Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Tieu luan tinh huu ich ttbctc den hieu qua hoat dong trong dvsncl

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 30 trang )

1


2

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục tiêu nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu và Phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC
1. Tổng quan nghiên cứu trên thế giới
2. Tổng quan nghiên cứu tại Việt Nam
3. Khe hổng nghiên cứu
CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
2.2. LÝ THUYẾT NỀN
2.3. CÁC KHÁI NIỆM NỀN TẢNG
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ GIẢ THUYẾT
3.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO


3

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:


Trong điều kiện kinh tế thị trường, thơng tin tài chính đóng vai trò rất
quan trọng trong việc ra các quyết định kinh doanh. Thông tin sai lệch, không
cân xứng dẫn đến sai lầm trong việc ra quyết định, gây thiệt hại lớn cho các
cá nhân đã sử dụng nó. Vì vậy, đảm bảo tính minh bạch và trung thực của
thơng tin tài chính ln là vấn đề được các nhà quản lý, nhà đầu tư, tổ chức
tín dụng và các bên liên quan quan tâm hàng đầu. Theo (IASB, 2010) , các
đặc điểm định tính của thơng tin trên báo cáo tài chính bao gồm: dễ hiểu, phù
hợp, đáng tin cậy và có thể so sánh được. (IASB, 2010) đưa ra những hạn chế
của chất lượng thông tin là sự cân bằng giữa lợi ích - chi phí; kịp thời và sự
cân bằng giữa các đặc tính định tính. Báo cáo tài chính (BCTC) được sử dụng
để cung cấp thơng tin về tình hình tài chính, điều kiện kinh doanh và dịng
tiền của công ty, đáp ứng yêu cầu quản lý của chủ doanh nghiệp, cơ quan nhà
nước và nhu cầu hữu ích của người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định
kinh tế. Cụ thể, báo cáo tài chính cần cung cấp thông tin về tài sản, nợ phải trả,
vốn chủ sở hữu, doanh thu, thu nhập khác, chi phí sản xuất kinh doanh, chi
phí khác, lợi nhuận và phân bổ kết quả kinh doanh, dòng tiền.
Việc ra quyết định là một q trình phức tạp của con người. Nó bao gồm
đánh giá rủi ro và chi phí-lợi ích; nó xảy ra trong các bối cảnh cụ thể và ảnh
hưởng đến những người có tư duy riêng. Các mơ hình kinh tế truyền thống
dựa trên giả định cơ bản rằng con người là hợp lý. Trong thế giới kinh doanh,
tính hợp lý rất thường xuyên gắn liền với việc sử dụng thơng tin tài chính.
Theo các giả định kinh tế tân cổ điển, các cá nhân thường đóng vai trị là
doanh nhân tối đa hóa những người đưa ra quyết định theo một quy trình tuần
tự và tuyến tính (Mintzberg, raisehani và Theoret, 1976). Việc ra quyết định
là cần thiết vì theo chủ nghĩa chức năng cấu trúc các cơng ty phức tạp hơn có
nhu cầu lớn hơn để đưa ra các quyết định hợp lý và theo nghĩa này các quyết
định quan trọng là cần thiết cho hoạt động của cơng ty (Miller & Wilson,
2006). Ban Giám đốc có liên quan đến một số loại hoạt động và quyết định
địi hỏi thơng tin kế tốn chất lượng và đáng tin cậy (Soudani, 2012). Ra
quyết định liên quan đến việc sử dụng nhiều loại thông tin khác nhau, làm nổi

bật thơng tin tài chính, thơng tin được tạo ra từ h thng thụng tin k toỏn.
Tuy nhiờn, Bertolami, Artes, Gonỗalves, Hashimoto và Lazzarini (2018)
cho rằng nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không tồn tại được trong những năm
đầu tiên của cuộc đời do thiếu kiến thức thị trường, kinh nghiệm quản lý kinh
doanh và các vấn đề tài chính khi họ phát triển. Bên cạnh đó, các cơng ty có
kỳ hạn thanh tốn cũng phải đối mặt với q trình mất khả năng thanh
tốn. Do đó, hiểu rõ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của các
doanh nghiệp là cần thiết, vì nó có thể góp phần vào sự tồn tại và tăng trưởng
của các doanh nghiệp và nâng cao sự phát triển kinh tế của đất nước. Việc
không cung cấp thông tin phù hợp và đúng sự thật có thể ảnh hưởng đến việc
ra quyết định tốt (Maguire & Albright, 2005) dẫn đến kết quả thảm hại.


4

Trên thực tế, các báo cáo tài chính là kết quả của tất cả các thông tin được
xử lý theo thời gian, đồng thời, chúng trở thành một công cụ quản lý tài chính
thiết yếu và q trình ra quyết định. (Monea, 2013). Điều này đúng khi kế
toán viên lập báo cáo tài chính đã cân nhắc đến các đặc điểm định tính làm
cho thơng tin hữu ích trong việc ra quyết định các bên liên quan khác nhau.
Tuy nhiên, các nhà đầu tư cá nhân hiếm khi sử dụng chất lượng thơng tin báo
cáo tài chính do kế tốn chuẩn bị, hành vi này làm tăng rủi ro mất mát các
khoản đầu tư (Ezamaa et al., 2018). Theo ý kiến của ơng, ngồi giáo dục và
việc giải thích pháp luật, các tổ chức quốc gia và quốc tế nên tạo điều kiện
thuận lợi cho việc giải thích thơng tin báo cáo tài chính, đây là một trong
những nguồn thơng tin quan trọng nhất trong quá trình ra quyết định. Các nhà
quản lý, khi phân tích thơng tin báo cáo tài chính phải hiểu và giải thích các
dữ liệu tài chính để xác định tính hữu ích thích hợp cho thơng tin báo cáo tài
chính tạo thuận lợi cho q trình ra quyết định. (Çaliyurt, 2011).
Các nhà quản lý khơng chỉ muốn phân tích kết quả hoạt động của tổ chức

mà họ còn muốn biết tổ chức đã đạt được những mục tiêu đó như thế nào
(Smith, 2020). Hiệu quả tài chính tập trung vào thu nhập và phân phối chi tiêu
của các doanh nghiệp (Edwards và Pinkerton, 2020) và là một trong những
chỉ số cho thấy hiệu lực và hiệu quả của tổ chức trong việc đạt được các mục
tiêu tài chính của mình (Omondi Ochieng, 2019; Karamoy & Tulung 2020).
Do đó, bên cạnh hiệu quả hoạt động tài chính, các doanh nghiệp ngày càng
quan tâm đến tính minh bạch thông tin (Bennett, James và Klinkers, 2017).
Sự minh bạch như vậy chỉ có thể thực hiện được với một hệ thống kế tốn
hiệu quả tơn trọng tất cả các đặc điểm định tính của thơng tin báo cáo tài
chính (İbicioglu et al., 2010). Do đó, hệ thống này là một trong những cơng
cụ hiệu quả nhất trong q trình ra quyết định quản lý, vì nó cho phép thu
thập và tổ chức FI trên các giao dịch kinh doanh, ngân hàng và các giao dịch
khác, làm cho nó trở thành một sự trợ giúp quan trọng cho việc quản lý trong
hoạt động kinh doanh (Amoako, 2013).
Trong bối cảnh đó, nghiên cứu này dựa trên lý thuyết hữu ích, quyết định
và tiện ích nhằm phân tích mối quan hệ giữa tính hữu ích của thơng tin báo
cáo tài chính trong việc ra quyết định và hiệu quả hoạt động, có tính đến các
lý thuyết hành vi và lý thuyết tiện ích. Cụ thể, mục tiêu là phân tích xem kiểm
soát nội bộ; các đặc điểm của cá nhân người quản lý (Giới tính, trình độ học
vấn, kinh nghiệm…) và đặc điểm của đơn vị (Quy mô, chức năng, thời gian
hoạt động). Ngồi thơng tin này, đơn vị SNCL cũng phải cung cấp các thơng
tin khác trong "báo cáo tài chính" để giải thích thêm về mục tiêu phản ánh
trong báo cáo tài chính tổng hợp và các phương pháp kế toán áp dụng ghi
chép các hoạt động kinh tế phát sinh, thực hiện và trình bày tình trạng tài
chính. Trên cơ sở này, các yêu cầu về chất lượng của các báo cáo tài chính
của đơn vị là đặc biệt quan trọng. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề
này, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tính hữu ích của thông tin báo cáo tài
chính đến hiệu quả hoạt động trong đơn vị sự nghiệp công lập tại thành
phố Hồ Chí Minh.” để nghiên cứu.



