Tải bản đầy đủ (.ppt) (31 trang)

thuyết trình quốc gia và văn hóa ảnh hưởng đến sự thay đổi và sự đổi mới của tổ chức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.33 KB, 31 trang )

QUỐC GIA VÀ VĂN HÓA ẢNH
QUỐC GIA VÀ VĂN HÓA ẢNH
HƯỞNG ĐẾN SỰ THAY ĐỔI VÀ
HƯỞNG ĐẾN SỰ THAY ĐỔI VÀ
SỰ ĐỔI MỚI CỦA TỔ CHỨC
SỰ ĐỔI MỚI CỦA TỔ CHỨC
GVHD : TS. Nguyễn Hữu Lam
ThS. Trần Hồng Hải
Nhóm 11 :
Huỳnh Gia Xuyên
Trần Phạm Thanh Vân
Trần Quốc Tế
Vũ Thị Bích Vân
Nội dung

Giới thiệu.

Những cơ sở khái niệm của các hình thức thể chế.

Những điều kiện thành lập.

Vai trò của chính phủ.

Hệ thống luật pháp.

Thị trường vốn.

Hệ thống giáo dục.

Văn hóa.
05/22/14 2


Nội dung

Những ảnh hưởng của những hình thức thể chế
lên thực tiễn quản trị.

Cơ cấu quản trị.

Quyền kiểm soát và quyền quyết định.

Quan hệ lao động.

Mô hình chiến lược.

Kết luận.
05/22/14 3
05/22/14 4
GIỚI THIỆU

Chương này xây dựng dựa trên một quan điểm đồng tiến hóa (Lewin,
Long, và Carroll, 1999) và một cách tiếp cận đa cấp độ (Lammers,
1978).

Xem xét một loạt những sự tranh luận có tính chất lý thuyết và
những nghiên cứu thực nghiệm bao gồm những hình thái về thể chế
và sự ảnh hưởng của những hình thái về thể chế đến những thực tiễn
quản lý.

Mục đích : sử dụng quốc gia, đất nước, và văn hóa như một sự chọn
lựa cho tác động vừa phải của một quốc gia đến quản lý chiến lược
và sự thay đổi thuộc về tổ chức.

05/22/14 5
GIỚI THIỆU
Những nhân tố thuộc về thể chế
- Những điều kiện thành lập
-
Vai trò của chính phủ
-
Hệ thống pháp lý
-
Thị trường vốn
-
Hệ thống giáo dục
-
Văn hóa
Những thực tiễn quản lý
- Cấu trúc của sự cai quản
-
Quyền lực và kiểm soát
-
Mối quan hệ thuê mướn nhân
công
-
Mô hình chiến lược
- Văn hóa
Sự thích nghi, sự thay đổi, và sự
đổi mới thuộc về tổ chức
Hình vẽ 11.1 : Khung những ảnh hưởng của quốc gia đến sự thích nghi của công ty
05/22/14 6
Những cơ sở khái niệm của các hình thức thể chế


Những hình thái thuộc về thể chế của nhà nước được xây dựng dựa
trên những điều kiện lịch sử và văn hóa khác nhau.

Maddison phát hiện ra sự tiến hóa của cương vị lãnh đạo kinh tế trên
thế giới khi nó dịch chuyển từ Hà Lan đến Vương quốc Anh và cuối
cùng là đến nước Mỹ.

Trong nghiên cứu về sự cải cách tại khu vực thuộc nước Ý từ những
năm 1970 đến những năm 1990, Putnam (1993) phát hiện ra sự ảnh
hưởng của bối cảnh xã hội của nước Ý và lịch sử có hiệu lực của
những thể chế.
05/22/14 7
Những cơ sở khái niệm của các hình thức thể chế

Những hình thái thuộc về thể chế được định nghĩa như những chòm
sao của những ràng buộc chính thức và không chính thức mà tạo
thành sự ảnh hưởng lẫn nhau của con người (North, 1990).

