Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Ngân hàng nhà nước và thực trạng thâm hụt ngân sách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.4 KB, 35 trang )

Tiểu luận Lý thuyết tài chính
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta điều biết, thâm hụt ngân sách là một vấn đề mà mọi quốc gia
trên thế giới đều gặp phải. Ngay cả một cường quốc kinh tế như Mỹ cũng phải đau
đầu và vật lộn với vấn đề này, và tất nhiên Việt Nam cũng không ngoại lệ. Việc xử
lý thâm hụt ngân sách nhà nước (NSNN) là một vấn đề nhạy cảm, bởi nó không chỉ
tác động trước mắt đối với nền kinh tế mà còn tác động đến sự phát triển bền vững
của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu có những biến động lớn như:
giá dầu tăng cao, khủng hoảng tài chính tại Mỹ, tình trạng lạm phát diễn ra nhiều
nước trên thế giới…, việc tìm ra giải pháp để điều chỉnh thâm hụt ngân sách ở các
quốc gia trên thế giới nói chung và ở tại Việt Nam nói riêng là hết sức cấp bách và
cần thiết. Ở nước ta, mức độ thâm hụt ngân sách ngày càng gia tăng và ngày càng
tác động tiêu cực tới đời sống nhân dân cũng như tới toàn bộ nền kinh tế. Đây chính
là một trong những nguy cơ làm khủng hoảng nền kinh tế, gia tăng lạm phát gây
khó khăn cho chính phủ trong việc thực hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ.
Vậy thâm hụt ngân sách là gì? Thực trạng vấn đề thâm hụt ngân sách diễn ra
ở Việt Nam trong các năm qua như thế nào? Giải pháp nào để xử lý thâm hụt
NSNN, ổn định vĩ mô nền kinh tế, thực hiện hiệu quả các mục tiêu chiến lược về
phát triển kinh tế – xã hội, tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát hiện nay? Bài
tiểu luận này với đề tài “Thâm hụt ngân sách nhà nước ở Việt Nam – Thực
trạng và giải pháp” là quá trình nghiên cứu nhằm tìm ra đáp án cho những câu hỏi
trên.
Bài tiểu luận gồm có 3 chương:
Chương I: KHÁI NIỆM THÂM HỤT NGÂN SÁCH
Chương II: THỰC TRẠNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH Ở VIỆT NAM
Chương III: GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH Ở
VIỆT NAM
Tuy nhiên, thâm hụt NSNN là một vấn đề mang tính vĩ mô, với trình độ hiểu
biết cũng như trình độ lý luận có hạn nên bài viết của em không thể tránh khỏi
những khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ quý thầy cô để
bài viết được hoàn thiện hơn.


V Lâm Báchũ 1
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
Chương I
KHÁI NIỆM VỀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH
I – KHÁI NIỆM NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC & THÂM HỤT NGÂN SÁCH:
1. Ngân sách nhà nước:
Luật Ngân sách Nhà nước của Việt Nam đã được Quốc hội Việt Nam
thông qua ngày 16/12/2002 định nghĩa: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các
khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức
năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Hàm ngân sách có dạng đơn giản sau:
Trong đó: B là cán cân ngân sách
G là chi tiêu ngân sách
Y là thu ngân sách
Xét về hình thức: NSNN là một bản dự toán thu chi do Chính phủ lập
ra, đệ trình Quốc hội phê chuẩn và giao cho chính phủ tổ chức thực hiện.
Xét về thực thể: NSNN bao gồm những nguồn thu cụ thể, những
khoản chi cụ thể và được định lượng. Các nguồn thu đều được nộp vào một
quỹ tiền tệ - quỹ NSNN – và các khoản chi đều được xuất ra từ quỹ tiền tệ
ấy.
Xét về các quan hệ kinh tế chứa đựng trong NSNN các khoản thu –
luồng thu nhập quỹ NSNN, các khoản chi – xuất quỹ NSNN đều phản ánh
những quan hệ kinh tế nhất định giữa Nhà nước và người nộp, giữa Nhà
nước với cơ quan, đơn vị thụ hưởng quỹ.
Từ đây có thể rút ra nhận xét: NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế
phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập
trung của Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính
quốc gia nhằm thực hiện chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định.
V Lâm Báchũ 2

Tiểu luận Lý thuyết tài chính
2. Thâm hụt ngân sách nhà nước:
Thâm hụt ngân sách (hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước) là
tình trạng các khoản chi của ngân sách Nhà nước lớn hơn các khoản thu,
phần chênh lệch chính là thâm hụt ngân sách. Trường hợp ngược lại, khi các
khoản thu lớn hơn các khoản chi được gọi là thặng dư ngân sách.
Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ
lệ thâm hụt so với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước.
VD: Thâm hụt NSNN năm 2009 là 155 900 tỷ đồng, tỉ lệ thâm hụt so với
GDP là 6.9 % (theo cách tính của Việt Nam).
Theo thông lệ quốc tế, có thể tóm tắt báo cáo về NSNN hằng năm như sau:
Bảng: Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng năm
Thu Chi
A. Thu thường xuyên (thuế,
phí, lệ phí).
B. Thu về vốn (bán tài sản
nhà nước).
C. Bù đắp thâm hụt.
– Viện trợ.
– Lấy từ nguồn dự trữ.
Vay thuần (= vay mới – trả
nợ gốc).
D. Chi thường xuyên.
E. Chi đầu tư.
F. Cho vay thuần
(= cho vay mới – thu nợ gốc).
Trong đó: A + B +C = D + E + F. Công thức tính thâm hụt NSNN của một
năm sẽ như sau:
Thâm hụt NSNN = Tổng chi – Tổng thu = (D + E + F) – (A + B) = C
Các lý thuyết tài chính hiện đại cho rằng, NSNN không cần thiết phải

