếu ngân hàng, còn gọi là hối phiếu được ngân hàng chấp nhận, là các hối
phiếu kỳ hạn do các công ty ký phát được ngân hàng đảm bảo thanh tốn bằng cách
đóng dấu “đã chấp nhận” lên tờ hối phiếu. Nghĩa là nếu công ty khơng có khả năng
thanh tốn thì ngân hàng buộc phải thanh toán theo số tiền đã ghi trên hối phiếu.
Vì vậy, đây là cơng cụ nợ có độ an toàn khá cao, nhất là khi ngân hàng chấp nhận
là các ngân hàng lớn, có uy tín. Những người sỡ hữu chấp phiếu có thể đem bán chúng
trên thị trường tiền tệ với giá chiết khấu để thu tiền mặt ngay khi cần vốn gấp.
1.2.3.1.5 Hợp đồng mua lại
Hợp đồng mua lại là một hợp đồng trong đó ngân hàng bán một số lượng tín
phiếu kho bạc mà nó đang nắm giữ, kèm theo điều khoản mua lại các tín phiếu đó sau
vài ngày hay vài tuần với mức giá cao hơn.
Có thể xem đây là món vay ngắn hạn, với tài sản đảm bảo là các tín phiếu kho
bạc mà chủ thể cho vay nhận được nếu chủ thể đi vay khơng thanh tốn được nợ.
Hợp đồng mua lại là hình thức cung cấp vốn tức thời hữu hiệu cho các ngân hàng
thương mại và chủ thể cho vay ở thị trường này thường là các công ty lớn hay các định
chế tài chính khác.
1.2.3.2 Các cơng cụ trên thị trường vốn.
Trong giới hạn tài liệu này, xin đề cập đến hai công cụ lưu hành phổ biến nhất
trên thị trường vốn là trái phiếu và cổ phiếu.
1.2.3.2.1 Trái phiếu
Trái phiếu là một chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền là lợi ích hợp
pháp của người sở hữu trái phiếu đối với tổ chức phát hành. Hay trái phiếu là giấy
chứng nhận nợ của của tổ chức phát hành đối với người cho vay.
Bản chất của trái phiếu là một công cụ nợ những đặc điểm như mệnh giá trái
phiểu, thời gian của trái phiếu, lãi trả cho trái phiếu, người sở hữu trái phiếu.
Mệnh giá của trái phiếu là giá trị danh nghĩa của trái phiếu được in ngay trên
tờ trái phiếu, đại diện cho số vốn gốc được hoàn trả cho trái chủ tại thời điểm
đáo hạn. Luật các nước có thể quy định mệnh giá tối thiểu của trái phiếu.
Ví dụ: Nghị định 144/CP qui định mệnh giá tối thiểu của trái phiếu phát hành
ra công chúng tại Việt Nam là 100.000 đ và bội số của 100.000 đ.
Thời gian của trái phiếu là thời hạn vay vốn của tổ chức phát hành, được ghi
rõ trên tờ hối phiếu. Thời hạn của trái phiếu thường từ 2 năm trở lên, từ 2 đến
5 năm là trung hạn, trên 5 năm là dài hạn.
Lãi trả cho trái phiếu: Tùy loại trái phiếu mà mới xác định có trả lãi cho người
sở hữu trái phiếu trong thời hạn lưu hành hay không. Theo cách thức trả lãi
tồn tại hai loại trái phiếu là trái phiếu trả lãi định kỳ và trái phiếu không trả lãi
định kỳ. Đối với, trái phiếu được hưởng lãi định kỳ, tỷ suất lãi trái phiếu
không cao nhưng ổn định, không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh,
ít rủi ro. Lãi suất thường được cơng bố theo tỷ lệ phần trăm so với mệnh giá
của trái phiếu, lãi trái phiếu có thể được quy định trả hàng năm hay thanh toán
nửa năm một lần. Trái phiếu khơng được hưởng lãi định kỳ thì trong suốt q
trình nắm giữ người mua trái phiếu vì được mua với giá đã chiết khấu nên
không được hưởng lãi định kỳ.