Những ràng buộc chính thức bao gồm chính quyền, hệ thống pháp
luật, những nguyên tắc quản lý và sự cạnh tranh cho phép, thị trường
vốn, và hệ thống giáo dục.

Những ràng buộc không chính thức bao gồm lịch sử, văn hóa, hệ
thống giá trị, và những thỏa thuận thuộc về xã hội.
05/22/14 8
Những điều kiện thành lập

Stinchcombe (1965) khẳng định rằng “Những hình thức và những
loại của tổ chức có một lịch sử và lịch sử này xác định một vài khía
cạnh của cấu trúc hiện tại loại tổ chức đó”.


Tùy thuộc vào cấp độ của sự phân tích, sự vận hành của những điều
kiện thành lập có lẽ thay đổi.

Chúng ta dựa vào bối cảnh lịch sử liên quan đến những điều kiện
thành lập của một quốc gia, đến những hình thức của tổ chức và
những thực tiễn quản lý.
05/22/14 9
Những điều kiện thành lập

Những thực tiễn quản lý hiện đại của Nhật Bản bắt nguồn từ thời kỳ
sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, một vài khía cạnh quan trọng có
trước kỷ nguyên cũ Tokugawa (1603-1868).

Khổng giáo là nền tảng niềm tin, suy nghĩ, và hành vi của các nhà
quản lý. Bao gồm sự vâng lời không bị nghi ngờ đối với gia đình,
hoàn toàn trung thành đối với cấp trên, tôn trọng những người lớn
tuổi, chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa nhóm.

Vì thế, hệ thống hoạt động kinh doanh của người Nhật Bản đã phát
triển quanh những mạng lưới tương đối nhỏ, những công ty chuyên
môn hóa hợp tác với nhau (Fruin, 1992).
05/22/14 10
Những điều kiện thành lập

Mỹ như là nền kinh tế hàng đầu vào cuối thế kỷ 19 là kết quả của
những nguồn vốn đầu tư mạnh mẽ, tài nguyên thiên nhiên trong đất
phong phú và nhiều khoáng sản, và một thị trường nội địa rộng lớn.

Đạo đức về nghề nghiệp đã ăn sâu vào Thanh giáo đưa ra nền tảng

của tư tưởng kinh doanh sớm tại Mỹ. Người theo Thanh giáo đã định
cư sớm tại Mỹ, và công việc giảng dạy của họ đã thúc đẩy việc tìm
kiếm lợi nhuận hợp lý.

Hệ tư tưởng này phù hợp với những giá trị chính trị của quốc gia mới
– tự do, bình đẳng cơ hội, và chủ nghĩa cá nhân.
05/22/14 11
Những điều kiện thành lập

Những điều kiện thành lập tại Đức là sự phát triển của chủ nghĩa công
đoàn thương mại và sự tham gia của nhân viên vào những tổ chức lao
động.

Để can ngăn công nhân tham gia vào công đoàn và chống lại sự ảnh
hưởng của phong trào xã hội chủ nghĩa, Thủ tướng Otto von Bismarck
đã thiết lập luật pháp, chẳng hạn như bảo hiểm y tế và tai nạn, trợ cấp
người già và người tàn tật.

Vào năm 1918, chế độ quân chủ bị lật đổ, công đoàn đã được công
nhận là người đại diện của người lao động. Kể từ đó, sự tham gia của
nhân viên vào các cấp của cửa hàng và công ty trở thành một đặc điểm
để phân biệt những mối quan hệ của nhân viên Đức.
05/22/14 12
Vai trò của chính phủ

Chính phủ quốc gia có trách nhiệm về phúc lợi xã hội, chỉ đạo nền kinh
tế quốc gia, làm trung gian và vật đệm cho những việc không chắc chắn
về môi trường, và ban hành những hệ tư tưởng tập thể thông qua pháp
luật và những cơ chế điều tiết.