cân bằng theo tháng, theo năm. Vấn đề là phải quản lý các nguồn thu và chi
sao cho ngân sách không bi thâm hụt qua lớn và kéo dài. Tuy vậy, trong
nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, các Chính phủ vẫn theo
đuổi một chính sách tài khóa thận trọng, trong đó chi ngân sách phải nằm
trong khuôn khổ các nguồn thu ngân sách để tránh tình trạng thâm hụt.
V Lâm Báchũ 3
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
3. Phân loại thâm hụt NSNN:
Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai loại:
thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ.
• Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi
những chính sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất,
trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu cho giáo dục, quốc
phòng,
• Thâm hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của
chu kỳ kinh tế, nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và
thu nhập quốc dân. Ví dụ khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất
nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi
chi ngân sách cho cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
Giá trị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính toán
như sau:
• Thâm hụt ngân sách thực có: liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt
tính bằng tiền trong một giai đoạn nhất định (thường là một quý
hoặc một năm).
• Thâm hụt ngân sách cơ cấu: tính toán thu, chi và thâm hụt của
chính phủ sẽ là bao nhiêu nếu nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm
năng.
• Thâm hụt ngân sách chu kỳ: là thâm hụt ngân sách bị động do sự
vận động theo chu kỳ của nền kinh tế thị trường. Thâm hụt ngân
sách chu kỳ được tính bằng hiệu số giữa ngân sách thực có và

ngân sách cơ cấu.
Việc phân biệt giữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh
sự khác nhau giữa chính sách tài chính: chính sách ổn định tùy biến và chính
sách ổn định tự động.Việc phân biệt hai loại thâm hụt trên đây có tác dụng
quan trọng trong việc đánh giá ảnh hưởng thực sự của chính sách tài chính
khi thực hiện chính sách tài chính mở rộng hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến
thâm hụt ngân sách như thế nào giúp cho chính phủ có những biện pháp điều
chỉnh chính sách hợp lý trong từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế.
V Lâm Báchũ 4
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
II – NGUYÊN NHÂN GÂY THÂM HỤT NGÂN SÁCH:
Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản gây ra thâm hụt NSNN:
- Nhóm nguyên nhân thứ nhất là tác động của chu kỳ kinh
doanh. Khủng hoảng làm cho thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng
nhu cầu chi lại tăng lên, để giải quyết những khó khăn mới về kinh tế
và xã hội. Điều đó làm cho mức thâm hụt NSNN tăng lên. ở giai đoạn
kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không
phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức thâm hụt NSNN. Mức
thâm hụt do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là thâm
hụt chu kỳ.
- Nhóm nguyên nhân thứ hai là tác động của chính sách cơ cấu
thu chi của Nhà nước. Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh
đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng mức thâm hụt NSNN. Ngược
lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng của Nhà nước thì
mức thâm hụt NSNN sẽ giảm bớt. Mức thâm hụt do tác động của
chính sách cơ cấu thu chi gây ra được gọi là thâm hụt cơ cấu.
Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai
lớn,…), tổng hợp của thâm hụt chu kỳ và thâm hụt cơ cấu sẽ là thâm hụt
NSNN.
III – TÁC ĐỘNG CỦA THÂM HỤT NGÂN SÁCH ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ:

1. Thâm hụt ngân sách và vấn đế thoái lui đầu tư:
Theo “Thuyết tương đương” của Ricardo khi có tình trạng thâm hụt
ngân sách thì tiết kiệm của dân chúng tăng lên bằng mức thâm hụt. Vì thế sẽ
không ảnh hưởng đến lãi suất, không gây cản trở đầu tư.
Tuy nhiên, qua thực tế ở nhiều nước khi ngân sách nhà nước thâm
hụt, chi tăng, thu giảm, GNP sẽ tăng lên theo hệ số nhân, nhu cầu về tiền
tăng theo. Với mức cung tiền cho trước, lãi suất sẽ tăng lên, bóp nghẹt một
số đầu tư. Kết quả là một phần GNP tăng lên có thể bị mất đi do thâm hụt
cao, kéo theo thoái lui đầu tư với quy mô nhỏ nếu trong ngắn hạn và quy mô
lớn nếu trong dài hạn. Từ đó làm giảm sự tăng trưởng kinh tế.
V Lâm Báchũ 5
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
2. Thâm hụt NSNN – một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát:
“Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian.”
Khi ngân sách thâm hụt lớn, chính phủ có thể in thêm tiền để trang
trải, lượng tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây ra lạm phát. Khi
giá cả đã tăng lên thì sự thâm hụt mới lại nảy sinh đòi hỏi phải in thêm một
lượng tiền mới và lạm phát tiếp tục tăng vọt. Mà tác hại của lạm phát là rất
lớn như phân phối lại thu nhập và của cải một cách ngẫu nhiên, gây biến
dạng về cơ cấu sản xuất và làm việc trong nền kinh tế Như vậy, nghĩa là
thâm hụt NSNN gián tiếp gây ra các tác động trên làm tổn hại đến nền kinh
tế.
Tuy nhiên, lạm phát cũng có tác động ngược đến thâm hụt ngân sách
nhà nước. Với tác động phân phối lại của cải một cách ngẫu nhiên thì lạm
phát cũng làm dễ dàng hơn cho chính phủ trong một chừng mực nhất định:
Thứ nhất, Chính phủ có thêm một nguồn thu nhập đó là thuế lạm phát.
Thứ hai, Chính phủ có thể được lợi nếu lạm phát làm cho lãi suất danh
nghĩa tăng ít hơn bản thân của lạm phát.
Và như vậy bản thân mức thâm hụt NSNN có thể giảm.
3. Tác động của thâm hụt ngân sách tới cán cân thương mại

Hiệu số giữa xuất khẩu và nhập khẩu trong khoản giao dịch còn gọi là
cán cân thương mại. Các hoạt động xuất và nhập hàng hóa không chỉ được
đánh giá thông qua số lượng mà còn được đánh giá thông qua tỷ lệ trao đổi.
Tỷ lệ trao đổi ở đây là tỉ số giữa giá hàng xuất khẩu của một nước và giá
hàng nhập khẩu của bản thân nước đó. Như vậy, nếu như giá xuất khẩu tăng
lên một cách tương đối so với hàng nhập khẩu thi cán cân thương mại sẽ
được tăng cường theo hướng tích cực và ngược lại (nếu như khối lượng hàng
không thay đổi).
Như ta đã phân tích ở trên, tình trạng thâm hụt ngân sách sẽ làm cho
lãi suất thị trường tăng. Lãi suất tăng làm cho giá trị đồng nội tệ tăng giá, giá
hàng hóa trong nước theo đó cũng tăng theo đó cũng tăng làm giảm lượng
hàng xuất khẩu. Trong khi tương ứng, hàng hóa của đất nước khác sẽ rẻ
V Lâm Báchũ 6
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
tương đối so với nước đó, dẫn tới việc tăng lượng hàng nhập khẩu. Vì vậy,
thâm hụt ngân sách sẽ gây ra tình trạng nhập siêu: Nhập vào lớn hơn xuất ra,
việc sử dụng hàng hóa sản xuất trong nước bị hạn chế, sản xuất gặp nhiều
khó khăn, tác động không ít tới sự tăng trưởng kinh tế.
Chương II
THỰC TRẠNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH VIỆT NAM
V Lâm Báchũ 7
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
I – THỰC TRẠNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH Ở NƯỚC TA TRONG
NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY (2000 – 2010):
Bảng thông kê tình hình thâm hụt ngân sách qua các năm (2000 – 2010)
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu




Năm
Tổng thu
cân đối
NSNN
Tổng chi cân đối
ngân sách nhà
nước
Thâm hụt ngân
sách nhà nước
Tỷ lệ bội chi
NSNN so với
GDP
2000 90,749 108,961 22,000 4.7 %
2002 123,860 148,208 25,597 4.5 %
2003 177,409 197,573 29,936 4.9 %
2004 224,776 248,615 34,703 4.85 %
2005 283,847 313,479 40,746 4.86 %
2006 272,877 321,377 48,500 5 %
2007 311,840 368,340 56,500 5 %
2008 408,080 474,280 66,200 4,95%
2009 442,340 584,695 115,900 6.9 %
2010
(ƯTH lần 1)
528,100 588,210 113,110 5.8 %
(Nguồn: Tổng hợp từ cổng TTĐT Bộ Tài chính)
V Lâm Báchũ 8
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
Qua thống kê cho thấy, trong những năm trở lại đây, tỉ lệ thâm hụt
(bội chi) ngân sách ở Việt Nam luôn nằm ở ngưỡng 5% GDP và có xu hướng
tăng lên. Đây là một tỉ lệ rất cao. Theo kinh nghiệm quốc tế thì trong điều

kiện bình thường, thâm hụt ngân sách ở mức 3% GDP được coi là đáng lo
ngại, còn ở mức 5% GDP thì bị coi là đáng báo động. Riêng năm 2009 tỉ lệ
thâm hụt ngân sách đã lên tới 6.9% GDP. Tốc độ tăng thâm hụt ngân sách
cũng là khá cao từ 17 – 18%. Cụ thể năm 2006 mức thâm hụt là vào khoảng
48,5 nghìn tỷ đồng thì năm 2007 đã tăng lên tới 56,5 nghìn tỷ đồng. Và theo
kết quả công bố Dự toán NSNN năm 2010 và 2011 thì tỉ lệ thâm hụt ngân
sách lần lượt sẽ là 6.2% GDP và 5,3% GDP, có giảm so với năm 2009 nhưng
vẫn còn ở mức cao. Ngoài ra, những khoản chi ngoài ngân sách trong mấy
năm gần đây lên tới 20 – 25 % tổng ngân sách. Một tỉ quá cao.
Tuy nhiên, theo một số chuyên gia và tổ chức kinh tế trên thế giới thì
những con số trên còn lớn hơn nhiều. Cụ thể, theo chuyên gia tư vấn quốc tế
Jitendra Modi thì tỉ lệ thâm hụt ngân sách ở Việt Nam năm 2007 phải là
6.9% GDP thay vì con số xấp xỉ 5% GDP như báo cáo của Chính phủ đã
trước Quốc hội. Trong cuộc họp Hội nghị Nhóm tư vấn cho Việt Nam được
tổ chức tại Kiên Giang, thì đại diện của Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF cho biết
mức thâm hụt năm 2009 đã lên tới 9% GDP, theo cách tính của IMF. Tỷ lệ
này cao hơn nhiều so với mức Việt Nam công bố chỉ là 6,9% GDP. Đối với
IMF, rõ ràng đó là một mức thâm hụt "lớn" và "không bền vững". Mức
chênh lệch giữa 2 cách tính gần 2% GDP nếu quy đổi ra con số tuyệt đối sẽ
lên đến hàng nghìn tỷ đồng – một con số quá lớn trong điều kiện phải kiểm
soát và thắt chặt chi tiêu như hiện nay. Tình hình thâm hụt ngân sách ở Việt
Nam hiện nay đang diễn ra hết sức phức tạp.
Dưới đây là biểu đồ so sánh thâm hụt ngân sách của Việt Nam và một
số nước trong khu vực (2001 - 2007)
Thâm hụt ngân sách của Việt Nam và một số nước (2001 - 2007)
V Lâm Báchũ 9
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
Nguồn: Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)
Biểu đồ cho thấy tình trạng thâm hụt ở nước ta có xu hướng ngày
càng gia tăng và cao hơn các nước trong khu vực.

II – BỘI CHI NGÂN SÁCH VÀ MỐI LIÊN HỆ ĐẾN LẠM PHÁT VÀ MẤT
CÂN ĐỐI VĨ MÔ:
Thâm hụt ngân sách và lạm phát cùng mất cân đối vĩ mô có mối quan
hệ mật thiết với nhau.Nguyên nhân của lạm phát cao về cơ bản có một phần
quan trọng là do chính sách tài khóa quá lỏng lẻo mà thể hiện cụ thể qua mức
thâm hụt NSNN tăng liên tục qua các năm.
Giai đoạn trước năm 1986, tình hình tài chính nước ta trong tình trạng
yếu kém, thu không đủ chi thường xuyên, thâm hụt NSNN cao quá mức, chi
tiêu Chính phủ chủ yếu nhờ vào sự viện trợ của nước ngoài là chính. Đến
giai đoạn từ năm 1986-1990, trước tình hình khó khăn về kinh tế và chính trị,
Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu đã cắt giảm dần viện trợ của họ cho
nước ta. Trước tình hình khó khăn đó, Đảng ta tiến hành đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang
cơ chế thị trường có định hướng XHCN. Với những bước đi chập chững ban
đầu, chính sách tài chính đã có đổi mới một bước. Tuy nhiên, thu NSNN
càng không đủ chi và bù đắp thâm hụt NSNN không chỉ phải vay trong và
ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát hành.
V Lâm Báchũ 10
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
Chính yếu kém về NSNN nêu trên, là một yếu tố quan trọng gây nên
lạm phát trong thập kỉ 80 của thế kỉ XX. Chi NSNN đã tăng cao tới mức
bùng nổ ở trong những năm 1985-1988, đã gây ra thâm hụt NSNN trầm
trọng vì không có sự tăng lên tương ứng về số thu. Giai đoạn từ năm 1986 –
1990, khi mà tỷ lệ tích luỹ nội bộ nền kinh tế rất thấp (có thể nói là không
đáng kể), làm không đủ ăn thì tỷ lệ chi đầu tư phát triển như ở đồ thị 1 là quá
lớn và nguồn bù đắp cho thâm hụt NSNN lại chủ yếu do tiền phát hành thì
lạm phát cao là điều khó tránh khỏi.
Đồ thị 1: Tổng bội chi NSNN và tiền phát hành để bù đắp bội chi NSNN
(1985 – 1990)
Đơn vị: Tỷ đồng