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
16
h
Người sở hữu trái phiếu: tên của người chủ sỡ hữu trái phiếu có thể được ghi
trên tờ trái phiếu hay không cũng tùy loại trái phiếu. Chẳng hạn, trái phiếu
ký danh thì có ghi tên người sở hữu ở mặt sau, cịn trái phiếu vơ danh thì
người sở hữu khơng có tên trên trái phiếu.
Có nhiều loại trái phiếu tồn tại trên thị trường. Căn cứ vào chủ thể phát hành có
thể chia thành trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp.
• Trái phiếu chính phủ, thường dưới dạng trái phiếu kho bạc hoặc trái triếu
chính quyền địa phương.
- Trái phiếu kho bạc là các trái phiếu do kho bạc nhà nước phát hành để bù
đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước hàng năm.
- Trái phiếu chính quyền địa phương thì do chính quyền địa phương được
sự cho phép của chính phủ phát hành để phục vụ mục tiêu phát triển của
từng địa phương.
- Ngoài ra ở nhiều nước cịn có trái phiếu do các cơ quan trực thuộc chính
phủ phát hành
Các trái phiếu chính phủ là loại trái phiếu mua bán mạnh nhất trên thị
trường vốn các nước nên được xem là công cụ nợ lỏng nhất trên thị
trường vốn.
• Trái phiếu doanh nghiệp hay trái phiếu công ty, là loại trái phiếu do các
công ty hoặc doanh nghiệp đang hoạt động phát hành nhằm mục đích bổ
sung vốn kinh doanh (như phát hành trái phiếu cơng ty nhằm mục đích đầu
tư dài hạn, mở rơng quy mô phát triển sản xuất kinh doanh,…).
Những người nắm giữ trái phiếu nếu có nhận lãi thì khơng phụ thuộc vào
tình hình lợi nhuận của cơng ty nên khơng được tham dự, can thiệp vào hoạt
động công ty, nhưng lại được ưu tiên trước khi thanh toán lãi trong trường
hợp công ty giải thể hay phá sản.
Các trái phiếu cơng ty nhìn chung có qui mơ giao dịch nhỏ hơn so với các
trái phiếu chính phủ, do vậy mà chúng kém lỏng hơn.
1.2.3.2.2 Cổ phiếu
Cổ phiếu là giấy chứng nhận cổ phần, xác nhận quyền sở hữu của cổ đơng về vốn
đối với thu nhập và tài sản rịng của công ty cổ phần. Người mua cổ phiếu được gọi là
cổ đông, nhận giấy chứng nhận cổ phần được gọi là cổ phiếu. Trên giấy này có ấn định
mệnh giá của cổ phiếu.
Cổ phiếu có bản chất là một cơng cụ góp vốn và chỉ do các cơng ty cổ phần phát
hành. Vốn mà công ty cổ phần huy động được từ việc phát hành cổ phiếu được xem là
vốn thuộc sỡ hữu của công ty.
Chủ thể mua và sở hữu cổ phiểu có những quyền lợi như quyền tham gia quản lý
công ty và quyền sở hữu tài sản rịng của cơng ty.
• Quyền tham gia quản lý công ty: các cổ đông bầu ra một Hội đồng quản trị
để thay mặt mình quản lý, điều hành cơng ty.
• Quyền sở hữu tài sản rịng của cơng ty: khi tài sản rịng của cơng ty tăng
lên do làm ăn có lãi, giá trị các cổ phần mà cổ đông nắm giữ cũng tăng lên
theo. Khi công ty cổ phần ngừng hoạt động, cổ đông được tham gia phân
chia tài sản cịn lại của cơng ty.
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
17
h
Ví dụ: Tổng tài sản ban đầu của một cơng ty cổ phần là 10 tỷ VNĐ. Một
cổ đông nắm 20% cổ phần của công ty cho nên tổng giá trị tài sản công ty
mà anh sở hữu theo cổ phần là 2 tỷ VNĐ. Sau 5 năm làm ăn có lãi, tổng tài
sản rịng của cơng ty tăng lên 15 tỷ VNĐ, khi đó tổng giá trị cổ phần mà
anh ta sở hữu lên tới 3 tỷ VNĐ.