Những chế độ là “những sự sắp xếp thuộc về chính trị, thể chế để xác
định mối quan hệ giữa những lợi ích xã hội, những tác nhân của bang,
và kinh tế như là những tập đoàn, những công đoàn lao động, và những
hiệp hội nông nghiệp”

Mỹ tiến hóa thông qua bốn loại chế độ, tùy theo tình hình kinh tế và
chính trị.
05/22/14 13
Vai trò của chính phủ

Từ năm 1880 đến năm 1920, khi những tập đoàn có quy mô lớn và các
thị trường nổi lên, chính phủ Mỹ theo một chế độ thị trường.

Trong suốt thời kỳ đại khủng hoảng, một chế độ kết hợp thúc đẩy tính
ổn định của công nghiệp và tái phân phối thu nhập quốc dân.

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, sự phát triển kinh tế và chất lượng của
cuộc sống, chính phủ thực hiện đầy đủ một chế độ thuộc về xã hội qua
hai thập kỷ.

Trong những năm 1970 và 1980, chế độ hiệu quả để quay trở lại những
chính sách mà can thiệp vào cơ chế thị trường hoặc áp đặt những chi
phí lớn.
05/22/14 14
Vai trò của chính phủ

Mức độ can thiệp của chính phủ cũng khác nhau bởi ngành công nghiệp.

Những chính phủ có thể thực hiện kiểm soát trên toàn quốc các ngành công
nghiệp quan trọng như điện năng và phân phối, vận chuyển, hoặc xử lý dầu

thông qua các sáng tạo của các doanh nghiệp nhà nước.

Một khía cạnh khác của vai trò chính phủ về tác động của những thực tiễn
quản lý và sự thay đổi thuộc về tổ chức là sự cai quản giao dịch và sự phân
phối quyền lợi tài sản.

Kết quả về bốn hệ thống chính phủ đầu tiên là nền kinh tế mệnh lệnh, nền
kinh tế quá đô, công việc kinh doanh tư nhân, và công việc kinh doanh có
tính đa nguyên
05/22/14 15
Vai trò của chính phủ

Vai trò của chính phủ trong hoạt động của các ngành càng mạnh mẽ
hơn trong nền kinh tế hợp tác hơn là nền kinh tế đa dạng.

Trong nền kinh tế hợp tác, chính phủ tác động đến mục tiêu và chiến
lược công ty bằng các luật lệ thừa kế đặc biệt của chính phủ.

Hàn Quốc là một ví dụ, chính sách công nghiệp của chính phủ nhấn
mạnh đến sự phát triển xuất khẩu như là 1 hình thức thúc đẩy nền kinh
tế phát triển.

Tại Đức, việc can thiệp trực tiếp của chính phủ bằng quyền tối cao theo
chiều dọc và chiều ngang và bằng những giới hạn trong hiếp pháp trong
những hành động đơn phương của chính phủ.
05/22/14 16
Hệ thống luật pháp

Cấu trúc hệ thống luật pháp của một quốc gia rất quan trọng. Nó giúp
định hướng cho các hoạt động kinh doanh (minh bạch) và sự thay đổi

trong kinh doanh.

Nếu hệ thống luật pháp minh bạch thì các vấn đề trong kinh doanh
được soạn thảo thành các điều luật.

Ở các quốc gia có chính phủ chỉ đạo, luật không được soạn thảo cụ thể
thành các điều lệ, chính phủ hay các các cơ quan đại diện có thể chuyển
những điều không rõ ràng sang cách hiểu riêng của họ, có những luật lệ
và hướng dẫn riêng cho hoạt động thương mại hoặc họ có thể đặt ra
những luật lệ riêng.
05/22/14 17
Hệ thống luật pháp

Sự rõ ràng và minh bạch trong hệ thống luật pháp của Đức cho phép
các doanh nghiệp dựa vào luật và các thủ tục trong quản lý hoạt động
kinh doanh của họ (Rvà lesome, 1994). Tuy nhiên, luật Đức ít linh
động bởi vì quá trình thay đổi hay ban hành luật cần nhiều thời gian và
nỗ lực.

