PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ THỰC TRẠNG PHÂN CẤP
QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
I. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước:
1. Sự cần thiết và tác dụng:
Chế độ phân cấp và quản lý ngân sách ở nước ta ra đời từ năm 1967, tới nay đã
qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định
nhằm giải quyết nhiều vấn đề phát sinh trong quan hệ giữa ngân sách trung ương
và chính quyền các cấp trong quản lý NSNN.
NSNN được phân cấp quản lý giữa Chính phủ và các cấp chính quyền địa
phương là tất yếu khách quan khi tổ chức hệ thống NSNN gồm nhiều cấp. Điều đó
không chỉ bắt nguồn từ cơ chế kinh tế mà còn từ cơ chế phân cấp quản lý về hành
chính. Mỗi cấp chính quyền đều có nhiệm vụ cần đảm bảo bằng những nguồn tài
chính nhất định mà các nhiệm vụ đó mỗi cấp đề xuất và bố chí chi tiêu sẽ hiệu quả
hơn là có sự áp đặt từ trên xuống. Mặt khác, xét về yếu tố lịch sử và thực tế hiện
nay, trong khi Đảng và Nhà nước ta đang chống tư tưởng địa phương, cục bộ …
vẫn cần có chính sách và biện pháp nhằm khuyến khích chính quyền địa phương
phát huy tính độc lập, tự chủ, tính chủ động, sáng tạo của địa phương mình trong
quá trình phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Có một số khoản thu như: tiền cho
thuê mặt đất, mặt nước đối với doanh nghiệp, tiền cho thuê và tiền bán nhà thuộc
sở hữu Nhà nước, lệ phí trước bạ, thuế môn bài,…giao cho địa phương quản lý sẽ
hiệu quả hơn.
Phân cấp quản lý NSNN là cách tốt nhất để gắn các hoạt động của NSNN với
cac hoạt động kinh tế, xã hội một cách cụ thể và thực sự nhằm tập trung đấy đủ và
kịp thời, đúng chính sách, chế độ các nguồn tài chính quốc gia và phân phối sử
dụng chúng công bằng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả cao, phục vụ các mục tiêu,
nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Phân cấp quản lý NSNN đúng đắn
và hợp lý không chỉ đảm bảo phương tiện tài chính cho việc duy trì và phát triển
hoạt động của các cấp chính quyền ngân sách từ trung ương đến điah phương mà
còn tạo điều kiện phát huy được các lợi thế nhiều mặt của từng vùng, từng địa
phương trong cả nước. Nó cho phép quản lý và kế hoạch hoá NSNN được tốt hơn,
điều chỉnh mối quan hệ giữa các cấp chính quyền cũng như quan hệ giữa các cấp
ngân sách được tốt hơn để phát huy vai trò là công cụ điều chỉnh vĩ mô của
NSNN. Đồng thời, phân cấp quản lý NSNN còn có tác động thúc đẩy phân cấp
quản lý kinh tế, xã hội ngày càng hoàn thiện hơn.
Tóm lại phân cấp ngân sách đúng đắn và hợp lý, tức là việc giải quyết mối quan
hệ giữa chính quyền Nhà nước trung ương và các cấp chính quyền địa phương
trong việc xử lý các vấn đề hoạt động và điều hành NSNN đúng đắn và hợp lý sẽ
là một giải pháp quan trọng trong quản lý NSNN.
2. Khái niệm và các nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN.
Phân cấp quản lý NSNN là việc giải quyết mối quan hệ giữa các cấp chính
quyền Nhà nước về vấn đề liên quan đến việc quản lý và điều hành NSNN.
Để chế độ phân cấp quản lý mang lại kết quả tốt cần phải tuân thủ các nguyên
tắc sau đây:
Một là: phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế, xã hội của đất nước. Phân cấp
quản lý kinh tế, xã hội là tiền đề, là điều kiện để thực hiện phân cấp quản lý
NSNN. Quán triệt nguyên tắc này tạo cơ sở cho việc giải quyết mối quan hệ vật
chất giữa các cấp chính quyền qua việc xác định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi của
các cấp. Thực chất của nguyên tắc này là giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ và
quyền lợi, quyền lợi phải tương xứng với nhiệm vụ được giao. Mặt khác, nguyên
tắc này còn đảm bảo tính độc lập tương đối trong phân cấp quản lý NSNN ở nước
ta.
Hai là: ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn lực cơ
bản để đảm bảo thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả nước. Cơ sở của
nguyên tắc này xuất phát từ vị trí quan trọng của Nhà nước trung ương trong quản
lý kinh tế, xã hội của cả nước mà Hiến pháp đã quy định và từ tính chất xã hội hoá
của nguồn tài chính quốc gia.