5

2. Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu này nhằm mục tiêu kiểm định lại tính hữu ích của thơng tin
báo cáo tài chính đến hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp cơng lập ở
thành phố Hồ Chí Minh có sự ảnh hưởng của năng lực nguồn nhân lực, sự
kiểm soát nội bộ đồng thời các đặc điểm của đơn vị (quy mơ, thời gian hoạt
động) và cách nó ảnh hưởng trong quá trình ra quyết định.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
* Đối tượng nghiên cứu: Từ các mục tiêu nghiên cứu đã trình bày, đối
tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là các chủ thể trong các đơn vị sự
nghiệp công lập tại thành phố Hồ Chí Minh.
* Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được giới hạn trong phạm vi các đơn vị sự
nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, do giới hạn về thời gian và
kinh phí nên phạm vi khảo sát chủ yếu là các đơn vị sự nghiệp công lập tại
thành phố Hồ Chí Minh.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp định
lượng. Nghiên cứu định lượng để đánh giá, kiểm định bằng thang đo của
Murphy, Trailer và Hill (1996) về hiệu quả hoạt động của đơn vị. Tác giả
dùng Bảng câu hỏi khảo sát là cơng cụ thích hợp nhất để thu thập dữ liệu vì
nó cho phép nhà nghiên cứu tiếp cận nhiều người trả lời trong một thời gian
giới hạn (Mugenda & Mugenda, 2003). Và cũng đảm bảo tính bảo mật do
được cung cấp các câu trả lời khách quan. Bảng câu hỏi thông qua thang điểm
Likert 5 điểm, trong đó 1 thể hiện rất khơng đồng ý, 2 không đồng ý, 3 trung
lập, 4 đồng ý và 5 rất đồng ý.
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Nghiên cứu trình bày bằng chứng, với các giả định về lý thuyết tiện ích và
lý thuyết quyết định về mối quan hệ giữa kiểm soát nội bộ, năng lực nguồn

nhân lực, đặc điểm của đơn vị có ảnh hưởng đến tính hữu ích của thơng tin
báo cáo tài chính (gọi tắt là thơng tin tài chính-FI) và tác động cùng chiều đến
hiệu quả hoạt động của đơn vị. Nghiên cứu này trở nên rất phù hợp với các
chuyên gia kế toán và nhà quản lý cần phải lựa chọn nguồn thông tin, xác
định loại thông tin mà quản trị quan tâm và phương pháp thu thập thơng tin có
hiệu quả nhất, đồng thời cung cấp cho nhà quản lý sự hiểu biết tốt hơn về tính
hữu ích của chất lượng thơng tin báo cáo tài chính và có ảnh hưởng trong quá
trình ra quyết định.


6

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
I. CÁC NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI:
Nghiên cứu của Xu et al. (2003) đưa ra một mơ hình cho các vấn đề chính
tác động đến chất lượng thơng tin kế tốn: nghiên cứu ở Úc. Tác giả sử dụng
phương pháp định tính và sử dụng nghiên cứu tình huống. Kết quả nghiên cứu
chỉ ra các yếu tố thuộc về con người, hệ thống, yếu tố tổ chức và các yếu tố
mơi trường bên ngồi khác có tác động cùng chiều đến chất lượng thơng tin
kế tốn.
Tác giả Moses Bukenya (2014) với đề tài “Quality of Accounting
Information and Financial Performance of Uganda’s Public Sector”: Nghiên
cứu nhằm mục đích thiết lập mối quan hệ giữa chất lượng thơng tin kế tốn và
hoạt động tài chính của khu vực công ở Uganda. Nhà nghiên cứu đã áp dụng
sự pha trộn giữa thiết kế nghiên cứu mô tả và cắt ngang và lấy mẫu ngẫu
nhiên phân tầng. Những người trả lời chính là bộ phận Thành phố, những
người tham gia vào việc phân bổ và kiểm soát các nguồn tài chính và đóng
vai trị là cơ quan giám sát q trình quản lý tài chính. Dữ liệu hoạt động tài
chính đã được kiểm tốn phân tích. Người ta phát hiện ra rằng tính liên quan,

độ tin cậy, tính chính xác, dễ hiểu và tính kịp thời là những thước đo thực sự
về chất lượng của thơng tin kế tốn thơng qua phân tích nhân tố. Tác giả sử
dụng phân tích hồi quy và tương quan cho thấy mối quan hệ tích cực đáng kể
với mức độ khoảng 58% hoạt động tài chính được cho là do chất lượng thơng
tin tài chính. Do đó, các đơn vị thuộc khu vực cơng cần tuyển dụng các
chuyên viên có tay nghề cao tuân thủ các yêu cầu pháp lý và quy định của
khuôn khổ báo cáo
Tác giả Sónia Paula S. Nogueira (2016): Nghiên cứu nhằm mục đích xác
định các yếu tố nhất định mà những người ra quyết định nội bộ (chính phủ và
các quan chức tài chính) nhận thấy mức độ ảnh hưởng đến tính hữu ích mà họ
cho là trình bày thơng tin trong báo cáo tài chính của các thành phố đối với
mục đích ra quyết định. Nghiên cứu thực hiện phương pháp định lượng ở giai
đoạn đầu tiên, sử dụng bảng câu hỏi và bổ sung nghiên cứu định tính với các
cuộc phỏng vấn trong một nhóm nhỏ các thành phố có thể được coi là nghiên
cứu điển hình nhằm khám phá và tìm hiểu các yếu tố bối cảnh (bên ngồi và
bên trong) quyết định tính hữu ích của báo cáo tài chính trong q trình ra
quyết định của người ra quyết định nội bộ.
Nghiên cứu của tác giả Ramos & Klann (2019): nghiên cứu đánh giá mối
quan hệ giữa chất lượng thơng tin kế tốn và đặc điểm tổ chức của các thực
thể khu vực thứ ba ở Brazil. Tác giả đã sử dụng phương pháp định lượng và
sử dụng dữ liệu thứ cấp. Đã cho ra kết quả nghiên cứu các đặc điểm tổ chức
về quy mơ, thời gian thành lập và trình độ có ảnh hưởng cùng chiều đến chất
lượng thơng tin kế tốn của các tổ chức thuộc khu vực thứ ba ở Brazil.


7

Nghiên cứu của tác giả Albertina Paula Monteiroa (2021): Nghiên cứu
này dựa trên các lý thuyết quyết định và tính hữu ích. Nó điều tra nhận thức
của Kế tốn viên về tính hữu ích của thơng tin tài chính (FI) và hiệu quả hoạt

động của công ty. Dựa trên dữ liệu thu thập được thông qua một cuộc khảo
sát áp dụng cho các kế toán viên đã được bằng chứng nhận, nghiên cứu này
phát triển và đánh giá một mô hình lý thuyết ban đầu bằng cách sử dụng Mơ
hình phương trình cấu trúc (SEM). Kết quả cho thấy giới tính và trình độ học
vấn của Nhà quản lý ảnh hưởng đến nhận thức tính hữu ích của FI. Các nhà
quản lý cho rằng tính hữu ích nhất của FI trong việc ra quyết định là những
công ty hoạt động có hiệu quả cao.
II. CÁC NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC:
Với các đề tài nghiên cứu trong nước, Huỳnh Thị Phương Anh (2015) đưa
ra mơ hình các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC các trường đại học,
cao đẳng công lập, trong đó có các nhân tố mơi trường bên ngồi như: Văn
hóa, giáo dục nghề nghiệp, pháp lý, chính trị, kinh tế, quốc tế.
Diệp Tiên (2016) tác giả đã xác định các nhân tố cụ thể ảnh hưởng đến
chất lượng BCTC của các đơn vị sự nghiệp công lập, trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh bao gồm: Nhân tố mơi trường pháp lý; Nhân tố phần mềm kế
tốn hành chính sự nghiệp; Nhân tố trình độ chun mơn của kế tốn viên;
Nhân tố mơi trường làm việc; Nhân tố về cơ sở vật chất, trang thiết bị, ứng
dụng công nghệ thông tin; Nhân tố về chế độ đào tạo – đãi ngộ; Nhân tố trình
độ cơng nghệ thơng tin.
Và đề tài của Trần Mỹ Ngọc (2017) đã xác định được bảy yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng thông tin kế tốn ảnh hưởng đến chất lượng thơng tin
BCTC tại các đơn vị hành chính phường/xã trên địa bàn huyện Châu Thành,
tỉnh Bến Tre, tác giả thực hiện lý thuyết nền bao gồm các lý thuyết quan điểm
về thông tin kế tốn, chất lượng thơng tin kế tốn của chế độ kế toán, quan
điểm của quốc tế và các tài liệu nghiên cứu về đơn vị hành chính sự nghiệp,
chất lượng thông tin, phương pháp nghiên cứu khoa học của các tác giả và
nhà nghiên cứu trước đây. Dựa vào kết quả phân tích hồi quy, ta thấy có tất cả
bảy nhân tố mà tác giả đặt ra đều ảnh hưởng đến chất lượng thơng tin kế tốn
tại các đơn vị nghiên cứu.
Tác giả Phạm Thị Kim Ánh (2017): Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng

đến chất lượng thông tin kế tốn. Tác giả dùng phương pháp định tính và định
lượng để nghiên cứu đề tài. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra 5 nhân tố ảnh hưởng
đến chất lượng thơng tin kế tốn: (1) Mơi trường pháp lý tại các đơn vị sự
nghiệp y tế công lập trên địa bàn TP.HCM; (2) Mơi trường chính trị; (3) Mơi
trường kinh tế; (4) Môi trường giáo dục; (5) Môi trường văn hóa.
Tác giả Đậu Thị Kim Thoa (2019): Nghiên cứu đề tài Xác định các nhân
tố bên trong đơn vị ảnh hưởng đến minh bạch thơng tin kế tốn của đơn vị sự
nghiệp công lập tại Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng phương pháp định tính và
định lượng, dùng mơ hình phương trình cấu trúc kết hợp với kỹ thuật
PLS-SEM, thu thập dữ liệu từ 164 đơn vị SNCL ở Việt Nam. Kết quả nghiên


8

cứu: Đặc điểm văn hóa, mức độ đáp ứng của thiết bị phần cứng, mức độ tự
chủ tài chính, sự am hiểu của kế toán trưởng và mức độ đáp ứng của phần
mềm tác động mạnh đến minh bạch thông tin tài chính. Nhưng sự hỗ trợ của
lãnh đạo, sự am hiểu của kế toán viên, mức độ đáp ứng của công nghệ truyền
thống và đặc điểm cơ cấu lại khơng ảnh hưởng minh bạch thơng tin tài chính
các đơn vị sự nghiệp công lập.
III. KHE HỔNG NGHIÊN CỨU:
Các đơn vị sự nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế,
nghiên cứu khoa học, văn hóa, thể dục thể thao, lao động - thương binh và xã
hội v.v ... đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới đều cần thiết và có vai trị
quan trọng, góp phần cung cấp một lực lượng lao động có trình độ cho xã
hội. Vì vậy, việc các đơn vị này hoạt động hiệu quả, có trách nhiệm và minh
bạch sẽ làm tăng lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế và tạo ra giá trị gia tăng
cho xã hội. Báo cáo tài chính của đơn vị sự nghiệp cơng lập có vai trị cung
cấp thơng tin cho nhiều đối tượng sử dụng khác nhau. Để thông tin trên báo
cáo tài chính hữu ích và đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng, tìm ra các yếu tố

ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính của các đơn vị sự nghiệp là một
mắt xích quan trọng để nâng cao chất lượng thơng tin báo cáo tài chính. Trên
thực tế, báo cáo tài chính của đơn vị sự nghiệp cơng lập chỉ để phục vụ quyết
toán ngân sách nhà nước, chưa phản ánh đầy đủ kết quả hoạt động của đơn vị,
chưa đáp ứng nhu cầu và lợi ích của cơng chúng. khả năng thay đổi của người
dùng, cũng như dự đốn về các tài ngun có thể sử dụng trong tương lai. Vì
vậy, việc nghiên cứu xác định và lượng hóa mức độ ảnh hưởng của các yếu tố
đã nêu trên đến chất lượng thơng tin báo cáo tài chính của các đơn vị sự
nghiệp công lập trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh là một đề tài quan trọng
và cấp thiết, kết quả hoạt động chưa đáp ứng được nhu cầu và lợi ích của
cơng chúng. khả năng thay đổi của người dùng, cũng như dự đoán về các tài
nguyên có thể sử dụng trong tương lai.


9

CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CƠNG LẬP:
2.1.1. Đơn vị sự nghiệp cơng lập là gì?
Theo khoản 1 Điều 9 Luật Viên chức 2010 quy định đơn vị SNCL là tổ
chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân,
cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, tại Điều 3
Nghị định 120/2020/NĐ-CP (có hiệu lực từ ngày 01/12/2020) quy định về
thành lập, tổ chức lại, giải thể ĐVSNCL thuộc Bộ, cơ quan ngang bộ hoặc
thuộc cơ quan thuộc Chính Phủ do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước
thành lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản riêng theo quy định
của pháp luật và đặt trụ sở ở nước ngoài. Ngoài ra, tại Điều 2 Luật Viên chức
cũng quy định người được tuyển dụng theo vị trí việc làm và làm việc tại đơn

vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ
lương của ĐVSNCL là Viên chức. [1]
2.1.2. Phân loại đơn vị sự nghiệp công lập:
Tại khoản 2 Điều 9 Luật Viên chức quy định đơn vị sự nghiệp công lập
(ĐVSNCL) gồm các đơn vị sau: (i) Đơn vị sự nghiệp công lập được giao
quyền tự chủ: là đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ hoàn toàn
về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự. (ii) Đơn vị SNCL
chưa được giao quyền tự chủ: là đơn vị SNCL chưa được giao quyền tự chủ
hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự.
Cụ thể, tại Điều 2 Nghị định 120/2020/NĐ-CP quy định đơn vị SNCL bao
gồm: Xét dưới góc độ vị trí pháp lý, đơn vị SNCL (trừ đơn vị SNCL thuộc Bộ
cơng an và Bộ Quốc phịng) có thể chia thành loại như sau: Đơn vị thuộc Bộ,
cơ quan ngang Bộ; Đơn vị thuộc Tổng cục, Cục; Đơn vị thuộc Ủy Ban nhân
dân cấp tỉnh; Đơn vị thuộc cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh; Đơn vị
thuộc UBND cấp huyện.[2]
2.1.3. Đặc điểm của đơn vị sự nghiệp công lập:
Đơn vị sự nghiệp thuộc cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, trong đó chủ yếu là các cơ quan nhà nước. Đơn vị sự nghiệp công
lập là nhà nước đầu tư và xây dựng để vận hành, tùy vào từng loại đơn vị sự
nghiệp mà nhà nước có sự hỗ trợ ngân sách ở những cấp dộ khác nhau. Các
ĐVSNCL được thành lập với mục đích cung cấp dịch vụ sự nghiệp cơng
trong lĩnh vực nhà nước chịu trách nhiệm cung ứng cho nhân dân hoặc lĩnh
vực mà khu vực phi nhà nước khơng có khả năng đầu tư hoặc khơng quan tâm
để đầu tư.
Cơ chế hoạt động của các ĐVSNCL đang ngày càng đổi mới theo hướng
tự chủ và được thực hiện hạch toán một cách độc lập. Các ĐVSNCL hoạt
động theo chế độ thủ trưởng. Đồng thời nhằm đảm bảo nguên tắc tập trung


10


dân chủ, tránh các tình trạng lạm quyền, vượt quyền, phòng chống tham
nhũng, pháp luật đã đưa ra các quy định về việc thành lập Hội đồng quản lý
tại các ĐVSNCL tự đảm bảo chi thường xuyên và đầu tư vào các ĐVSNCL
khác trong trường hợp cần thiết. Nhân sự tại ĐVSNCL chủ yếu được tuyển
dụng theo vị trí việc làm, theo hợp đồng, được quản lý, sử dụng tư cách là
viên chức. Trong khi đó thì người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công chức là
công chức.
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định
cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập đã chia đơn vị SNCL thành 4 loại:
Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; Đơn vị tự bảo đảm chi
thường xuyên; Đơn vị bảo đảm một phần chi thường xuyên và Đơn vị được
Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.[2]
Hiện nay các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện cơ chế tự chủ tài chính
theo Nghị định số 60/2021/NĐ-CP Quy định về cơ chế tự chủ tài chính của
đơn vị sự nghiệp cơng lập. Nghị định này quy định về cơ chế tự chủ tài chính
của ĐVSNCL trong các lĩnh vực giáo dục đào tạo, giáo dục nghề nghiệp; y tế
- dân số, văn hóa, thể thao và du lịch, thông tin và truyền thông; Khoa học và
công nghệ; các hoạt động kinh tế và lĩnh vực khác.[3]
2.1.4. Khái quát hệ thống báo cáo tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập
theo chế độ kế tốn hành chính sự nghiệp:
Hiện nay, Đơn vị sự nghiệp cơng lập báo cáo tài chính theo hướng dẫn
của Chế độ kế tốn hành chính sự nghiệp ban hành theo Thông tư 107/2017 /
TT-BTC ngày 10 tháng 10 năm 2017 của Bộ Tài chính (sau đây gọi tắt là như
Thơng tư 107). Theo đó, báo cáo tài chính được quy định áp dụng cho cả cơ
quan nhà nước và đơn vị SNCL, các mẫu báo cáo ban đầu cung cấp thơng tin
tài chính phù hợp với quy định của Luật Kế tốn. Tuy nhiên, mơ hình hoạt
động của đơn vị SNCL và cơ quan hành chính nhà nước rất khác nhau, cơ
quan nhà nước chủ yếu là đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN), còn
đơn vị SNCL hiện nay rất khác nhau tự chủ hơn, có nhiều hoạt động khác

nhau như hoạt động sản xuất, thương mại và dịch vụ, vay, huy động vốn, đầu
tư, cung cấp vốn, v.v., đặc biệt mơ hình đơn vị SNCL tự đảm bảo chi thường
xuyên và chi đầu tư, tự đảm bảo chi thường xuyên. Với đặc điểm hoạt động
của các đơn vị SNCL này, thơng tin tài chính được cung cấp thơng qua hệ
thống báo cáo tài chính cần phải đầy đủ, minh bạch và được phân loại rõ ràng
là tài sản, nợ phải trả ngắn hạn và dài hạn, kết quả từng hoạt động của đơn vị,
phân phối thặng dư sản xuất và hoạt động thương mại, dịch vụ, đầu tư tài
chính, ... Thơng tin này phải phản ánh chính xác bản chất hoạt động của đơn
vị, đảm bảo tính thiết thực, hiệu quả, trình bày khoa học và phù hợp với thơng
lệ quốc tế. Để hồn thành các báo cáo tài chính,
* Mục đích thực hiện báo cáo tài chính: Thực hiện BCTC là hoạt động
quan trọng mang tính chiến lược cho đơn vị sự nghiệp công lập. Cụ thể, thực
hiện lập BCTC mang lại các lợi ích tuyệt vời như: đem đến bức tranh tổng thể
về tình hình tài chính và hiệu quả kinh doanh của doang nghiệp; Dữ liệu kế