Hệ thống luật của Nhật đặt những giá trị lớn trong sự hòa giải, nó
không có sự đối đầu và mâu thuẫn, họ tìm kiếm những giải pháp giải
quyết mâu mẫu trước tiên, mà không cần đến kiện cáo hay tòa án.

Ở Mỹ, việc soạn luật được dựa trên việc tăng sự minh bạch trong hoạt
động kinh doanh.
05/22/14 18
Thị trường vốn

Sự phát triển và những đặc điểm của thị trường tài chính của một quốc
gia đóng vai trò quan trọng trong mô hình chiến lược của các doanh

nghiệp.

Thị trường tài chính Mỹ đã lớn mạnh vượt trội nhờ vào các tổ chức hay
cá nhân góp vốn (Hitt và cộng sự, 1997; Sakano và Lewin, 1999) và
các nhà quản lý đã có giá trị thông qua cổ phiếu từ những ngày đầu tiên
của quá trình công nghiệp hóa (Ito và Rose, 1994).

Không giống ở Mỹ, ở Nhật người quản lý có thể có mối liện hệ với tất
cả các cổ đông, như: nhân viên, khách hàng, quan hệ xã hội hay cổ
đông.
05/22/14 19
Hệ thống giáo dục

Hệ thống giáo dục có thể thi hành một quy tắc quan trọng trong việc tạo
dựng, chuyển đổi và củng cố niềm tin và giá trị xã hội.

Sự khác nhau trong hệ thống giáo dục giữa các quốc gia có thể quan
trọng và có thể ảnh hưởng sự đáp ứng tổ chức cũng như là sự phát triển
của công nghiệp tư nhân, sáng tạo kỹ thuật trong tổ chức.

Hệ thống giáo dục Đức là hệ thống tay đôi mà bao gồm cả giáo dục dựa
trên cấp độ đại học và công nghiệp và cung cấp các khoá học tiêu
chuẩn quốc gia về nghề nghiệp từ cấp độ học nghề cho đến những thợ
lành nghề và cả cấp độ kĩ sư. Triết lí giáo dục hướng tới giảm sự cạnh
tranh và trì hoãn sự cạnh tranh cho đến khi tiếp nhận vào hệ thống
nhân sự.
05/22/14 20
Hệ thống giáo dục

Ở Nhật Bản, chương trình giảng dạy cho các trường công cộng được

tiêu chuẩn hoá bởi Bộ giáo dục và ngay cả sự xem xét thứ yếu đòi hỏi
sự tỉ mỉ, quá trình tốn nhiều thời gian (Ito, 1994).

Hệ thống giáo dục của Nhật chuộng nhân tài, con đường vào đại học rất
mệt mỏi và dựa trên bài thi đầu vào. Do vậy, hầu hết phụ huynh thúc
giục con cái mình chuẩn bị cho kỳ thi vào những trường đại học hàng
đầu để có thể có 1 công việc tốt nhất cho tương lai.

Phần lớn các hệ thống ở Mỹ tạo ra môi trường mà ở đó việc vào được
những trường đại học lớn không phải là con đường duy nhất để có thể
việc làm tốt.
05/22/14 21
Văn hóa

Văn hóa là gắn liền với lịch sử của 1 đất nước và ảnh hưởng đến hành
động quản lý cũng như diện mạo cấu hình của 1 quốc gia như: chính
phủ, hệ thống pháp luật và hệ thống giáo dục.

Có khoảng 160 khái niệm về văn hóa và có hàng loạt nghiên cứu đã
được công bố trong những năm gần đây.

Mặc dù việc đo lường văn hóa là vấn đề nan giải, nhưng đã có những
nổ lực để phân loại văn hóa của những quốc gia khác nhau.