Nguyên tắc này được thể hiện:
- Mọi chính sách, chế độ quản lý NSNN được ban hành thống nhất và dựa chủ
yếu trên cơ sở quản lý ngân sách trung ương.
- Ngân sách trung ương chi phối và quản lý các khoản thu, chi lớn trong nền
kinh tế và trong xã hội. Điều đó có nghĩa là: các khoản thu chủ yếu có tỷ trọng lớn
phải được tập trung vào ngân sách trung ương, các khoản chi có tác động đến quá
trình phát triển kinh tế, xã hội của cả nước phải do ngân sách trung ương đảm
nhiệm. Ngân sách trung ương chi phối hoạt động của ngân sách địa phương, đảm
bảo tính công bằng giữa các địa phương.
Ba là: phân định rõ nhiệm vụ thu, chi giữa các cấp và ổn định tỷ lệ phần trăm
(%) phân chia các khoản thu, số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp
dưới được cố định từ 3 đến 5 năm. Hàng năm, chỉ xem xét điều chỉnh số bổ sung
một phần khi có trượt giá và một phần theo tốc độ tăng trưởng kinh tế. Chế độ
phân cấp xác định rõ khoản nào ngân sách địa phương được thu do ngân sách địa
phương thu, khoản nào ngân sách địa phương phải chi do ngân sách địa phương
chi. Không để tồn tại tình trạng nhập nhằng dẫn đến tư tưởng trông chờ, ỷ lai hoặc
lạm thu giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Có như vậy mới tạo
điều kiện nâng cao tính chủ động cho các địa phương trong bố trí kế hoạch phát
triển kinh tế, xã hội. Đồng thời là điều kiện để xác định rõ trách nhiệm của địa
phương và trung ương trong quản lý NSNN, tránh co kéo trong xây dựng kế hoạch
như trước đây.
Bốn là: đảm bảo công bằng trong phân cấp ngân sách. Phân cấp ngân sách phải
căn cứ vào yêu cầu cân đối chung của cả nước, cố gắng hạn chế thấp nhất sự chênh
lệch về văn hoá, kinh tế, xã hội giữa các vùng lãnh thổ.
3. Nội dung của phân cấp quản lý NSNN.
Dựa trên cở quán triệt những nguyên tắc trên, nội dung của phân cấp quản lý
NSNN được quy định rõ trong chương II và III của luật NSNN bao gồm:
Nội dung thứ nhất là phân cấp các vấn đề liên quan đế quản lý, điều hành
NSNN từ trung ương đến địa phương trong việc ban hành, tổ chức thực hiện và
kiểm tra, giám sát về chế độ, chính sách.
Tiếp theo là phân cấp về các vấn đề liên quan đế nhiệm vụ quản lý và điều hành
NSNN trong việc ban hành hệ thống biểu mẫu, chứng từ về trình tự và trách nhiệm
của các cấp chính quyền trong xây dựng dự toán ngân sách, quyết toán ngân sách
và tổ chức thực hiện kế hoạch NSNN.
Cụ thể:
Quốc hội quyết định tổng số thu, tổng số chi, mức bội chi và các nguồn bù đắp
bội chi; phân tổ NSNN theo từng loại thu, từng lĩnh vực chi và theo cơ cấu giữa chi
thường xuyên và chi đầu tư phát triển, chi trả nợ. Quốc hội giao cho Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quyết định phương án phân bổ ngân sách trung ương cho từng
bộ, ngành và mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho từng tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương. Như vậy, Quốc hội quyết định những vấn đề then chốt nhất về
NSNN, đảm bảo cơ cấu thu, chi NSNN hợp lý và cân đối NSNN tích cực, đồng
thời giám sát việc phân bổ ngân sách trung ương và ngân sách của các địa phương.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ của Quốc hội
giao về quyết định phương án phân bổ ngân sách trung ương, giám sát việc thi
hành pháp luật về NSNN.
Chính phủ trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội các dự án luật, pháp
lệnh và các dự án khác về NSNN; ban hành các văn bản pháp quy về NSNN; lập
và trình Quốc hội dự toán và phân bổ NSNN, dự toán điều chỉnh NSNN trong
trường hợp cần thiết; giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng bộ, ngành; thống
nhất quản lý NSNN đảm bảo sự phối hợp chăth chẽ giữa các cơ quan quản lý
ngành và địa phương trong việc thực hiện NSNN; tổ chức kiểm tra việc thực hiện
NSNN; quy định nguyên tắc, phương pháp tính toán số bổ sung nguồn thu từ ngân
sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới; quy định chế độ quản lý quỹ dự phòng
NSNN và quỹ dự trữ tài chính; kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân về dự
toán và quyết toán NSNN; lập và trình Quốc hội quyết toán NSNN và quyết toán
các công trình cơ bản của Nhà nước.