11

tốn quan trọng được xem là thơng tin mang đến những người có liên quan
xem xét. Chẳng hạn như Kiểm toán viên, Giám đốc, Kế toán trưởng…; Căn
cứ quan trọng giúp hoạt động giải trình thự chiện mang tính hiệu quả hơn;
Thơng tin trên báo cáo tài chính được xem là nguồn cơ sở quan trọng giúp
hợp nhất báo cáo tài chính gửi đến các cấp đơn vị quản lý cấp cao hơn.
2.1.5. Phân biệt BCTC và Báo cáo quyết tốn trong đơn vị sự nghiệp
cơng lập:
Hiện nay có hai khía cạnh thường gây nhầm lẫn trong hạng mục kế tốn
của đơn vị SNCL, đó là Báo cáo tài chính và Báo cáo quyết tốn. Hạng mục
Báo cáo tài chính và Hệ thống Báo cáo quyết toán tồn tại song song và độc
lập. Tuy nhiên, khác với BCTC, Báo cáo quyết tốn ĐVSNCL phản ánh tình
hình tiếp nhận và sử dụng nguồn kinh phí trong ngân sách nhà nước. Các dữ

liệu này giúp đnáh giá tình hình tuân thủ v àmức độ chịu trách nhiệm thực
hiện của tổ chức sự nghiệp cơng lập. Nhờ đó, cơ quan có thẩm quyền dễ dàng
kiểm tra và kiểm soát hoạt động sử dụng ngân sách nhà nước.
2.1.6. Đối tượng thực hiện và trách nhiệm lập BCTC của đơn vị sự
nghiệp công lập:
Việc lập BCTC dành cho ĐVSNCL thường thực hiện vào cuối kỳ
kếoánoán năm. Trường hợp doanh nghiệp, tổ chức có phát sinh các thời điểm
khác nhau thì Kế tốn viên sẽ tiến hành lập BCTC cho phù hợp. Kế toán viên
trong ĐVSNCL là người trực tiếp thực hiện lập báo cáo tài chính. Sau đó, kế
tốn cấp trên sẽ dựa vào đó để tổng hợp thành Báo cáo tài chính tổng hợp
hoặc Báo cáo tài chính hợp nhất.
* Đối tượng thực hiện lập BCTC trong ĐVSNCL: Để giúp BCTC đươc
hoàn thiện và có tính chính xác cao, cá nhân cần liên tục nâng cao trình độ
chun mơn cũng như khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế cơng việc.
Ngồi ra, việc sử dụng sự hỗ trợ của các công cụ công cụ công nghệ thông tin
cũng là điều cần áp dụng.
* Trách nhiệm lập BCTC: Trước khi lập BCTC cần tìm hiểu rõ ràng về
trách nhiệm tổ chức trong hooạt động này. Kế toán viên cần lập BCTC tuân
thủ theo đúng mẫu quy định được ban hành trong Thông tư số
107/2017/TT-BTC ngày 10/10/2017 về Hướng dẫn chế độ kế tốn Hành
chính, sự nghiệp của Bộ Tài chính. Trường hợp thực hiện báo cáo theo mẫu
khác phải được đề xuất và chấp nhận của tổ cứức kiểm sốt có liên quan.[4]
2.2. LÝ THUYẾT NỀN:
2.2.1. Lý thuyết cơ quan:
Về cơ bản các tổ chức khu vực công được xây dựng trên lý thuyết cơ
quan. Được thừa nhận hay khơng trong chính phủ đều có mối quan hệ với các
vấn đề của cơ quan (Halim & Abdullah, 2006). Về lý thuyết cơ quan, Jensen
và Meckling (1976) và Sieger et al. (2013) định nghĩa mối quan hệ cơ quan là
một hợp đồng trong đó một hoặc nhiều bên giao cơ quan thuê công ty để thực



12

hiện một số dịch vụ vì lợi ích của họ bằng cách giao một số quyền ra quyết
định cho đại diện. Dựa trên lý thuyết cơ quan, thực hành báo cáo tài chính
trong các tổ chức khu vực cơng là một khái niệm dựa trên lý thuyết cơ
quan. Trong báo cáo tài chính, chính phủ đóng vai trị là cơ quan đại diện có
nghĩa vụ cung cấp thơng tin hữu ích cho người sử dụng, thông tin tài chính
của chính phủ đóng vai trị chính trong việc đánh giá trách nhiệm giải trình và
đưa ra các quyết định về kinh tế, xã hội - chính trị và trực tiếp hoặc gián tiếp
thơng qua đại diện của mình (Nur, 2015 ).
2.2.2. Lý thuyết Bên liên quan.
Thuật ngữ Stakeholder lần đầu tiên được giới thiệu bởi Viện Nghiên cứu
Stanford (RSI) vào năm 1963 bởi Freeman (1999). Freeman Matuleviciene &
Stravinskiene (2015) định nghĩa các bên liên quan là các nhóm hoặc cá nhân
có thể ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng trong quá trình đạt được các mục tiêu
của tổ chức. Abi và cộng sự, (2018) giải thích lý thuyết các bên liên quan là lý
thuyết tuyên bố rằng tất cả các bên liên quan có đặc quyền nhận được thơng
tin về các hoạt động của cơng ty có thể ảnh hưởng đến việc ra quyết định của
họ. Anggriawan và Yudianto (2018) tin rằng chính quyền địa phương có khả
năng tài trợ cho việc cơng bố báo cáo tài chính cho các bên liên quan. Xu và
cộng sự. (2003) ở Anggriawan & Yudianto (2018) tun bố rằng thơng tin sẽ
hữu ích nếu thơng tin có thể hỗ trợ việc ra quyết định và người dùng có thể
hiểu được.
2.2.3. Lý thuyết quản lý cơng mới (New public management)
Lý thuyết NPM có nguồn gốc từ sự kết hợp của hai luồng ý tưởng khác
nhau, đó là phong trào kinh tế học thể chế mới và một tập hợp mới nhất của
một loạt các làn sóng kinh doanh theo kiểu chủ nghĩa quản lý trong khu vực
công (Hood, 1991). Trong những năm 1980, Hood (1995) cho rằng các quốc
gia OECD đã có một động thái mới đối với lý thuyết NPM theo hướng nhấn

mạnh trách nhiệm giải trình cơng. Đồng thời, kế tốn giữ vị trí quan trọng
trong quan niệm mới về trách nhiệm giải trình cơng, tức là, các hoạt động sử
dụng nguồn lực công cần phải được theo dõi chặt chẽ hơn và được đánh giá
bằng các kỹ thuật kế tốn (Hood, 1995). Vì thế, kể từ khi NPM xuất hiện, các
nước OECD đã hỗ trợ mạnh mẽ cho các cải cách liên quan; cụ thể từ cuối
những năm 1980 trở đi, OECD đã tổ chức một loạt các hội nghị để tập hợp
các chuyên gia và đại diện chính phủ cao cấp từ các quốc gia thành viên tham
gia cải cách quản trị nội bộ.
Mục đích của các cuộc họp này là để chia sẻ kinh nghiệm và các thực
hành tốt nhất để giúp các quốc gia thành viên thực hiện và hoàn thiện chương
trình cải cách của họ (OECD, 2002). Tuy nhiên, qua ba mươi năm vận hành
lý thuyết NPM, Hood và Dixon (2015) nhận thấy các tác động của NPM là rất
phức tạp, cả những tác động tích cực lẫn tác động tiêu cực, tùy thuộc vào bối
cảnh thể chế của từng quốc gia. Vì vậy, hệ thống cơ sở lý luận trong mảng
quản trị công đã bàn luận rất nhiều về các khía cạnh thể chế của lý thuyết
NPM (Tallaki, 2019). Các nhà nghiên cứu cho rằng các đặc điểm thể chế có