• Quyền tham gia chia lợi nhuận rịng: cổ đơng được quyền hưởng một
phần lợi nhuận rịng của cơng ty tỷ lệ với số cổ phần đang nắm giữ. Phần
lãi trả cho mỗi cổ đông được gọi là cổ tức.
Đặc điểm của cổ phiếu
• Cổ phiếu là chứng nhận góp vốn, do đó khơng có kỳ hạn và khơng hồn
vốn. Trên thực tế trừ trường hợp phá sản hoặc kết quả kinh doanh q tồi
tệ, cịn nói chung thì các cơng ty vẫn cứ duy trì hoạt động mãi mãi, cho
nên có thể nói thời hạn của trái phiếu là vơ hạn. Các cổ đông được phép
chuyển nhượng cổ phần mà mình nắm giữ cho người khác để rút lại
khoản vốn mà mình đã đầu tư vào cơng ty cổ phần.
• Cổ tức của cổ phiếu thường không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp, do đó khơng cố định. Khi doanh nghiệp làm ăn phát đạt
cổ đông cũng được hưởng lợi nhuận cao hơn nhiều so với các loại chứng
khốn khác có lãi suất cố định nhưng ngược lại lãi suất có thể rất thấp
hoặc hồn tồn khơng có khi làm ăn thua lỗ.
Các loại giá cổ phiếu.
- Mệnh giá: là số tiền ghi trên bề mặt, mệnh giá thường được ghi bằng nội
tệ. Mệnh giá bằng bao nhiêu là do luật chứng khoán hoặc điều lệ của
cơng ty cổ phần quy định.
Ví dụ: ở Việt Nam theo NĐ144/CP, mệnh giá cổ phiếu của các doanh
nghiệp Việt nam thống nhất là 10.000 VNĐ.
Khi công ty mới thành lập, mệnh giá cổ phiếu được tính như sau:
Mệnh giá cổ phiếu
mới phát hành
Vốn điều lệ của công ty cổ phần
=
Tổng số cổ phiếu đăng ký phát hành
Ví dụ: Năm 2010, công ty A thành lập với mức vốn điều lệ là 30 tỷ đồng,
số cổ phần đăng ký phát hành là 3.000.000. Ta có:
Mệnh giá cổ phiếu
mới phát hành
-
30 tỷ đồng
=
=
10.000đ/ CP
3.000.000
Giá trị ghi sổ (Book value): là giá trị của mỗi cổ phần căn cứ vào giá trị
tài sản rịng của cơng ty trên bảng tổng kết tài sản.
Ví dụ: Năm 2011 cơng ty A quyết định tăng thêm vốn bằng cách phát
hành thêm 1.000.000 cổ phiếu, mệnh giá mỗi cổ phiếu vẫn là 10.000đ,
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
18
h
nhưng giá bán cổ phiếu trên thị trường là 25.000đ. Biết rằng quỹ tích lũy
dùng cho đầu tư cịn lại tính đến cuối năm 2011 là 10 tỷ đồng.
- Trên sổ sách kế toán ngày 31/12/2011 như sau:
Vốn cổ phần theo mệnh giá:
4 triệu x 10.000 = 40 tỷ đồng
Vốn thặng dư:
(25.000 – 10.000) x 1 triệu = 15 tỷ đồng
Quỹ tích lũy: 10 tỷ đồng
Tổng số vốn cổ phần: 65 tỷ đồng
Thư giá cổ phiếu = 65 tỷ đồng = 16.250đ
4 triệu
- Giá trị thị trường (Market value): là giá cả của cổ phiếu trên thị trường
tại một thời điểm nhất định. Tùy theo quan hệ cung cầu mà thị giá có thể
thấp hơn, cao hơn, hoặc bằng giá trị thực của nó tại thời điểm mua bán.