Bộ tài chính chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về NSNN
trình chính phủ; ban hành các văn bản pháp quy về NSNN theo thẩm quyền; chịu
trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng thống nhất quản lý NSNN;
hướng dẫn kiểm tra các bộ, cơ quan khác ở trung ương và địa phương xây dựng dự
toán NSNN hàng năm; đề xuất các biện pháp nhằm thực hiện chính sách tăng thu,
tiết kiệm chi NSNN; chủ trì phối hợp với các bộ, ngành trong việc xây dựng các
chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi NSNN; thanh tra, kiểm tra tài chính với tất cả các
tổ chức, các đơn vị hành chính, sự nghiệp và các đối tượng khác có nghĩa vụ nộp
ngân sách và xử dụng ngân sách; quản lý quỹ NSNN và các quỹ khác của Nhà
nước; lập quyết toán NSNN trình Chính phủ.
Bộ kế hoạch và đầu tư có nhiệm vụ trình Chính phủ dự án kế hoạch phát triển
kinh tế, xã hội của cả nước và cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, trong đó
có cân đối tài chính tiền tệ, vốn đầu tư xây dựng cơ bản làm cơ sở cho việc xây
dựng kế hoạch tài chính, ngân sách; phối hợp với bộ tài chính lập dự toán và
phương án phân bổ NSNN trong lĩnh vực phụ trách; phối hợp với bộ tài chính và
các bộ ngành hữu quan kiểm tra đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư các công trình
xây dựng cơ bản.
Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ phối hợp với bộ tài chímh trong việc lập dự
toán NSNN đối với kế hoạch và phương án vay để bù đắp bội chi NSNN; tạm ứng
cho NSNN để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ NSNN theo quyết định của thủ tướng
Chính phủ.
Các bộ, ngành khác có nhiệm vụ phối hợp với bộ tài chính, UBND cấp tỉnh
để lập, phân bổ, quyết toán NSNN theo ngành, lĩnh vực phụ trách ; kiểm tra theo
dõi tình hình thực hiện ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách; báo cáo tình
hình thực hiện và kết quả sử dụng ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách; phối
hợp với bộ tài chính xây dung định mức tiêu chuẩn chi NSNN thuộc ngành, lĩnh
vực phụ trách.
Hội đồng nhân dân có quyền quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa
phương, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định các chủ trương,
biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa phương; quyết định điều chỉnh dự
toán ngân sách địa phương trong thời gian cần thiết; giám sát việc thực hiện ngân
sách đã quyết định. Riêng đối với HĐND cấp tỉnh, ngoài những nhiệm vụ, quyền
hạn nêu trên còn được quyền quyết định thu, chi lệ phí, phụ thu và các khoản đóng
góp của nhân dân theo quy định của pháp luật.
Uỷ ban nhân dân lập dự toán và phương án phân bổ ngân sách địa phương, dự
toán điều chỉnh NSĐP trong trường hợp cần thiết trình HĐND cùng cấp quyết định
và báo cáo cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp. Kiểm tra nghị quyết của HĐND cấp
dưới về dự toán ngân sách và quyết toán ngân sách. Tổ chức thực hiện NSĐP và
báo cáo về NSNN theo quy định. Riêng đối với cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, UBND còn có nhiệm vụ lập và trình HĐND quyết định việc thu phí, lệ
phí, phụ thu, huy động vốn trong nước cho đầu tư xây dựng cơ bản thuộc địa
phương quản lý.
Như vậy, luật đã quy định tương đối rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan, chính quyền Nhà nước trong lĩnh vực NSNN. đặc biệt đối với HĐND và
UBND các cấp đã có sự đổi mới theo hướng tăng tính tự chủ, sáng tạo của địa
phương trong việc phát huy tiềm năng hiện có, bồi dưỡng và tăng thu cho ngân
sách cấp mình, từ đó chủ động bố trí chi tiêu hợp lý, có hiệu quả theo kế hoạch
phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, phù hợp với quy hoạch tổng thể và chế
độ thu, chi thống nhất của Nhà nước. Điều này cơ bản cũng phù hợp với phương
hướng đổi mới chức năng, nhiệm vụ của HĐND và UBND được Quốc hội và
Chính phủ đề ra trong kỳ hội nghị HĐND và UBND toàn quốc.