13

thể gây cản trở hoặc thúc đẩy việc thực hiện cải cách theo lý thuyết NPM tại
từng quốc gia (Adhikari và cộng sự, 2013; Tallaki, 2019). Tuy nhiên, Tallaki
(2019) nhận thấy lý thuyết NPM tiếp tục giữ vai trò chi phối trong các cải
cách của khu vực công đến nay, là chủ đề được nhiều nước quan tâm bao gồm
nước phát triển cũng như đang phát triển. Và mức độ ảnh hưởng của lý thuyết
NPM đối với từng quốc gia là không giống nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố
thuộc bối cảnh từng quốc gia, thậm chí khi các quốc gia đó đều là nhóm các
quốc gia đang phát triển thì cũng khơng hồn tồn giống nhau (Manning,
2001; Tallaki, 2019).
2.2.4. Lý thuyết hữu ích:

Thơng tin lý thuyết hữu ích cho việc ra quyết định: Thơng tin lý thuyết
hữu ích ra đời từ những năm 1960, mở đầu cho định hướng giai đoạn đầu về
việc sử dụng thơng tin kế tốn hữu ích để đưa ra quyết định phù hợp. Lý
thuyết này được coi là nền tảng lý thuyết cho việc xây dựng các chuẩn mực kế
toán quốc tế. Năm 1973, lý thuyết này được xem xét rộng rãi ở Mỹ với mục
tiêu của báo cáo tài chính là cung cấp thơng tin hữu ích cho việc ra quyết định.
Mặt khác, lý thuyết này nghiêng về tính hữu ích của thơng tin đối với người
sử dụng hơn là đáp ứng các yêu cầu của pháp luật. Thông qua việc định
hướng các quyết định phù hợp, trọng tâm đã chuyển từ các ngun tắc kế tốn
sang kết quả của q trình kế tốn mà thơng tin được cung cấp. Thơng tin lý
thuyết hữu ích cho việc ra quyết định bắt nguồn từ mục tiêu của kế tốn là
cung cấp thơng tin hữu ích cho người sử dụng để đưa ra các quyết định kinh
tế (Staubus, 2000) dựa trên đó xác định các đặc điểm định tính của báo cáo tài
chính. Báo cáo tài chính đầu tiên nên bao gồm các thơng tin liên quan, đó là
thơng tin có thể giúp người dùng đánh giá quá khứ và dự đoán tương lai của
doanh nghiệp. Hơn nữa, thơng tin này phải thể hiện tình hình kinh doanh thực
tế, nghĩa là đúng bản chất của các hiện tượng kinh tế. Ngoài ra, các yêu cầu
nhỏ khác như trình bày dễ hiểu, có thể so sánh được, khả năng kiểm tra và
tính kịp thời phải được đáp ứng. Các đặc điểm định tính nói trên là nền tảng
cho việc xây dựng hoặc lựa chọn các chính sách kế toán của doanh nghiệp
(IASB, 2010). Khi được áp dụng khi cơng bố báo cáo tài chính, lý thuyết này
yêu cầu báo cáo tài chính phải cung cấp những thông tin cần thiết và đưa ra
quyết định kịp thời của người sử dụng.
2.2.5. Lý thuyết dự phòng:
Lý thuyết dự phòng là một quan điểm lý thuyết về hành vi hữu quan nhấn
mạnh cách thức các trường hợp dự phòng hoặc hạn chế, chẳng hạn như quy
mô, sự không chắc chắn về môi trường, công nghệ và áp lực môi trường, ảnh
hưởng đến sự phát triển và hoạt động của tổ chức (Chenhall, 2003; Thomas,
1991). Nó cố gắng xác định các mối quan hệ giữa các đặc điểm bên trong và
bên ngoài và năng lực quản lý của tổ chức (Ryan, Trevor, & Nelson, 2002).

Theo khuôn khổ này, các trường hợp bất thường hoặc hạn chế ảnh hưởng
đến cấu trúc của tổ chức về đào tạo, chun mơn hóa, sự khác biệt hóa và
quan liêu hóa (Covaleski, Dirsmith, & Samuel, 1996).


14

Về hệ thống kế tốn và báo cáo tài chính, lý thuyết liên quan “dựa trên
tiền đề là khơng có hệ thống kế tốn thích hợp phổ biến nào áp dụng như nhau
cho tất cả các cơ quan trong mọi trường hợp” (Otley, 1980: 413). Do đó,
khơng có một mơ hình chung về hệ thống kiểm sốt và kế tốn phù hợp và có
thể áp dụng cho mọi tổ chức và hoàn cảnh (Anessi-Pessina, Nasi, &
Steccolini, 2008). Các tổ chức sẽ phải áp dụng các thơng lệ kế tốn mới nhằm
tìm kiếm sự điều chỉnh tốt hơn giữa hệ thống quản trị của họ và các yếu tố dự
phòng (Anessi-Pessina và cộng sự, 2008; Woods, 2009). Việc thiết kế một hệ
thống kế toán mới sẽ phụ thuộc vào năng lực của tổ chức trong việc nhận biết
và thích ứng với những thay đổi như một chức năng của các yếu tố bên ngoài
và giữa các bên.
Mặc dù lý thuyết dự phòng đã được phát triển trong khu vực tư nhân và
được sử dụng rất nhiều trong phạm vi kế toán quản trị, một số nghiên cứu đã
sử dụng quan điểm dự phịng để giải thích các cải cách trong quản lý khu vực
công và quản lý tài khoản, đặc biệt nghiên cứu sự ra đời của các hệ thống mới
để đo lường và quản lý hiệu suất, cũng như các hệ thống kế toán và báo cáo
mới (Anessi-Pessina và cộng sự, 2008; Lüder, 1992, 2002; Pollitt &
Bouckaert, 2004; Woods, 2009).
2.2.6. Lý thuyết thể chế:
Trong tài liệu của lý thuyết tổ chức, lý thuyết thể chế cho rằng các kỳ
vọng và giá trị, cả bên trong và bên ngoài tổ chức, cũng như các quy tắc của
xã hội, cũng có thể đóng một vai trị trong quyết định đưa ra những thay đổi
về tổ chức, cụ thể là liên quan đến kế tốn. hệ thống. Nó hỗ trợ rằng các tổ

chức có được tính hợp pháp nếu họ thích ứng với các kỳ vọng bên ngồi, tức
là, có áp lực phải đưa ra các thơng lệ kế tốn nhất định mà khơng cần xem xét
kỹ lưỡng liệu chúng có mang lại lợi ích hay khơng (Geiger & Ittner, 1996).
Cách tiếp cận thể chế này khác với các lý thuyết khác có bản chất tỷ lệ,
bằng cách hiểu rằng các hiện tượng kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa tạo
nên mơi trường thể chế, hình thành ý nghĩa của các khái niệm như cá nhân,
hành động xã hội, Nhà nước và xã hội (Carpenter & Feroz , 2001; Carpenter,
Cheng, & Feroz, 2007; DiMaggio & Powell, 1991; Meyer & Rowan, 1991;
Modell, 2004; Ryan và cộng sự, 2002). Trong phạm vi khu vực công, trong
những năm gần đây, lý thuyết cấp độ thể chế (cụ thể là dòng Xã hội học thể
chế mới) đã được sử dụng thường xuyên bởi các nhà nghiên cứu khác nhau,
những người tìm cách chịu đựng sự thay đổi tổ chức trong bối cảnh này
(Brignall & Modell, 2000; Grossi & Reichard , 2009; Lapsley & Pallot, 2000;
Ter Bogt, 2008; Ter Bogt & Van Helden, 2000).
Lý thuyết thể chế đã được sử dụng để giải thích cách các tổ chức phản
ứng với áp lực của môi trường thể chế của họ (Carpenter & Feroz, 2001;
Carpenter và cộng sự, 2007; Chapman, Cooper, & Miller, 2009). Nó tìm cách
xác định một loạt các yếu tố bên ngồi có thể gây áp lực hoặc gây ra quá trình
thay đổi bên trong để đạt được tính hợp pháp bên ngồi (DiMaggio & Powell,
1991; Lapsley & Pallot, 2000; Meyer & Rowan, 1991). Xu hướng đồng nhất