Cổ phiếu có 2 loại cơ bản là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
• Cổ phiếu thường: là loại cổ phiếu có đầy đủ những đặc trưng đã nêu trên
của cổ phiếu.
- Cổ phiếu thường có mức cổ tức phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Chỉ được chia lãi sau khi công ty đã thanh toán lãi phải trả cho những
người nắm trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi.
- Thời hạn cổ phiếu là vô hạn, trừ trường hợp công ty bị giải thể hay
phá sản.
• Cổ phiếu ưu đãi: là loại cổ phiếu cho phép người nắm giữ cổ phiếu được
hưởng một số ưu đãi hơn so với cổ đông cổ phiếu thường:
- Cổ phiếu ưu đãi có mức cổ tức cố định hàng năm.
- Được ưu tiên chia lãi cổ phần trước cổ phiếu thường.
- Được ưu tiên phân chia tài sản cịn lại trước cổ đơng sở hữu cổ phiếu
thường khi công ty giải thể hay phá sản.
Hạn chế so với cổ phần thường:
- Không được quyền tham gia quản lý công ty.
- Khi lợi nhuận của công ty tăng lên thì cổ tức của cổ phiếu ưu đãi vẫn
giữ nguyên.
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
19
h
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Đề cập đến sự ra đời của tài chính, có thể đúc kết lại đó là cả một quá trình
lâu dài, dựa trên hai tiền đề nền tảng: sự phát triển của nền kinh tế hàng
hóa – tiền tệ và sự ra đời của nhà nước.
Bản chất của tài chính thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở
mọi chủ thể trong xã hội. Tài chính phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh
tế nảy sinh trong phân phối các nguồn tài chính thơng qua việc tạo lập hay
sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ
thể trong xã hội.
Các chức năng của tài chính gồm có hai chức năng chủ yếu là chức năng
phân phối của tài chính và chức năng giám đốc.
Hệ thống tài chính là tổng hợp những khâu tài chính trong các lĩnh vực hoạt
động khác nhau, nhưng giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong
quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính.
Theo hoạt động của các chủ thể tài chính, cơ cấu hệ thống tài chính bao
gồm thị trường tài chính cùng với tài chính nhà nước, tài chính doanh
nghiệp, tài chính dân cư (cá nhân, hộ gia đình) và các tổ chức xã hội.
Thị trường tài chính là thị trường trong đó các loại vốn ngắn hạn, trung hạn
và dài hạn được chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu để đáp ứng nhu cầu phát
triển nền kinh tế xã hội, là nơi gặp gỡ giữa những bên có nguồn vốn dư thừa
với những bên có nhu cầu sử dụng vốn.
Thị trường tài chính có vai trị quan trọng đối với nền kinh tế: đẩy mạnh khơi
thông vốn cho nền kinh tế; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn; hỗ trợ nhà nước
thực hiện chính sách tiền tệ.
Có nhiều loại thị trường tài chính căn cứ vào từng tiêu chí cụ thể.
- Căn cứ kỳ hạn chuyển giao vốn gồm có thị trường tiền tệ (với thị trường
cho vay ngắn hạn, thị trường hối đoái, thị trường liên ngân hàng, thị
trường mở) và thị trường vốn (với thị trường vay nợ dài hạn, thị trường
chứng khoán).
- Căn cứ mục đích hoạt động có thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
- Căn cứ phương thức tổ chức và giao dịch của thị trường gồm có thị
trường tập trung và thị trường phi tập trung.
Công cụ trên thị trường tiền tệ có tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi,
thương phiếu, chấp phiếu ngân hàng, hợp đồng mua lại,…
Công cụ trên thị trường vốn chủ yếu là cổ phiếu (cổ phiếu thường, cổ phiếu
ưu đãi) và trái phiếu.
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
20
h
CÂU HỎI ƠN TẬP
1. Trình bày tiền đề cho sự ra đời của tài chính?
2. Nêu các chức năng của tài chính? Chức năng nào được xem là chức năng
quan trọng của tài chính? Giải thích?