Về các khoản thu NSNN:
Thu NSNN là số tiền mà nhà nước huy động vào NSNN và không bị ràng buộc
bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp. Phần lớn các khoản thu này đều mang tính chất
cưỡng bức. Với đặc điểm đó, thu NSNN khác với các nguồn thu của các chủ thể
khác (doanh nghiệp, tư nhân…) vì nó gắn với quyền lực của nhà nước.
Theo phân loại thống kê của liên hiệp quốc, thu NSNN gồm hai loại:
- Các khoản thu từ thuế, trong đó chia ra thuế trực thu và thuế gián thu.
- Các khoản thu ngoài thuế như phí, lệ phí và các khoản thu từ hoạt động kinh tế
của Nhà nước và các khoản chuyển giao vào NSNN khác.
Tại Việt nam, trước đây, việc phân chia nội dung thu của các cấp ngân sách dựa
vào cơ sở kinh tế của chính quyền tức là những tổ chức kinh tế do trung ương
quản lý thì nguồn thu của các tổ chức này tập trung vào ngân sách trung ương, các
tỏ chức kinh tế do địa phương quản lý thì sẽ ghi thu vào ngân sách địa phương.
Điều này đã dẫn đến tình trạng xây dựng chồng chéo các cơ sở kinh tế của trung
ương và địa phương, tranh giành nguồn nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ sản
phẩm. Mặt khác, nó không gắn trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương
trong việc quan tâm tới những tổ chức kinh tế do trung ương quản lý ở địa phương.
Do vậy, để khắc phục những nhược điểm trên, chế độ phân cấp được điều chỉnh
theo hướng thay đổi tỷ lệ ghi thu vào ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương nhưng do vẫn dựa trên cơ sở cũ nên nguồn thu vẫn không được đảm bảo.
Hiện nay, theo luật NSNN sửa đổi, việc phân chia nội dung thu NSNN không
dựa vào tính chất sở hữu, tổ chức của cơ sở kinh tế mà theo cơ chế:
* Mỗi cấp ngân sách đều có các khoản thu được hưởng 100%. Như vậy, có thể
giúp chính quyền địa phương chủ động bố trí cân đối ngân sách cấp mình
* Các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ điều tiết giữa các cấp ngân sách.
Trước đây, tỷ lệ điều tiết này được xác định bởi công thức:
X= [(Q- T): K]*100
Trong đó: X :là tỷ lệ điều tiết các khoản thu.
T :là tổng số chi theo nhiệm vụ được giao.
Q :là tổng số thu cố định.
K :là thuế doanh thu và thuế nông nghiệp.
Công thức trên bị đánh giá là thiếu cơ sở khoa học, không chính xác về mặt toán
học và kinh tế dẫn đến bất công bằng giữa nhiều địa phương, số tỉnh có tỷ lệ điều
tiết tính ra vượt quá 100% là quá lớn nên ngân sách nhiều địa phương bội thu,
trong khi đó ngân sách TƯ bội chi.
Hiện nay, luật quy đinh:
* Tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu giữa ngân sách trung ương và ngân
sách từng tỉnh do Chính phủ quyết định và nó được áp dụng chung đối với tất cả
các khoản thu được phân chia và được xác định riêng cho từng tỉnh.
Các khoản thu được phân chia gồm:
Thuế giá trị gia tăng không kể thuế giá trị gia tăng thu từ hàng hoá nhập
khẩu và thu từ hoạt động xổ số kiến thiết.
Thuế thu nhập doanh nghiệp không kể thuế thu nhập doanh nghiệp của các
đơn vị hạch toán toàn ngành và thuế thu nhập doanh nghiệp thu từ hoạt động xổ số
kiến thiết.
Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
Thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài của các tổ chức, cá nhân nước ngoài có
vốn đầu tư tại Việt nam
Thu sử dụng vốn ngân sách của các doanh nghiệp nhà nước không kể thu sử
dụng vốn ngân sách từ hoạt động xổ số kiến thiết.
Việc xác định tỷ lệ phần trăm phân chia được thực hiện như sau:
Gọi:
- Tổng số chi ngân sách các cấp chính quyền địa phương(không bao bồm số bổ
sung) là A.
- Tổng số các khoản thu ngân sách các cấp chính quyền địa phương hưởng 100%
(không bao gồm số bổ sung) là B.
- Tổng số các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa các cấp chính quyền
địa phương được hưởng là C.
- Tổng số các khoản thu được phân chia giữa NSTƯ và ngân sách tỉnh là D.