15

của các tổ chức trong mối quan hệ với môi trường thể chế của họ được
DiMaggio và Powell (1991) gọi là “chủ nghĩa đẳng lập”. Quá trình mà các tổ
chức có xu hướng áp dụng các thơng lệ và cấu trúc giống nhau theo thời gian,
để đối phó với các áp lực của thể chế (để tự vệ khi đối mặt với các vấn đề mà
họ chưa có giải pháp riêng), được gọi là đẳng cấu thể chế.
Thay đổi dị hình có thể xảy ra theo ba cơ chế (DiMaggio & Powell, 1991):

cưỡng chế (kết quả của áp lực chính thức và khơng chính thức gây ra cho các
tổ chức bởi các tổ chức khác và kỳ vọng của xã hội, trong một văn bản chung
về luật pháp, kinh tế và chính trị, cũng như chính thức và áp lực khơng chính
thức do Nhà nước gây ra, khiến các tổ chức phải đưa ra quyết định áp dụng
một phương thức nhất định); chuẩn mực (phát sinh từ việc chuyên nghiệp hóa
tạo thành một tập hợp các chuẩn mực và thủ tục được phân định cho một
điểm hoặc hoạt động cụ thể; kiểu đẳng cấu này xảy ra do các giá trị và ý
tưởng được chia sẻ về hành vi phù hợp, thường được lan truyền thơng qua các
nhóm chun nghiệp và học thuật); và bắt chước (xảy ra trong điều kiện
không chắc chắn và giảm độ ổn định, khi các tổ chức bắt chước các thực hành
đã được thử nghiệm và thành công trong các tổ chức tương tự khác).
2.2.7. Lý thuyết ra quyết định và quyết định
Lindblom (1959) đề cập rằng chủ nghĩa gia tăng đã xóa tan lầm tưởng
rằng việc ra quyết định là một quá trình tuyến tính. Tác giả này đề cập rằng
mỗi tác nhân tham gia sẽ có nhận thức vấn đề của họ và giải pháp của nó. Đối
với White et al. (2015), ra quyết định thành công đề cập đến khả năng của
những người ra quyết định trong cơng ty để tìm ra giải pháp tốt hơn hoặc giải
pháp sinh lợi nhất trong số một số giải pháp thay thế. “ Cách một người ra
quyết định nên đánh giá bằng chứng phụ thuộc vào cách nhiệm vụ được đóng
khung như thế nào” (Mock và cộng sự, 2008). Tuy nhiên, có ba hình thức ra
quyết định: rời rạc (có thể bị gián đoạn lớn và có cơ hội đàm phán lớn); linh
hoạt (nhanh hơn, chảy vào các cuộc họp chính thức với ít trở ngại và chậm trễ
hơn); và bị hạn chế (dòng chảy ít hơn quá trình chất lỏng và xảy ra thường
xuyên hơn là rời rạc, có xu hướng xoay quanh một hình trung tâm) (Cray, et
al., 2007). Theo cùng các tác giả, yếu tố quyết định chính là tính hai mặt của
sự phức tạp và gánh nặng chính trị, và cùng nhau xác định loại quá trình mà
các quyết định chiến lược tuân theo. Trong lĩnh vực thực hiện, Nutt (1984)
khẳng định rằng các quyết định có thể diễn ra theo nhiều cách khác nhau,
chẳng hạn như can thiệp, tham gia, thuyết phục và ra lệnh, là cách đầu tiên có
hiệu quả nhất. Đối với Bourgeois và Brodwin (1984), có năm hình thức thực

hiện một quyết định: mơ hình chiến lược chỉ huy, thay đổi, hợp tác, văn hóa
và tăng trưởng.
Theo lý thuyết thùng rác, các vấn đề phụ thuộc vào lượng năng lượng cần
được tích vào thùng rác để giải quyết chúng (Miller & Wilson, 2006). Trong
lý thuyết thùng rác, những người tham gia có thể có các sở thích, và khi
những người tham gia khác nhau được gửi tiền, các vấn đề, các giải pháp với
các loại năng lượng khác nhau, một giải pháp có thể tìm ra vấn đề và một


16

quyết định nảy sinh. Khi một vấn đề khơng tìm ra giải pháp, một vấn đề có
thể trở thành đống rác với một người tham gia (Miller và Wilson, 2006). Tác
giả này đề cập rằng các quyết định có thể khác nhau về nội dung (nội dung
của chúng); trong quá trình (cách quyết định di chuyển qua các tổ chức), và
tầm quan trọng (hoạt động hoặc chiến lược) (Miller & Wilson, 2006). Ra
quyết định có mối liên hệ chặt chẽ với lý thuyết quyết định. Lý thuyết này có
hai khía cạnh liên quan đến nhau, lý thuyết chuẩn tắc và lý thuyết mô tả. Theo
Slovic, Fischhoff và Lichtenstein, 1977, tr. 265) "Lý thuyết quy phạm liên
quan đến việc quy định các quy trình hành động phù hợp nhất với niềm tin và
giá trị của người ra quyết định. Mô tả những niềm tin và giá trị này và cách
thức mà các cá nhân đưa chúng vào các quyết định của họ là mục đích của lý
thuyết quyết định mơ tả". Lý thuyết quyết định là một cách tiếp cận liên
ngành nhằm xác định cách thức đưa ra quyết định, trong một môi trường
quyết định không xác định và không chắc chắn, tại thời điểm này, người quản
lý được hiểu là, với quan điểm hợp lý, đưa ra quyết định tối ưu khi có sự
khơng chắc chắn (Shagari & Dandago 2013), trong khi FI càng đáng tin cậy
thì việc ra quyết định của nhà quản lý càng nhạy bén hơn bởi hệ thống thơng
tin kế tốn sẽ cung cấp FI hữu ích cho quá trình ra quyết định (Sajady và cộng
sự, 2012).

Ra quyết định dựa trên các nguyên tắc cơ bản của lý thuyết quyết định.
Athanasou và Perera (2019) đề cập rằng một cá nhân phải đối mặt với lý
thuyết này khi anh ta/cô ta phải quyết định và, để làm như vậy, anh ta / cô ta
phải xác định một bộ mục tiêu để đạt được, cũng như xác định các lựa chọn
thay thế có thể thơng tin kế tốn có thể giúp cung cấp và cải thiện việc ra
quyết định tốt hơn, đồng thời cải thiện và tăng lợi thế cạnh tranh, hiệu suất và
thành công của các công ty (Phornlaphatrachakorn, 2019). Báo cáo tài chính
là một trong những nguồn thơng tin chính để phân tích tài chính (Monea,
2013). Tài khoản lãi và lỗ báo cáo kết quả hoạt động tài chính của cơng ty
trong một thời kỳ nhất định, báo cáo tài chính này tóm tắt tất cả thu nhập và
chi phí và báo cáo kết quả (Monea, 2013, trang 143. sau đó, người quản lý có
thể xác định các thuộc tính/yếu tố cần xem xét khi lựa chọn sự lựa chọn tốt
nhất.
Những người ra quyết định cần FI để hỗ trợ các lựa chọn của họ, tức là
thơng tin có cả bản chất định tính và định lượng (Smith, 2020). Tác giả này đề
cập rằng càng nhiều dữ liệu, trong thời gian thực, có thể giúp những người ra
quyết định đưa ra lựa chọn tốt nhất. Ngoài ra, tính hữu ích của thơng tin kế
tốn, tích hợp tồn bộ hệ thống kiểm sốt nội bộ, là một trung gian đưa ra
quyết định có giá trị (Huian, 2020). Do đó, tính hữu ích của thơng tin kế tốn
được coi là kết quả quan trọng của việc duy trì chất lượng của kiểm soát nội
bộ (Phornlaphatrachakorn, 2019). Theo Hội đồng Chuẩn mực Kế tốn Quốc
tế (IASB), mục đích chính của FI mục đích chung là cung cấp thơng tin hữu
ích về đơn vị báo cáo cho các bên liên quan để họ có thể các quyết định kinh
tế phù hợp (Huian, 2020). Chất lượng của kiểm soát nội bộ đóng một vai trị
quan trọng trong việc xác định và thúc đẩy lợi thế cạnh tranh, hiệu suất, thành


17

công và sự tồn tại của các công ty trong các thị trường khắc nghiệt và môi

trường cạnh tranh (Phornlaphatrachakorn, 2019). Lý thuyết quyết định là một
trụ cột cơ bản để hiểu việc ra quyết định, do đó, thành cơng của quyết định có
thể tăng lên nếu người quản lý chỉ định mức độ hữu ích cho FI do kế tốn tạo
ra (Sajady và cộng sự, 2012). Do đó, lý thuyết tiện ích cần được xem xét
trong q trình ra quyết định (Fishburn, 1968).
2.2.8. Tính hữu ích của Thơng tin tài chính và lý thuyết tiện ích
Theo Fishburn (1968), lý thuyết tiện ích có liên quan đến sở thích của con
người và giả định rằng sở thích này về mặt số lượng sẽ mang lại sự hữu ích
cho con người (Fishburn, 1968). Kết quả chính của lý thuyết, đối với Wang,
Lee, Augenbroe và Paredis (2017, tr.79) “là định lý tiện ích mong đợi, trong
đó nói rằng người ra quyết định nên chọn phương án thay thế có tiện ích
mong đợi lớn nhất”. Lý thuyết này dựa trên các giả định của kế tốn, nhằm
mục đích tạo ra thơng tin hữu ích cho tất cả các bên liên quan của FI. Tính
hữu ích của FI là thơng tin có khả năng tạo ra sự khác biệt trong việc ra quyết
định của người sử dụng báo cáo tài chính vì nó có giá trị xác nhận, giá trị dự
đoán hoặc cả hai (Frendy & Semba, 2017). FI cho phép các bên liên quan sử
dụng FI có sẵn “FI được chuẩn bị để các bên liên quan có thể sử dụng thơng
tin để hiểu và quản lý công ty tốt hơn” (Carraher và Auken, 2013). Các chủ sở
hữu DNVVN nhìn chung thiếu kiến thức quản lý và gặp khó khăn trong việc
giải thích các báo cáo tài chính, khó khăn này ngăn cản các chủ sở hữu rút ra
được tính hữu ích của FI (Auken, 2005). Tuy nhiên, khó khăn trong việc phân
tích và diễn giải FI có thể gây nguy hiểm cho sự tồn tại của doanh nghiệp
(Çaliyurt, 2011). FI cung cấp thơng tin hữu ích cho nhiều người dùng, người
dùng bên trong và bên ngoài (İbicioglu et al., 2010). Tất cả các FI được tạo ra
phải đáng tin cậy, phù hợp và chính xác để được người dùng phân tích và xử
lý nhằm trở thành trụ cột cơ bản trong việc ra quyết định (Popescu, 2009). Sự
hữu ích tuyệt vời thơng tin kế tốn có thể giúp cung cấp và cải thiện việc ra
quyết định tốt hơn, đồng thời cải thiện và tăng lợi thế cạnh tranh, hiệu suất và
thành công của các cơng ty (Phornlaphatrachakorn, 2019). Báo cáo tài chính
là một trong những nguồn thơng tin chính để phân tích tài chính (Monea,