3. Phân tích bản chất của tài chính?
4. Phân biệt q trình phân phối lần đầu và quá trình phân phối lại trong chức
năng phân phối của tài chính?
5. Hệ thống tài chính là gì? Trình bày cơ cấu của hệ thống tài chính?
6. Thị trường tài chính là gì? Nêu đối tượng, chủ thể, cơng cụ của thị trường tài
chính?
7. Phân loại thị trường tài chính căn cứ vào thời hạn chuyển giao vốn; căn cứ
vào mục đích hoạt động; căn cứ vào phương thức tổ chức và giao dịch của
thị trường?
8. Có các công cụ nào phổ biến trên thị trường vốn? Hãy phân biệt các cơng cụ
đó?
9. Trình bày mối liên hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp? Có thị
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp trên thị trường tiền tệ hay không? Hãy
chứng minh?
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
21
h
CHƯƠNG 2: TIỀN TỆ, LÃI SUẤT VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐỐI
Có thể nói tiền là một phương tiện khơng thể thiếu để mở rộng và phát triển nền
kinh tế hàng hóa, làm nảy sinh các quan hệ tài chính. Nền kinh tế cùng những chuyển
biến thăng trầm thường bắt nguồn và xoay quanh những hoạt động liên quan đến tiền
t, lãi suất và tỷ giá hối đoái. Nội dung chương 2 sẽ giúp người đọc hiểu rõ hơn những
kiến thức về:
Sự ra đời, các chức năng và cung cầu của tiền tệ
Khái niệm, phân loại, tác động, nguyên nhân, biện pháp kiểm soát lạm phát
Khái niệm, phân loại và vai trị của tín dụng.
Khái niệm, phân loại lãi suất và giá trị tiền tệ theo thời gian.
Khái niệm, vai trò, nhân tố ảnh hưởng, biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
2.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TIỀN TỆ
2.1.1 Lịch sử ra đời và phát triển của tiền tệ
2.1.1.1 Sự ra đời của tiền tệ
Nói đến nguồn gốc ra đời của tiền tệ K. Marx viết “Một khi người ta hiểu rằng
nguồn gốc của tiền tệ ở ngay trong hàng hố, thì người ta đã khắc phục được các khó
khăn chính trong sự phân tích tiền tệ”.3
Sự ra đời của tiền tệ là kết quả tất yếu của một quá trình lịch sử xuất phát từ nhu
cầu trao đổi hàng hóa của các cá nhân trong xã hội. Cho nên, nghiên cứu sự ra đời của
tiền tệ cần gắn liền với quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Trao đổi xuất hiện từ khi chế độ công xã nguyên thủy bắt đầu tan rã. Hình thức
trao đổi lúc này là trao đổi trực tiếp, mang tính chất ngẫu nhiên nên cịn gọi là hình
thái trao đổi giản đơn4, với quy luật H – H’ - …, người ta sử dụng trực tiếp một hàng
hóa này để đo lường giá trị một hàng hóa khác.
Theo thời gian, cùng sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động
xã hội, số lượng sản phẩm được sản xuất và đưa ra trao đổi cũng nhiều hơn. Lúc đó, để
thuận tiện hơn trong việc trao đổi, một hàng hóa được sử dụng như vật ngang giá
chung để có thể làm cơ sở trao đổi các hàng hóa khác, đây chính là hình thái trao đổi
mở rộng5.
Sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển. Trao đổi đã vượt khỏi cái
khung nhỏ hẹp một vài hàng hoá, giới hạn trong một vài địa phương. Và cùng với trao
đổi ngày càng nhiều hơn đó giữa các hàng hố địi hỏi phải có một hàng hố có tính
đồng nhất, tiện dụng trong vai trị của vật ngang giá, có thể tạo điều kiện thuận lợi
trong trao đổi, và bảo tồn giá trị. Và khi vật ngang giá chung được chấp nhận ở một
phạm vi rộng, thì vật ngang giá chung đó trở thành tiền tệ, hay lúc đó hình thái tiền tệ6
manh nha được hình thành.