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Trong thời gian 5 năm 1986 – 1990, mức thâm hụt này một phần được
hệ thống Ngân hàng thanh toán bằng cách phát hành tiền cụ thể qua bảng
sau:
Mức phát hành tiền để bù đắp thâm hụt NSNN (1984 – 1990)
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Mức phát hành tiền
để bù đắp thâm
hụt NSNN
1984 0.4
1985 9.3
1986 22.9
1987 89.2
1988 450
1989 1655
1990 1200
V Lâm Báchũ 11
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Số còn lại được bù đắp bằng các khoản vay nợ và viện trợ của nước ngoài và một số
nhỏ do các khoản thu từ bán công trái trong nước.
Tỉ lệ % các khoản vay nợ và viện trợ nước ngoài so với thâm hụt (1984 – 1990)
Đơn vị: %
Năm
Tỉ lệ % các khoản vay
nợ và viện trợ so với
thâm hụt
1984 71.3
1985 40.8

1986 38.4
1987 32.1
1988 32.6
1989 24.9
1990 46.7
Mặc dù có nhiều cố gắng đáng kể trong năm 1989, nhưng tình trạng
thiếu hụt NSNN vẫn trầm trọng. Tổng chi đã tăng gấp đôi so với năm 1988,
một phần do lạm phát chuyển từ năm 1988 sang và đã làm tăng giá đáng kể
một số mặt hàng và dịch vụ thiết yếu do Nhà nước cung cấp. Tất cả những
phân tích ở trên cho thấy, có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát cao trong
giai đoạn từ năm 1986-1990, trong đó có việc bù đắp thâm hụt NSNN bằng
sự phát hành tiền như ở đồ thị 1.
Bước vào giai đoạn từ năm 1991-1995, tình hình đất nước đã có nhiều
chuyển biến tích cực, sản xuất và lưu thông hàng hoá đã có động lực mới,
tình trạng thiếu lương thực đã được giải quyết căn bản, lạm phát siêu mã đã
được đẩy lùi, nhưng lạm phát cao vẫn còn. Cơ cấu chi NSNN đã dần dần
thay đổi theo hướng tích cực. Nguồn thu trong nước đã đủ cho chi thường
xuyên, tình trạng đi vay hoặc dựa vào phát hành cho chi thường xuyên đã
chấm dứt. Trong giai đoạn này, chi đúng đối tượng, có hiệu quả, thúc đẩy
phát triển kinh tế – xã hội được đặt ra. Nhờ những giải pháp trên, số thâm hụt
NSNN đã giảm dần qua từng năm và được bù đắp bằng vay của dân và vay
nước ngoài. Trong giai đoạn từ năm 1991-1995, tỷ lệ thâm hụt NSNN so với
GDP chỉ ở mức 1,4% đến 4,17% (1991: 1,4%, 1992:1,5%, 1993: 3,9%,
V Lâm Báchũ 12
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
1994: 2,2% và năm 1995 là 4,17%). Như vậy, có thể thấy thâm hụt NSNN
trong những năm 1991-1995 là rất thấp, thể hiện chính sách thắt chặt chi tiêu
của Chính phủ trong thời kỳ này và đây cũng là yếu tố rất quan trọng góp
phần kiềm chế lạm phát.
Giai đoạn từ năm 1996-2000, tình hình thu chi NSNN đã có nhiều

chuyển biến tích cực, thu không những đủ chi thường xuyên mà còn cho đầu
tư phát triển, thâm hụt NSNN được khống chế ở mức thấp. Tuy nhiên, giai
đoạn từ năm 1996-2000, do tác động của khủng hoảng tài chính ở các nước
Đông Nam Á nên nền kinh tế có gặp không ít khó khăn. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế giảm dần từ năm 1996 đến năm 1999 và đến năm 2000, tốc độ này
mới tăng lên chút ít, chặn đứng đà giảm sút. Trong những năm này, tỷ lệ
thâm hụt NSNN ở mức từ 3,0% GDP năm 1996 lên 4,95% GDP năm 2000
(năm 1996: 3%, năm 1997: 4,05%, năm 1998: 2,49%, năm 1999: 4,37%,
năm 2000: 4,95%). Tỷ lệ thâm hụt bình quân 5 năm là 3,87% GDP, cao hơn
mức bình quân năm 1991-1995 (2,63%). Năm 2000 có mức thâm hụt cao
nhất là 4,95% GDP và năm 1998 có mức thâm hụt thấp nhất là 2,49%. Đây
là thời kỳ suy thoái và thiểu phát, nên mức thâm hụt NSNN như trên không
tác động gây ra lạm phát mà có tác động làm cho nền kinh tế chuyển sang
giai đoạn đi lên.
Giai đoạn từ năm 2001-2007, NSNN cũng đã có chuyển biến đáng kể.
Tốc độ tăng thu hằng năm bình quân là 18,8%. Tốc độ tăng chi bình quân
hằng năm đạt 18,5%. Thâm hụt NSNN trong giai đoạn này về cơ bản đuợc
cân đối ở mức 5% GDP và thực hiện ở mức 4,9%-5% GDP. Nếu chỉ xét ở tỷ
lệ so với GDP, cũng thấy thâm hụt NSNN trong 7 năm trở lại đây tăng cao
hơn các năm trước đó khá nhiều (bình quân khoảng 4,95% GDP) vì giai đoạn
năm 1991-1995, mức thâm hụt NSNN so với GDP chỉ ở mức 2,63% và giai
đoạn từ năm 1996-2000 ở mức 3,87% so với GDP.
Thực tế trong các năm qua, từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng thâm
hụt NSNN là khá cao, ở mức 17-18%/ năm. Tốc độ này nếu trừ đi yếu tố
tăng trưởng thì còn cao hơn tỷ lệ lạm phát hằng năm (năm 2001: 0,2%; năm
V Lâm Báchũ 13
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
2002: 1,6%; năm 2003: 9,7%; năm 2004: 8,1%; năm 2005: 9,0%; năm 2006:
11,1%; năm 2007: 7,8%).
Đồ thị 2: Bội chi NSNN so với GDP