2013). Tài khoản lãi và lỗ báo cáo kết quả hoạt động tài chính của cơng ty
trong một thời kỳ nhất định, báo cáo tài chính này tóm tắt tất cả thu nhập và
chi phí và báo cáo kết quả (Monea, 2013, trang 143. Thông tin báo cáo lưu
chuyển tiền tệ, cùng với báo cáo lãi lỗ và bảng cân đối kế toán, giúp đưa ra
quyết định sự phù hợp với các nhóm người dùng bên ngồi và bên trong
(Sharma & Jones, 1998). Báo cáo tài chính được thiết kế để cung cấp thơng
tin hữu ích về tình hình tài chính, hiệu quả hoạt động và những thay đổi trong
tình hình tài chính của các cơng ty trong một thời gian cụ thể. Đó là một trong
những mục đích tuyệt vời khi sử dụng nó là để dự đoán lợi nhuận và cổ tức
trong tương lai (İbicioglu, Kocabiyik, & Dalgar, 2010).
Tính dễ hiểu - FI phải dễ hiểu đối với người dùng và không thể “bị loại
trừ đơn thuần với lý do rằng nó có thể quá khó đối với một số người dùng
nhất định”.


18

Trọng yếu - Chỉ tiêu tài chính trọng yếu khi “sự thiếu sót hoặc khơng chính
xác của nó ảnh hưởng đến các quyết định kinh tế của người sử dụng dựa trên
cơ sở báo cáo tài chính”.
Tính liên quan - Thơng tin có chất lượng về mức độ liên quan khi nó ảnh
hưởng đến cách người dùng đưa ra các quyết định kinh tế khi đánh giá các sự
kiện trong quá khứ, hiện tại hoặc tương lai hoặc xác nhận, hoặc sửa chữa,
chẳng hạn như các đánh giá trong quá khứ của họ.
- Khả năng so sánh - người sử dụng phải có khả năng so sánh các báo cáo
tài chính của đơn vị theo thời gian để xác định các xu hướng về tình hình tài
chính và hoạt động của đơn vị đó.
Sự tin cậy –Thơng tin đáng tin cậy trừ khi nó có sai sót đáng kể, khơng
thiên vị và người dùng có thể tin tưởng rằng nó thể hiện chính xác các mục
tiêu và những gì được mong đợi trình bày một cách hợp lý. Để có được sự tin

cậy, bất kỳ thông tin nào trong báo cáo tài chính đều phải được hồn thiện.
Bất kỳ sự thiếu sót nào cũng có thể làm cho thơng tin sai lệch, gây hiểu lầm
và thiếu uy tín hoặc trở nên không liên quan.
2.2.9. Lý thuyết bất định (Contingency Theory)
Lý thuyết bất định được sử dụng cho lĩnh vực kế toán phát triển bắt đầu
vào giữa những năm 1970 trong việc giải thích các yếu tố có ảnh hưởng đến
q trình thực hiện các cải cách kế tốn trong tổ chức. Theo đó, Gordon và
Miller (1976) đã chỉ ra hai nhóm nhân tố bất định có ảnh hưởng đến việc tổ
chức hệ thống kế toán của một tổ chức là thuộc tính tổ chức và mơi trường
kinh doanh. Trong đó, Gordon và Miller (1976) nhấn mạnh rằng thuộc tính tổ
chức bao gồm các nguồn lực sẵn có và cách thức mà doanh nghiệp đó được
được tổ chức có ảnh hưởng trực tiếp đến thiết kế hệ thống kế toán của đơn vị.
Sau đó, nhiều nghiên cứu đã sử dụng khung lý thuyết bất định nhằm giải thích
ảnh hưởng của các nhân tố bất định, chẳng hạn như quy mô, thời gian hoạt
động, sự không chắc chắn về môi trường,… đối với việc áp dụng các loại thực
hành kế toán quản trị trong kiểm soát quản lý doanh nghiệp (Otley, 1980,
2016). Mặc dù lý thuyết bất định đã được phát triển trong khu vực tư nhân và
được sử dụng rất nhiều trong phạm vi kế toán quản trị (Hall, 2016; Otley,
2016). Nhưng cũng có các nghiên cứu đã sử dụng quan điểm của lý thuyết bất
định để giải thích các cải cách quản lý và kế tốn trong khu vực cơng (Van
Helden và Ouda, 2016). Trong lĩnh vực kế toán khu vực công, Luder (1992)
được xem là một trong những người đầu tiên đã đưa ra ứng dụng mơ hình bất
định để giải thích sự đổi mới kế tốn của chính phủ. Luder (1992) đã sử dụng
cả hai biến số về bối cảnh và hành vi liên quan đến các kích thích, biến cấu
trúc, hệ thống hành chính chính trị và các rào cản thực thi để giải thích các cải
cách trong kế tốn khu vực cơng (Upping và Oliver, 2011). Theo đó, mơ hình
bất định tìm cách giải thích những gì và làm thế nào mà các yếu tố mơi trường
bên trong và mơi trường bên ngồi ảnh hưởng đến sự phổ biến các đổi mới
trong hệ thống thông tin kế tốn của khu vực cơng.



19

2.3. CÁC KHÁI NIỆM NỀN TẢNG:
2.3.1. Báo cáo tài chính:
Báo cáo tài chính là sản phẩm của kế tốn tài chính, là đầu ra của hệ thống
thơng tin kế tốn. Là một phương tiện thể hiện trách nhiệm giải trình tài chính,
nhằm tổ chức tổng kết các hoạt động tài chính của năm vừa qua và lập kế
hoạch cho tương lai để tổ chức chuẩn bị và công bố các tài khoản hoặc báo
cáo tài chính hàng năm Collins và Collins (1978). Saleemi (1981) đã định
nghĩa báo cáo tài chính là q trình cung cấp thơng tin tài chính đáng tin cậy,
chính xác và đầy đủ cho các bên liên quan khác nhau để đưa ra các quyết định
kinh tế. Điều này nhằm cung cấp thông tin về báo cáo tài chính như báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh tổng hợp, báo cáo tình hình tài chính và báo cáo
lưu chuyển tiền tệ và các báo cáo tài chính hàng năm khác cung cấp một cái
nhìn tổng quan về sức mạnh tài chính hiện tại của cơng ty. Theo Samuel
(1991), báo cáo tài chính là kết quả đầu ra của hệ thống kế toán và chúng
được lập vào cuối năm, do đó có tên là tài khoản quyết tốn. Theo Horne
(1998), các báo cáo tài chính phải bao gồm một mô tả tường thuật về các hoạt
động của tổ chức và báo cáo tài chính đã được kiểm tốn. Ông lập luận rằng
những điều này cho phép các bên liên quan thấy hoạt động của tổ chức và tình
hình tài chính chung của tổ chức. Samuel (1991), nói rằng các nhà quản lý và
kế toán thường được yêu cầu bảo vệ kết quả thể hiện trong các báo cáo tài
chính như một phần của q trình giải trình. Báo cáo tài chính là bản ghi
thơng tin tài chính của một cơng ty trong kỳ kế tốn có thể được sử dụng để
mơ tả tình hình hoạt động của cơng ty (Wikipedia, 2018). Theo Fung (2014),
nếu khơng có dữ liệu và thơng tin cần thiết rất khó để hiểu tồn bộ điều kiện
tài chính.
2.3.2. Chất lượng thơng tin:
English (1996) in Karagül và Ưzdemİr (2012) đã mơ tả chất lượng thơng

tin đáng tin cậy mong muốn của khách hàng và thông qua thông tin và dịch vụ
thông tin trao quyền cho họ để thực hiện thành công công việc của họ. Chất
lượng của báo cáo tài chính là thơng tin đầy đủ và minh bạch, được thiết kế
không gây hiểu lầm cho người sử dụng (Jonas và Blanchet, 2000 in
Sudiarianti et al., 2015).
Mục đích tổng thể của báo cáo tài chính là cung cấp thơng tin tài chính
hữu ích của một đơn vị nhất định cho các nhà đầu tư, người cho vay hiện tại
và tương lai, và cho các chủ nợ khác trong việc đưa ra quyết định về hạn mức
cho vay với tư cách là một trong những nhà cung cấp vốn. Chính chất lượng
của các báo cáo tài chính đã làm cho chúng trở nên hữu ích. Chất lượng của
báo cáo tài chính có thể là yếu tố cơ bản hoặc bổ sung tùy thuộc vào mức độ
hữu ích của chúng đối với thông tin của báo cáo tài chính. Sao cũng được tất
cả đều cung cấp thơng tin hữu ích cho Báo cáo tài chính (FR) (IASB, 2010).
Ý tưởng chuyển đổi của IASB và FASB về chất lượng thơng tin tài chính hữu
ích (SFH) có hai đặc điểm định tính cơ bản (Phù hợp, trình bày trung thực) và