Hofstede đã khảo sát nhân viên của IBM từ hơn 60 quốc gia về cách đo
lường văn hóa. Bốn đơn vị đo lường văn hóa của Hofstede bao gồm:
(1) chủ nghĩa cá nhân, (2) khoảng cách quyền lực, (3) né tránh bất ổn,
(4) nam tính (Hofstede, 1980).
05/22/14 22
Văn hóa


Hampden – Turner và Trompenaars (1994) sử dụng 7 quá trình giá trị
để so sánh và thảo luận về văn hóa : (1) Chủ nghĩa phổ biến chống lại
chủ nghĩa đặc thù, (2) Phân tích chống lại gia nhập, (3) Chủ nghĩa cá
nhân chống lại chủ nghĩa cộng đồng, (4) những định hướng không bị
ảnh hưởng bởi bên ngoài so với những ảnh hưởng chi phối từ bên
ngoài, (5) sắp xếp thời gian theo trình tự so với sắp xếp thời gian theo
kiểu đồng bộ hóa, (6) kết quả tự đạt được so với kết quả có được từ sao
chép và (7) hệ thống ngang bằng so với hệ thống cấp bậc.

Schwartz (1994) phát triển thành 6 loại giá trị: chủ nghĩa bảo thủ,
quyền tự quản, hệ thống thứ bậc, quyền làm chủ, giao quyền theo chủ
nghĩa bình quân và chủ nghĩa theo trường phái cân đối hài hòa.
05/22/14 23
Những ảnh hưởng của những hình thức thể chế
lên thực tiễn quản trị

Các tổ chức tiến triển thông qua sự ảnh hưởng lẫn nhau của những hình
thể thuộc về thể chế, các đặc điểm này phản ánh những khía cạnh cụ
thể của thực tiễn quản trị ở những nhà nước – quốc gia khác nhau.

Các quốc gia – nhà nước, thông qua các chế độ chính sách và cấu trúc
thuộc về thể chế của họ, có những ảnh hưởng kinh tế đến việc ra quyết
định trong đầu tư.

Các thể chế hình thành các cơ cấu để trao đổi kinh tế bằng cách xác lập
những hành vi thuộc vể cá nhân và tổ chức có thể chấp nhận hoặc
không thể chấp nhận và bằng cách hình thành các hướng đi và hành
lang pháp lý cho các tổ chức.
05/22/14 24

Cơ cấu quản trị

Cơ cấu quản trị cơ bản là giống nhau giữa các quốc gia khác nhau (ví
dụ như cơ cấu: Ban Giám đốc), nhưng mức độ quan trọng và chức năng
của quản trị lại khác nhau rất nhiều.

Tại Mỹ, quyền quản trị và quyền sở hữu có khuynh hướng được tách
biệt nhau và quyền sở hữu cổ phần quan trọng đặt dưới sự kiểm soát
của thể chế tài chính và của cải thuộc về cá nhân là một phần của các
danh mục đầu tư, tỷ suất lợi nhuận của danh mục này là lớn nhất.

Các công ty Nhật có hai cơ chế chung về kiểm soát quyền sở hữu cổ
phần trong những nhóm này, đó là kiểm soát theo chiều ngang và kiểm
soát theo chiều dọc.
05/22/14 25
Quyền kiểm soát và quyền quyết định

Quyền kiểm soát và quyền quyết định liên quan đến bản chất của mối
quan hệ giữa người làm thuê và nhà quản lý và tới nguồn gốc của sự
ảnh hưởng lên hành vi và thay đổi tổ chức trong quá trình tổ chức.

Những công ty Đức thích cấu trúc tổ chức có phân quyền.

Các công ty Nhật nhấn mạnh nguyên tắc chất lượng toàn diện về trách
nhiệm, trách nhiệm giải trình, sự linh hoạt, và khả năng làm việc nhóm
(Fruin, 1992). Những luật lệ trong khu vực sản xuất là không có ngoại
lệ nhưng được những người lao động chấp nhận.

Kế hoạch của các công ty Nhật có nhiều mức độ quản lý hơn bản sao
Mỹ của họ.

×