Tác phẩm “Góp phần phê phán kinh tế chính trị”, Mac-Ăngghen, Tồn tập- tập 13, NXB Chính trị quốc gia Hà
Nội, năm 1993.
4
Hay hình thái ngẫu nhiên của giá trị.
5
Hình tháy đầy đủ của giá trị
6
Hình thái chung của giá trị
3
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
22
h
Từ hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên đến hình thái tiền tệ là cả một quá trình lịch
sử lâu dài, nhằm giải quyết các mâu thuẫn vốn có trong bản thân hàng hóa. Tiền tệ ra
đời nhằm làm cho việc trao đổi hàng hóa dịch vụ được dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Như vậy, sự ra đời của tiền tệ gắn liền với quá trình phát triển của sản xuất và
trao đổi hàng hóa, hay nói cách khác chỉ khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển
đến một bước nhất định thì mới dẫn đến sự ra đời của tiền tệ.
2.1.1.2 Sự phát triển của các hình thái tiền tệ
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại đã có nhiều hình thái tiền tệ
xuất hiện và cũng dần hoàn thiện hơn để đáp ứng nhu cầu trao đổi và lưu thơng hàng
hóa. Nhiều nghiên cứu đề cập đến các hình thái tiền tệ với những tên gọi khác nhau.
Trong phạm vi tài liệu này, xin đề cập đến hóa tệ, tín tệ, bút tệ, tiền điện tử.
2.1.1.2.1 Hóa tệ7
Là tiền tệ dưới dạng hàng hóa, nghĩa là một hàng hố nào đó giữ vai trị làm vật
trung gian cho q trình trao đổi. Có thể phân chia hố tệ thành hóa tệ phi kim loại và
hố tệ kim loại.
Hố tệ khơng kim loại.
Sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển. Sự trao đổi khơng cịn ngẫu
nhiên, khơng cịn trên cơ sở của định giá giản đơn. Trao đổi đã vượt khỏi cái khung
nhỏ hẹp một vài hàng hoá, giới hạn trong một vài địa phương. Sự trao đổi ngày càng
nhiều hơn đó giữa các hàng hố địi hỏi phải có một hàng hố có tính đồng nhất, tiện
dụng trong vai trị của vật ngang giá, có thể tạo điều kiện thuận lợi trong trao đổi, và
bảo tồn giá trị.
Những hình thái tiền tệ đầu tiên thường được chọn từ một loại hàng hóa đơn
thuần có giá trị sử dụng cần thiết chung cho nhiều người, khác nhau tùy theo từng địa
phương, có thể là những vật trang sức, những vật có thể ăn, … Trong cuốn “Primitive
money’’ của Paul Einzig viết năm 1966, ông đã đưa ra những thống kê khá thú vị sau
về những loại tiền cổ xưa mà theo ơng, nhiều số trong đó vẫn cịn được sử dụng cho
đến cả ngày nay. Đó là:
Lụa ở Trung Quốc
Bơ ở Na Uy
Da ở Pháp và Ý
Rượu Rum ở Australia
Bộ lông vẹt đỏ ở quần đảo Santa Cruz
Gạo ở Philippines
Hạt tiêu ở Barbados
Nơ lệ ở Châu Phi xích đạo, Nigeria, Ailen
Những chuỗi vỏ sò của những thổ dân da đỏ Bắc Mỹ
Bò, cừu ở Hy Lạp và La Mã
Răng cá voi ở đảo Fiji
Gỗ đàn hương ở Hawaii
Lưỡi câu (cá) ở quần đảo Gilbert
Mai rùa ở đảo Marianas
7
Tiền tệ hàng hóa (Commodity money)
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
23
h
Tuần lộc ở nhiều nơi thuộc Nga
Muối ở nhiều nơi.
… và đến nay một số dân tộc Châu Phi vẫn dùng cá khô, thuốc lá là vật ngang giá
trong trao đổi.