Đơn vị: %

Nguồn: Bộ Tài chính
Nếu chỉ xem xét thâm hụt NSNN so với GDP thì chưa thấy hết sự
tăng lên của nó trong những năm gần đây; đặc biệt những năm gần đây,
ngoài NSNN được cân đối, đã có một lượng vốn lớn được đưa ra đầu tư các
công trình giao thông và thuỷ lợi thông qua hình thức phát hành trái phiếu
Chính phủ không cân đối vào NSNN. Ngoài ra, phải kể đến lượng công trái
giáo dục được phát hành để thu hút tiền cho đầu tư kiên cố hoá trường lớp
học cũng là một lượng tiền lớn cân đối ngoài NSNN. Nếu cộng cả hai loại
trên vào cân đối NSNN, thâm hụt NSNN trong những năm qua không phải
chỉ 5% GDP mà cao hơn (khoảng 5,8-6,2% GDP).
Thực tế trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm soát thâm
hụt NSNN từ hai nguồn là vay nước ngoài và vay trong nước nên sức ép tăng
tiền cung ứng thêm ra thị trường là không có, nhưng sức ép tăng chi tiêu của
Chính phủ cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư là tăng lên.
Có thể thấy, chính sách tài khoá trong những năm qua có phần nới
lỏng như những năm chúng ta đang phải kích cầu đầu tư. Nếu so sánh tổng
chi NSNN so với GDP trong những năm qua cho thấy, NSNN đã chi một
khối lượng lớn tiền tệ không chỉ ở số tuyệt đối mà cả ở số tương đối.
Như trên đã phân tích, thâm hụt NSNN tăng cao thể hiện chính sách
tài khoá lỏng lẻo, nói lên sự chi tiêu của Chính phủ cho đầu tư và thường
V Lâm Báchũ 14
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
xuyên vượt quá mức có thể của nền kinh tế. Nếu như bù đắp thâm hụt NSNN
bằng phát hành thêm tiền thì trực tiếp tác động gây ra lạm phát, vì đã làm
tăng cung tiền tệ nhiều hơn cầu tiền tệ trên thị trường như giai đoạn từ năm
1986-1990. Tuy nhiên, việc bù đắp thâm hụt NSNN bằng nguồn huy động từ
bên ngoài và từ trong nước về cơ bản, cũng tăng cung tiền vào thị trường
trong nước. Điều này, có thể giải thích là do phần huy động từ vay nước

ngoài đã làm tăng cung lượng tiền vào thị trường trong nước, vì số tiền vay
nước ngoài về để bù đắp thâm hụt NSNN phải đổi ra VND để chi tiêu trên cơ
sở bán cho NHNN là chính, mà NHNN lại phát hành tiền ra để mua ngoại tệ
là cơ bản. Đây chính là phần làm cho lạm phát tăng lên nếu lượng vay từ bên
ngoài vào bù đắp thâm hụt NSNN quá lớn. Thực tế trong những năm qua,
lượng vay tiền từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt NSNN chiếm khoảng 1/3 số
thâm hụt, tức là khoảng 1,5%-1,7% so với GDP. Nếu cộng thêm cả phần vay
về cho vay lại, lượng tiền từ bên ngoài vào nền kinh tế nước ta qua bù đắp
thâm hụt NSNN khoảng 2%-2,5% GDP. Đây chính là một nguyên nhân gây
ra lạm phát cao của nước ta trong năm 2007 và các tháng đầu năm 2008. Qua
đồ thị 3 cho thấy, chi NSNN đã tăng từ 27% GDP năm 2001 lên 40,4% năm
2007 là một con số khá lớn trong chi tiêu của Chính phủ.
Đồ thị 3: Chi NSNN so với GDP từ 2001 – 2007 (Đơn vị: %)
Nguồn: Bộ Tài chính
Còn phần bù đắp thâm hụt NSNN từ nguồn vay trong dân về cơ bản,
chỉ thu tiền từ trong lưu thông vào NSNN và sau đó, lại chuyển ra lưu thông
nên không làm tăng lượng tiền cơ bản trên thị trường mà chỉ làm cho vòng
V Lâm Báchũ 15
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
quay tiền tệ có thể tăng nhanh hơn, tạo ra hệ số nở tiền cao hơn mức cần
thiết. Điều này, cũng tạo ra tăng cung tiền tệ do vòng quay tiền tệ lớn, có tạo
ra tác động một phần gây ra lạm phát, nhưng không lớn bằng trực tiếp phát
hành tiền ra và vay vốn từ bên ngoài để bù đắp thâm hụt NSNN.
Nhìn lại quá trình những năm trước đây có thể thấy, chúng ta đã thực
hiện một chính sách tài khoá lỏng lẻo thể hiện tỷ lệ thâm hụt NSNN bằng
khoảng 5% GDP hằng năm, cộng với đó là phát hành trái phiếu, công trái
giáo dục cho đầu tư. Hơn nữa, chúng ta cũng đã có lúc phát hành tiền ra để
kích cầu đầu tư, đầu tư cho một số công trình lớn, phát hành tiền cho một số
công việc… mà chưa thống kê hết. Đây chính là sự tích tụ tiền tệ các năm
trước đó góp một phần làm cho lượng tiền tệ trong lưu thông tăng cao, thể

hiện ở tốc độ tăng hệ số tạo tiền của nền kinh tế nước ta tăng trên 10% hằng
năm và tăng 79,2% năm 2007 so với năm 2001, trong khi cũng chỉ tiêu này
các nước chỉ tăng 1-3%/năm và tăng 10%-15% năm 2007 so với năm 2001.
Việc gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ có thể dẫn đến giảm tiết kiệm nội
địa, giảm đầu tư tư nhân, hay gia tăng thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Ở
Việt Nam, mặc dù thâm hụt ngân sách tăng đột biến trong năm 2007 chưa
làm suy giảm tiết kiệm nội địa và đầu tư tư nhân nhưng nó đã làm tăng mức
thâm hụt tài khoản vãng lai, từ -0,5% năm 2006 lên tới -8% năm 2007.
Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài còn làm xói mòn niềm tin đối với
năng lực điều hành vĩ mô của chính phủ. Nó cũng làm tăng mức lạm phát kỳ
vọng của người dân và của các nhà đầu tư vì họ cho rằng Chính phủ trước
sau gì cũng sẽ phải in thêm tiền để tài trợ thâm hụt. Tóm lại, thâm hụt ngân
sách cao kéo dài sẽ đe dọa sự ổn định vĩ mô, và do vậy, khả năng duy trì tốc
độ tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế.
V Lâm Báchũ 16
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
Chương III
GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH
VIỆT NAM
I – CÁC BIỆN PHÁP GIẢM THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:
Để khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách, tùy theo bối cảnh, tình
hình kinh tế từng nước mà người ta có thể sử dụng một, hai hay nhiều biện
pháp cùng kết hợp với nhau như:
- Tăng thu giảm chi
- Vay nợ trong nước
- Vay nợ ngoài nước
- Sử dụng dự trữ ngoại tệ
- Phát hành tiền
Trong đó biện pháp thứ nhất thường bị coi là khá “bảo thủ” vì nó
nhằm vào việc các giảm chi tiêu. Do đó, biện pháp này sẽ bị các ban ngành,