Nếu A-(B+C)< D thì tỷ lệ phần trăm phân chia được tính theo công thức:
Tỷ lệ phần trăm = [(A-B)+C]: D * 100%
Nếu A-(B+C) > D thì tỷ lệ phần trăm chỉ được tính bằng 100% và phần chênh lệch
sẽ thực hiện cấp bổ sung.
Nếu A-(B+C) =D thì tỷ lệ phần trăm là 100% và tỉnh tự cân đối.
* Tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu giữa ngân sách các cấp chính quyền
địa phương do UBND tỉnh quy định.
Các khoản thu phân chia:
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
- Thuế nhà, đất.
- Tiền sử dụng đất.
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
- Thuế tài nguyên.
- Lệ phí trước bạ.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nước thu vào các mặt hàng bài lá, hành
mã, vàng mã và các dịch vụ kinh doanh vũ trường, mát xa, ka ra ô kê, kinh doanh
gôn, bán thẻ hội viên và vé chơi gôn, trò chơi bằng các máy giắc pót, kinh doanh
vé đặt cược đua ngựa, đua xe.
PHÂN ĐỊNH NGUỒN THU GIỮA NSTƯ VÀ NGÂN SÁCH TỈNH.
NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG
Các khoản thu
100%
1.thuế GTGT hàng nhập khẩu
2.thuế xuất, nhập khẩu
3.thuế tiêu thụ đặc biệt (trừ
một số mặt hàng, dịch vụ)
4.thuế thu nhập doanh nghiệp
của đơn vị hạch toán toàn
nghành
5.thu từ dầu khí
6.thu nhập từ vốn góp của
nhà nước, tiền thu hồi vốn
của nhà nước từ các cơ sở
kinh tế
7.các khoản do Chính phủ
vay, viện trợ không hoàn lại
của Chính phủ các nước
8.các khoản phí, lệ phí theo
quy định
9.thu kết dư NSTƯ
10.các khoản thu khác.
1.tiền cho thuê đất
2.tiền cho thuê và bán nhà
thuộc sở hữu Nhà nước
3.lệ phí trước bạ
4.thu từ hoạt động xổ số kiến
thiết
5.viên trợ không hoàn lai của
nước ngoài trực tiếp cho địa
phương
6.các khoản phí, lệ phí theo
quy định
7.các khoản đóng góp tự
nguỵện của cá nhân, tổ chức
trong và ngoài nước
8.thu kết dư NSĐP
9.thu bổ sung từ NSTƯ
10.các khoản thu khác theo
quy định.
Các khoản thu
phân chia theo
tỷ lệ phần trăm
giữa NSTƯ và
ngân sách tỉnh.
1.thuế GTGT (trừ thuế GTGT hàng nhập khẩu và hoạt động sổ
xố kiến thiết)
2.thuế thu nhập doanh nghiệp (trừ các đơn vị hạch toán toàn
ngành và hoạt động xổ số kiến thiết)
3.thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
4.thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài
5.thu từ sử dụng vốn ngân sách của các DNNN.
Các khoản thu
phân chia giữa
tỉnh, huyện, xã
1.thuế chuyển quyền sử dụng đất
2.thuế nhà đất
3.thuế sử dụng đất nông nghiệp
4.thuế tài nguyên
5.thuế tiêu thụ đặc biệt với hàng sản xuát trng nước thu vào
vàng mã, kinh doanh vũ trường, mát xa,…
tỷ lệ phân chia do UBND tỉnh quy định.
Về các khoản chi NSNN
Chi NSNN là số tiền mà Nhà nước chi từ quỹ ngân sách để thực hiện chức năng
và nhiệm vụ của mình. Có nhiều cách để xác định cơ cấu chi NSNN. Chẳng hạn,
để thấy rõ hơn vai trò của NSNN đối với phát triển các ngành kinh tế đất nước, đặc
biệt là các ngành mũi nhọn thì cơ cấu chi NSNN được phân theo ngành kinh tế
quốc dân (ngành công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, giao thông vận tải, thương
mại, dịch vụ…). Nếu để đảm bảo cho Quốc hội có thể thấy rõ ngay nhuồn ngân
sách phân bổ cho mỗi cơ quan Nhà nước, chi ngân sách Nhà nước được phân loại
theo tổ chức của cơ quan Nhà nước (theo từng bộ, cơ quan Nhà nước Trung ương,
cơ quan Nhà nước địa phương…). Nếu để đáp ứng yêu cầu kiểm tra, kiểm soát của
Nhà nước đối với việc lập dự toán, quyết định dự toán, thực hiện phân cấp và quản
lý, sử dụng kinh phí NSNN cho từng mục đích và từng đối tượng cụ thể, người ta