Tuy vậy, trong quá trình phục vụ trao đổi, tiền tệ bằng hàng hố có những bất tiện
nhất định như : tính chất khơng đồng nhất, dễ hư hỏng, khó phân chia hay gộp lại, khó
bảo quản cũng như vận chuyển, và chỉ được công nhận trong từng khu vực, từng địa
phương, … do đó cần có vật ngang giá chung có thể khắc phục dần những nhược điểm
trên.
Hố tệ bằng kim loại8.
Sự mở rộng phân cơng lao động xã hội đi kèm với sản xuất và trao đổi hàng hoá
phát triển, đồng thời với sự xuất hiện của Nhà nước và giao dịch quốc tế thường xuyên
thì kim loại ngày càng có những ưu điểm nổi bật trong vai trị của vật ngang giá bởi
những thuộc tính như chất lượng, trọng lượng có thể xác định chính xác, dễ dàng hơn,
thêm vào đó, nó lại bền hơn, dễ bị chia nhỏ, giá trị tương đối ít biến đổi, … hơn so với
hóa tệ khơng kim loại. Tiền bằng hợp kim vàng và bạc xuất hiện đầu tiên vào những
năm 685 – 652 trước Công nguyên ở vùng Tiểu Á và Hy Lạp có đóng dấu in hình nổi
để đảm bảo giá trị. Ở Trung Quốc, tiền bằng chì xuất hiện đầu tiên dưới dạng một thỏi
dài có lỗ ở một đầu để có thể xâu thành chuỗi. Tiền kim loại đầu tiên ở Anh làm bằng
thiếc, ở Thụy Sĩ và Nga bằng đồng, …
Như vây, hóa tệ bằng kim loại là tiền xuất phát từ hàng hóa nhưng ở đây hàng
hóa là kim loại hay đây là tiền tệ dưới dạng kim loại.
Nếu so với các loại tiền tệ trước đó, tiền bằng kim loại, bên cạnh những ưu điểm
nhất định cũng đưa đến những bất tiện trong q trình phát triển trao đổi như: cồng
kềnh, khó cất giữ, khó chuyên chở… Dần dần trong các kim loại quý9 như vàng, bạc,..
có giá trị nội tại lớn trở nên thông dụng trong một khoảng thời gian khá lâu, và cho
đến cuối thế kỷ thứ XIX, đầu thế kỷ thứ XX, vàng dần chiếm vị thế trong vai trò vật
ngang giá, được sử dụng phổ biến và lâu dài nhất. Bạc, rồi đến đồng chỉ được sử dụng
thay thế khi thiếu vàng. Chính vì q trình tồn tại lâu dài và khả năng bảo tồn giá trị
mà ngày nay, mặc dù tiền vàng khơng cịn tồn tại trong lưu thông, nhưng các quốc gia
cũng như nhiều người vẫn coi vàng là một tài sản cất trữ có giá trị.
Lý do để vàng được chấp nhận rộng rãi trở thành tiền tệ:
Dễ chia nhỏ, dễ mang theo
Không bị tác động bởi sự thay đổi năng suất lao động xã hội
Có độ bền vật lý tốt và dễ nhận biết
Thuận tiện trong chức năng dự trữ giá trị.
Những đặc điểm trên của vàng rất thích hợp cho việc dùng làm tiền tệ, nhưng tiền
vàng vẫn không thể đáp ứng được nhu cầu trao đổi của xã hội khi nền sản xuất và trao
đổi hàng hóa phát triển đến mức cao. Một loạt lý do sau đây đã khiến cho việc sử dụng
tiền vàng ngày càng trở nên bất tiện, không thực hiện được chức năng tiền tệ nữa:
8
9
Còn gọi là kim tệ
Hay quý kim
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
24
h
• Quy mơ và trình độ sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, khối lượng và
chủng loại hàng hóa đưa ra trao đổi ngày càng tăng và đa dạng; trong khi đó
lượng vàng sản xuất ra khơng đủ đáp ứng nhu cầu về tiền tệ (nhu cầu về
phương tiện trao đổi) của nền kinh tế.