địa phương hoặc đơn vị có ngân sách dự kiến bị cắt giảm lên tiếng phàn đối,
cản trở hoặc tìm cách gian lận, đồng thời tổng nhu cầu xã hội cũng bị co hẹp
lại.
V Lâm Báchũ 17
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
Trong khi ngược lại, ba biện pháp còn lại được xem như là những
biện pháp “cấp tiến” vì nó không trực tiếp cắt giảm quyền lợi của bất kỳ bộ
phận nào trong xã hội. Mặt khác nó lại hướng vào việc tăng nguồn tài chính
cho nên khá dễ triển khai.
Sau đây chúng ta sẽ đi vào phân tích từng biện pháp cụ thể để thấy được ưu
điểm cũng như nhược điểm của từng biện pháp và biện pháp nào sẽ mang lại
hiệu quả cao hơn?
1. Biện pháp tăng thu giảm chi:
Đây là biện pháp mà Chính phủ bằng những quyền hạn và nhiệm vụ
được giao, tính toán hợp lý để tăng các khoản thu như thu từ Thuế và cắt
giảm chi tiêu. Tuy vậy, vấn đề đặt ra là phải tính toán số tăng thu và giảm chi
thế nào để gây ảnh hưởng ít nhất đến tăng trưởng kinh tế.
Đặt trong bối cảnh chống lạm phát nên chính sách ngân sách (hay
chính sách tài khóa) của Chính phủ trong thời gian qua chỉ hướng đến mục
đích giảm chi tiêu công (gồm đầu tư công và chi thường xuyên) và qua đó
giảm tổng cầu. Cụ thể là Chính phủ chỉ thị: (i) Cắt giảm nguồn đầu tư từ
ngân sách và tín dụng nhà nước; (ii) Rà soát và cắt bỏ các hạng mục đầu tư
kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước (DNNN); (iii) Cắt giảm chi thường
xuyên của bộ máy nhà nước các cấp.
Tổng đầu tư của Nhà nước (từ ngân sách, tín dụng nhà nước và thông
qua DNNN) luôn chiếm trên dưới 50% tổng đầu tư của toàn xã hội. Vì vậy,
không nghi ngờ gì, nếu Nhà nước có thể cắt giảm một số khoản đầu tư kém
hiệu quả và có thứ tự ưu tiên thấp thì sức ép gia tăng lạm phát chắc chắn sẽ
nhẹ đi. Cũng tương tự như vậy, lạm phát cũng sẽ được kiềm chế bớt nếu các
cơ quan nhà nước có thể cắt giảm chi thường xuyên (chiếm 56% tổng chi

ngân sách năm 2007).
Cấu trúc đầu tư toàn xã hội (1995 - 2007)
V Lâm Báchũ 18
Tiểu luận Lý thuyết tài chính

Nguồn: GSO, MPI
Mặc dù chính sách cắt giảm chi tiêu công là hoàn toàn đúng đắn, song
hiệu lực của những biện pháp cụ thể đến đâu thì còn chưa chắc chắn vì ít
nhất có bốn lý do:
Thứ nhất, việc cắt giảm, thậm chí giãn tiến độ đầu tư công không hề
dễ dàng, nhất là khi những dự án này đã được các cơ quan lập pháp các cấp
quyết định; đã được đưa vào quy hoạch của các bộ, ngành, địa phương; đã
được triển khai; và nhất là khi chúng gắn với lợi ích thiết thân của những cơ
quan liên quan đến dự án.
Thứ hai, Nhà nước hầu như không thể kiểm soát các khoản đầu tư
của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), một mặt là do chính sách phân cấp
trong quản lý đầu tư, và mặt khác là do một số tập đoàn lớn đã tự thành lập
ngân hàng riêng.
Thứ ba, với tốc độ lạm phát như hiện nay thì chỉ cần giữ được tổng
mức đầu tư công theo đúng dự toán cũng đã được coi là một thành tích đáng
kể.
Thứ tư, kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng vì việc giảm chi thường
xuyên rất khó khăn nên đây thường là hạng mục cuối cùng nằm trong danh
sách cắt giảm. Hơn thế, với thực tế ở Việt Nam thì phạm vi chi thường xuyên
có thể cắt giảm không nhiều. Đầu tiên là phải trừ đi quỹ lương (chiếm
khoảng 2/3 tổng chi thường xuyên), sau đó phải trừ đi các khoản phụ cấp có
tính chất lương, chi chính sách chế độ, tiền đóng niêm liễn cho các tổ chức
quốc tế, các khoản chi thường xuyên đã được thực hiện…
V Lâm Báchũ 19
Tiểu luận Lý thuyết tài chính

Theo ước lượng của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì nếu làm
thật quyết liệt thì sẽ giảm được khoảng 3.000 tỉ đồng chi hội họp và mua sắm
xe - tức là giảm được khoảng 0,8% tổng chi ngân sách.
 Giảm thâm hụt ngân sách bằng cơ chế quản lý đầu tư công
Chính sách giảm tổng cầu thông qua thắt chặt chi tiêu công là đúng
đắn, cần thiết nhưng chưa đủ. Nỗ lực giảm chi tiêu công của Chính phủ chỉ
thực sự có hiệu lực nếu như Chính phủ đồng thời có cơ chế để đảm bảo
những khoản đầu tư còn lại có hiệu quả. Đầu tiên là phải có cơ chế quản lý
đầu tư công sao cho những dự án kém hiệu quả (như chương trình 5 triệu tấn
đường hay đánh bắt xa bờ) bị loại bỏ ngay từ đầu. Sau đó, phải đảm bảo dự
án được tiến hành đúng tiến độ và không bị thất thoát, lãng phí (như dự án
112 và các dự án đầu tư xây dựng cơ bản - được ước lượng là thất thoát trung
bình 30%).
Một trong những biện pháp có thể được sử dụng để cải thiện cơ chế
quản lý đầu tư công là thành lập một hội đồng thẩm định đầu tư công độc
lập. Một nguyên nhân quan trọng của tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu
tư công là do quá trình ra quyết định đầu tư của chính quyền địa phương và
các bộ ngành chủ quản chịu ảnh hưởng của các nhóm lợi ích và do vậy thiếu
khách quan. Vì vậy, nhiệm vụ của ủy ban độc lập này là đánh giá, thẩm định
một cách toàn diện và khách quan các dự án có quy mô vượt quá một quy
mô đầu tư nhất định nào đó. Kết luận của Hội đồng thẩm định này sau đó
được công bố rộng rãi. Tương tự như vậy, báo cáo kiểm toán các DNNN và
dự án đầu tư công lớn cũng phải được công khai.
Để thu hẹp thâm hụt ngân sách thì song song với việc giảm chi tiêu,
Chính phủ cũng cần cải thiện các nguồn thu ngân sách, tránh tình trạng ngân
sách phụ thuộc quá nhiều (tới hơn 40%) vào các nguồn thu không bền vững
từ dầu mỏ và thuế nhập khẩu như hiện nay. Khi Việt Nam gia nhập WTO thì
hàng rào thuế quan và phi thuế quan thì việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo
các cam kết WTO và tham gia các khu vực mậu dịch tự do sẽ ảnh hưởng
nhiều đến nguồn thu ngân sách. Điều này cũng dễ hiểu khi số thu thuế xuất

V Lâm Báchũ 20
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
nhập khẩu của Việt Nam hiện chiếm một tỷ trong khá lớn so với các nước
đang phát triển; khoảng 13% tổng thu ngân sách từ phí và lệ phí. Bộ Tài
chính đã dự tính, việc cắt giảm thuế sẽ làm giảm khoảng 10% số thu từ hoạt
động xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, dưới tác động gián tiếp của cắt giảm
thuế, tính ổn định và bền vững của thu ngân sách sẽ bị ảnh hưởng. Số thu từ
khu vực kinh tế trong nước, nhất là từ các doanh nghiệp nhà nước sẽ bị ảnh
hưởng mạnh do tác động của cạnh tranh quốc tế và quá trình cải cách doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và những thay đổi thị
trường trong quá trình hội nhập cũng sẽ thay đổi nguồn thu.
Cải cách thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân (hiện chiếm 2% tổng
ngân sách của Việt Nam trong khi con số này ở các nền kinh tế hiện đại đều
lớn hơn 20%) và thuế bất động sản. Thật bất công và kém hiệu quả khi nhiều
người sau một đêm trở thành triệu phú nhờ vào việc Nhà nước đầu tư cơ sở
hạ tầng (CSHT) tại nơi họ có bất động sản, trong khi lại không phải đóng
góp gì cho ngân sách nhà nước.
Áp dụng thuế bất động sản đúng đắn là một cách đảm bảo sự bền
vững cho ngân sách nhà nước, đồng thời giúp Nhà nước thực hiện được các
chương trình đầu tư CSHT vì quốc kế dân sinh.
2. Vay nợ trong nước:
Vay nợ trong nước được Chính phủ thực hiện dưới hình thức phát
hành công trái, trái phiếu. Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi nhận
nợ của nhà nước, là một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát
hành để vay các dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội và các ngân hàng. Ở
Việt Nam, Chính phủ thường uỷ nhiệm cho Kho bạc nhà nước phát hành trái
phiếu dưới các hình thức: tín phiếu kho bạc; trái phiếu kho bạc; trái phiếu
công trình.
Năm
Số tiền vay trong nước

để bù đắp thâm hụt NSNN
(đơn vị tính: tỷ đồng)
2000 15,370
V Lâm Báchũ 21
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
2002 18,382
2003 22,895
2004 27,450
2005 32,420
2006 36,000
2007 43,000
2008 51,200
2009 88,520
2010
(ƯTH lần 1)
39,060
Ưu điểm: Đây là biện pháp cho phép Chính phủ có thể duy trì việc
thâm hụt ngân sách mà không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ
quốc tế. Vì vậy, biện pháp này được coi là một cách hiệu quả để kiềm chế
lạm phát.
Hạn chế: Việc tài trợ thâm hụt ngân sách nhà nước bằng nợ tuy
không gây ra lạm phát trước mắt nhưng nó lại có thể làm tăng áp lực lạm
phát trong tương lai nếu như tỷ lệ nợ trong GDP liên tục tăng. Thứ nữa, việc
vay từ dân trực tiếp sẽ làm giảm khả năng của khu vực tư nhân trong việc
tiếp cận tín dụng và gây sức ép làm tăng lãi suất trong nước.
Đặc biệt, ở những nước trải qua giai đoạn lạm phát cao (như nước ta
hiện nay), giá trị thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng, làm cho
chúng trở nên ít hấp dẫn. Chính phủ có thể sử dụng quyền lực của mình để
buộc các chủ thể khác trong nền kinh tế phải giữ trái phiếu, tuy nhiên, nếu
việc này có dài có thể gây ảnh hướng nghiêm trọng đến uy tín của Chính phủ

và khiến cho việc huy động vốn thông qua kênh này sẽ trở nên khó khăn hơn
vào các năm sau.
3. Vay nợ nước ngoài:
Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng các nguồn vốn nước
ngoài thông qua việc nhận viện trợ nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài từ
các chính phủ nước ngoài, các định chế tài chính thế giới như Ngân hàng
Thế giới (WB – World Bank), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF – International
Monetary Fund), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB – Asian Development
Bank), các tổ chức liên chính phủ, tổ chức quốc tế
V Lâm Báchũ 22
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các tổ
chức liên chính phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho chính phủ của một
nước nhằm thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và
hiện nay chủ yếu là nguồn vốn phát triển chính thức ODA (Official
Development Assistance)
Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái
phiếu bằng ngoại tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng
Năm
Số tiền vay nước ngoài
để bù đắp thâm hụt NSNN
(đơn vị tính: tỷ đồng)
2000 6630
2002 7,215
2003 7,041
2004 7,253
2005 8,326
2006 12,500
2007 13,500
2008 15,000