• Giá trị tương đối của vàng so với các hàng hóa khác tăng lên do năng suất lao
động trong ngành khai thác vàng không tăng theo kịp năng suất lao động
chung của các ngành sản xuất hàng hóa khác. Điều đó dẫn đến việc giá trị của
vàng trở nên quá lớn, không thể đáp ứng nhu cầu về tiền tệ, không thể đáp
ứng nhu cầu làm vật ngang giá chung trong một số lĩnh vực, có lượng giá trị
trao đổi mỗi lần nhỏ, như mua bán dịch vụ hoặc hàng hóa tiêu dùng …
• Ngược lại, trong những giao dịch với giá trị lớn thì tiền vàng lại trở nên cồng
kềnh.
• Việc sử dụng tiền tệ hàng hóa bị các nhà kinh tế xem như là một sự lãng phí
những nguồn tài nguyên vốn đã có hạn. Để dùng một loại tiền hàng hóa, xã
hội sẽ phải cắt bớt các công dụng khác của hàng hóa đó hoặc dùng các nguồn
lực khan hiếm để sản xuất bổ sung. Rõ ràng là với việc dùng vàng làm tiền tệ,
con người đã phải giảm bớt các nhu cầu dùng vàng làm đồ trang sức hoặc
trong các ngành có sử dụng vàng làm ngun liệu, vì xã hội phải dành một
phần số lượng vàng hiện có để làm tiền tệ.
Với những lý do như vậy mà xã hội đã phải đi tìm cho mình một dạng tiền tệ mới
phù hợp hơn.
2.1.1.2.2 Tín tệ10
Sau một thời gian dài tồn tại, thời đại hóa tệ đã nhường chỗ cho thời đại tín tệ.
Tín tệ được hiểu là thứ tiền tự nó khơng có giá trị nhưng do sự tín nhiệm của mọi
người mà nó được lưu dụng. Tín tệ bao gồm tín tệ kim loại và tiền giấy.
• Tín tệ kim loại khác với hóa tệ kim loại, ở hình thái này giá trị nội tại của kim
loại thường khơng phù hợp với giá trị danh nghĩa.
• Tiền giấy trở nên phổ biến do: dễ vận chuyển, dễ chia nhỏ, dễ chấp nhận, dễ
bảo quản – giữ được giá trị và thuận tiện cho cất trữ.
Về nguồn gốc, từ thời nhà Đường (thế kỷ VII) và nhà Tống (960 – 1279) ở Trung
Quốc, đã xuất hiện tiền giấy. Ở Việt Nam vào cuối đời Trần (1400 – 1407), Hồ Quý
Ly đã thí nghiệm cho phát hành tiền giấy.
Nguồn gốc của tiền giấy còn được hiểu rõ hơn khi xem xét lịch sử tiền tệ các
nước Châu Âu. Từ đầu thế kỷ XVII, ở Hà Lan ngân hàng Amsterdam đã cung cấp cho
những thân chủ gởi vàng vào ngân hàng những giấy chứng nhận bao gồm nhiều tờ
nhỏ. Các giấy chứng nhận có khả năng đổi ra bạc hoặc vàng do các ngân hàng thương
mại phát hành (gold certificate, silver certificate). Đây là các cam kết, cho phép người
nắm giữ giấy này có thể đến ngân hàng rút ra số lượng vàng hay bạc ghi trên giấy, nên
các giấy chứng nhận này cũng được sử dụng trong thanh toán như vàng và bạc. Sự ra
đời những giấy chứng nhận như vậy đã giúp cho việc giao dịch với những khoản tiền
lớn cũng như việc vận chuyển chúng trở nên thuận lợi hơn rất nhiều.
Dần dần các giấy chứng nhận nói trên được chuẩn hóa thành các tờ tiền giấy có
in mệnh giá và mọi người có thể đem đổi lấy vàng hay bạc ký thác tại ngân hàng với
giá trị tương đương. Do vậy, có thể gọi đây là thời kỳ tiền giấy khả hoán (convertible
10
Tiền dấu hiệu
ThS. Bùi Đỗ Phúc Quyên
25
h