2009 27,380
2010
(ƯTH lần 1)
20,050
Ưu điểm: nó là một biện pháp tài trợ ngân sách nhà nước hữu hiệu, có
thể bù đắp được các khoản thâm hụt mà lại không gây sức ép lạm phát cho
nền kinh tế. Đây cũng là một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn
thiếu hụt trong nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Nhược điểm: Nó sẽ khiến cho gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng
lên, giảm khả năng chi tiêu của chính phủ. Đồng thời, nó cũng dễ khiến cho
nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào nước ngoài. Thậm chí, nhiều khoản vay,
khoản viện trợ còn đòi hỏi kèm theo đó là nhiều các điều khoản về chính trị,
quân sự, kinh tế khiến cho các nước đi vay bị phụ thuộc nhiều.
4. Sử dụng dự trữ ngoại tệ:
V Lâm Báchũ 23
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
Quỹ dự trữ ngọai tệ là lượng ngoại tệ mà ngân hàng trung ương hoặc
cơ quan hữu trách tiền tệ của một quốc gia hoặc một lãnh thổ nắm giữ dưới
dạng ngoại tệ nhằm thanh toán quốc tế hoặc hỗ trợ đồng tiền quốc gia. Chính
phủ có thể sử dụng việc giảm dự trữ ngoại tệ để tài trợ thâm hụt ngân sách.
Ưu điểm của việc này là dự trữ hợp lý có thể giúp quốc gia tránh được
khủng hoảng.
Tuy nhiên, Nhược điểm việc sử dụng quỹ dự trữ ngoại tệ để tài trợ
thâm hụt ngân sách lại tiềm ẩn nhiều rủi ro và phải hết sức hạn chế sử dụng.
Vì nếu khu vực tư nhân cho rằng nguồn dự trữ ngoại tệ của quốc gia hết sức
mỏng mảnh, thì sự mất niềm tin vào khả năng mà chính phủ có thể can thiệp
vào thị trường ngoại hối có thể dẫn đến một dòng vốn ồ ạt chảy ra thế giới
bên ngoài, làm cho đồng nội tệ giảm mạnh giá và làm tăng sức ép lạm phát.
Kết hợp với việc vay nợ nước ngoài ở trên, việc giảm quỹ dự trữ ngoại tệ
cũng sẽ khiến cho tỷ giá hối đoái tăng, làm suy yếu sức cạnh tranh quốc tế

của hàng hoá trong nước.
5. Phát hành tiền:
Chính phủ khi bị thâm hụt ngân sách sẽ đi vay Ngân hàng Trung ương
để bù đắp. Để đáp ứng nhu cầu này, tất nhiên, Ngân hàng trung ương sẽ tăng
việc in tiền. Điều này sẽ tạo ra thêm cơ sở tiền tệ. Chính vì vậy, nó được gọi
là tiền tệ hoá thâm hụt.
Ưu điểm của biện pháp này là nhu cầu bù tiền để bù đắp ngân sách
nhà nước được đáp ứng một cách nhanh chóng, không phải trả lãi, không
phải gánh thêm các gánh nặng nợ nần.
Nhưng, nhược điểm của biện pháp này lại lớn hơn rất nhiều lần. Việc
in thêm và phát hành thêm tiền sẽ khiến cho cung tiền vượt cầu tiền. Nó đẩy
cho việc lạm phát trở nên không thể kiểm soát nổi. Trong những năm 80 của
thế kỷ 20, nước ta đã bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước bằng cách in thêm
tiền đưa vào lưu thông. Việc này đã đẩy tỷ lệ lạm phát đỉnh điểm lên tới hơn
600%, nền kinh tế bị trì trệ Chính vì những hậu quả đó, biện pháp này rất
V Lâm Báchũ 24
Tiểu luận Lý thuyết tài chính
ít khi được sử dụng. Và từ năm 1992, nước ta đã chấm dứt hoàn toàn việc in
tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước.
Tóm lại mỗi, giải pháp cho thâm hụt ngân sách NSNN đều có những
ưu điểm và nhược điểm riêng. Không một giải pháp nào chỉ có toàn ưu điểm
và cũng không tồn tại giải pháp nào thuần túy là nhược điểm. Do vậy cần
phối hợp sử dụng đồng thời các giải pháp với những “liều lượng” hợp lý, phù
hợp với từng giai đoạn phát triển và bối cảnh nền kinh tế nhằm phát huy tối
đa tác dụng của mỗi giải pháp.
II – NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC XỬ LÝ THÂM HỤT NSNN Ở
VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ
1. Những vấn đề đặt ra trong việc xử lý thâm hụt ngân sách NSNN ở Việt
Nam:
Thực tế trong những năm qua, chúng ta đã kiểm soát được mức thâm

hụt NSNN ở giới hạn cho phép (không quá 5% GDP/năm) và nguồn vay chủ
yếu chi đầu tư phát triển. Ngoài ra, chúng ta cũng tích lũy được một phần từ
nguồn thu thuế, phí, lệ phí chi đầu tư phát triển. Đây là những thành công
bước đầu đáng ghi nhận trong công tác quản lý cân đối NSNN cũng như
kiểm soát vấn đề thâm hụt NSNN. Tuy nhiên, trong quá trình xử lý thâm hụt
NSNN, đặc biệt trong tình hình hiện nay khi vấn đề lạm phát đang gây ra
những khó khăn rất lớn cho nền kinh tế và đời sống nhân dân, chúng ta cần
lưu ý đến những vấn đề sau trong việc xử lý thâm hụt NSNN:
- Sự thiếu hụt ngân sách do nhu cầu vốn tài trợ cho sự phát triển nền
kinh tế quá lớn đòi hỏi phải đi vay để bù đắp. Điều này được thể hiện qua
việc chúng ta chỉ vay để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình
trọng điểm quốc gia phục vụ lợi ích phát triển của đất nước. Nhưng, trên
thực tế số tiền vay, đặc biệt của nước ngoài, chưa được quản lý chặt chẽ.
Tình trạng đầu tư dàn trải ở các địa phương vẫn chưa được khắc phục triệt
để, tiến độ thi công những dự án trọng điểm quốc gia còn chậm và thiếu hiệu
quả. Chính vì vậy, các khoản đầu tư phát triển lấy từ nguồn vốn vay (cả
V Lâm Báchũ 25

×