20

bốn đặc điểm định tính bổ sung (có thể so sánh, kiểm chứng được, kịp thời,
dễ hiểu).
Tính kịp thời: đặc điểm của tính kịp thời có nghĩa là thơng tin có sẵn cho
những người ra quyết định trước khi nó mất đi giá trị và khả năng ảnh hưởng
đến các quyết định đó. Việc có thơng tin phù hợp sớm hơn đồng nghĩa với
việc bạn có thể tăng mức độ ảnh hưởng của nó đến các quyết định và sự chậm
trễ của nó có thể gây nguy hiểm cho các giá trị cốt lõi và tiềm năng của nó.
Tuy nhiên, có một số thơng tin vẫn có thể được xem là kịp thời mặc dù thời
gian báo cáo của nó đã kết thúc từ lâu vì người dùng vẫn có thể sử dụng và
tham khảo khi đưa ra quyết định. Ví dụ, người sử dụng thơng tin cần xác định
xu hướng biến động của nhiều danh mục trong FR để đưa ra quyết định đầu tư

hoặc cho vay.
2.3.3. Chất lượng thơng tin kế tốn
Kế tốn là q trình xác định, đo lường và truyền đạt thông tin kinh tế để
cho phép người sử dụng thông tin đánh giá và quyết định (Wood, 1996). Chất
lượng dữ liệu là một vấn đề cốt yếu đối với hầu hết các tổ chức và chính
quyền địa phương cũng khơng phải là một ngoại lệ. Gần như có tiên đề rằng
kế tốn dồn tích có thể tạo ra thơng tin có chất lượng tốt hơn cho những người
ra quyết định và các cơ chế trách nhiệm giải trình Theo Đạo luật Quản lý Tài
chính và Trách nhiệm Giải trình năm 1997 (Đạo luật FMA) và Đạo luật Chính
quyền và Cơng ty Khối thịnh vượng chung năm 1997 và các cơ quan chính
phủ liên bang khác được yêu cầu chuẩn bị báo cáo tài chính hàng năm để
được kiểm toán bởi Tổng Kiểm toán, người được yêu cầu báo cáo hàng năm
cho Bộ trưởng có liên quan về việc báo cáo tài chính của đơn vị được trình
bày hợp lý theo Chuẩn mực kế tốn và các yêu cầu báo cáo chuyên môn bắt
buộc khác hay không (Barrett, 2004).
* Đặc điểm chất lượng của thông tin kế tốn
Đặc điểm chất lượng là những thuộc tính làm cho thơng tin được cung cấp
trong báo cáo tài chính hữu ích đối với những người khác (Goitom,
2003). Trong tuyên bố về các nguyên tắc lập báo cáo tài chính của mình, Hội
đồng Chuẩn mực Kế tốn (ASB) tại Vương quốc Anh nêu rõ độ tin cậy, tính
phù hợp, trọng yếu, có thể so sánh được, dễ hiểu và kịp thời là các đặc điểm
định tính của thơng tin kế tốn hữu ích đối với người sử dụng thơng tin (Stein,
2000). Để thơng tin tài chính phục vụ mục tiêu đã định, thơng tin tài chính
phải có chất lượng tốt để tăng cường khả năng ra quyết định tốt. Dưới đây là
phần thảo luận về các thuộc tính chất lượng:
- Độ tin cậy: Tiêu chí cuối cùng của độ tin cậy là tiêu chí thỏa mãn các
điều kiện mà người dùng biết chính xác ý nghĩa của thơng tin và các giới hạn
đối với nội dung kiến thức của thông tin được cung cấp (Glaucier và
Underdown, 1980). Thông tin kế toán phải đáng tin cậy khi sử dụng và điều
này ngụ ý rằng người sử dụng phải có thể dựa trên một số giả định cơ bản về

chất lượng của thơng tin kế tốn do kế tốn viên tạo ra. Tiêu chí cuối cùng
của độ tin cậy là tiêu chí thỏa mãn các điều kiện như Người dùng biết chính


21

xác ý nghĩa của thông tin và không bị lừa dối trong phân tích của họ, người
dùng biết chính xác các giới hạn đối với kiến thức nội dung của thông tin
được cung cấp (Glaucier & Underdown,1980).
Thông tin cũng đáng tin cậy nếu: Người dùng có thể phụ thuộc vào trình
bày một cách trung thực những gì muốn trình bày hoặc có thể mong đợi và
trình bày một cách hợp lý. Thơng tin khơng có sự sai lệch có chủ ý hoặc có hệ
thống, thơng tin khơng có sai sót trọng yếu, hồn tồn nằm trong giới hạn của
tính trọng yếu và thận trọng đã được áp dụng để thực hiện phán đốn và đưa
ra các ước tính cần thiết. (Stein, 2000) được trích dẫn bởi (Kigoma, 2003). Độ
tin cậy của thơng tin tài chính sẽ được xác định bởi mức độ tương ứng giữa
những gì thơng tin truyền tải đến người dùng và các giao dịch và sự kiện cơ
bản đã xảy ra và đã được đo lường và hiển thị. Thông tin đáng tin cậy sẽ đại
diện trung thực cho các giao dịch đó (SAC 3, 1990), khơng có sai lệch hoặc
sai sót quá mức. Điều quan trọng là thơng tin phải đáng tin cậy. Thơng tin có
thể thuộc loại phụ thuộc vào quyết định của người dùng. Đó là, có liên quan
nhưng khơng đáng tin cậy về bản chất hoặc sự thể hiện là vơ ích hoặc có khả
năng gây hiểu lầm.
Nếu thơng tin là đáng tin cậy, nó phải được tự do khỏi sự thiên vị (trung
lập) và không nên được thiết kế để dẫn người dùng đến kết luận nhằm phục
vụ nhu cầu, mong muốn hoặc nhận thức cụ thể của người chuẩn bị. Sự thiên
lệch có thể xuất phát từ việc cố ý khai báo sai thơng tin tài chính cho mục
đích gian lận và cũng có thể xuất phát từ chủ nghĩa bảo thủ sai lầm, dẫn đến
việc người chuẩn bị lọc thông tin được cung cấp và từ đó chiếm đoạt quyền
của người dùng để đưa ra quyết định của riêng họ. Báo cáo tài chính cho mục

đích chung cũng khơng được có sai sót quá mức nếu đó là đáng tin cậy (SAC
3, 1990).
- Sự liên quan: Để thông tin tài chính trở nên phù hợp, nó phải có giá trị
về mặt hỗ trợ người sử dụng trong việc đưa ra và đánh giá các quyết định về
việc phân bổ các nguồn lực khan hiếm và trong việc đánh giá trách nhiệm giải
trình của người lập. Thơng tin tài chính là để hỗ trợ người dùng đưa ra quyết
định về việc phân bổ các nguồn lực khan hiếm bằng cách hỗ trợ họ đưa ra các
dự đốn, về các tình huống trong tương lai và hình thành các kỳ vọng, hoặc
phải đóng vai trị xác nhận đối với các đánh giá trong quá khứ của họ (SAC 3,
1990). Thông tin mà hội đồng quản trị nhận được phải phù hợp với trách
nhiệm và nhiệm vụ của họ (Stoner và cộng sự, 1995). Thơng tin có liên quan
nếu nó có thể ảnh hưởng đến các quyết định kinh tế của người sử dụng và
được cung cấp kịp thời để ảnh hưởng đến các quyết định đó.
Thơng tin liên quan có giá trị tiên đốn. Thơng tin có giá trị tiên đốn nếu
nó giúp người dùng đánh giá hoặc đánh giá các sự kiện trong quá khứ hiện tại
hoặc tương lai. Thông tin có giá trị xác nhận nếu nó giúp người dùng xác
nhận hoặc sửa chữa các đánh giá và đánh giá trong q khứ của họ.
- Sự chính xác: Thơng tin liên quan đến một thực thể là chính xác nếu tất
cả dữ liệu về thực thể đó đã được phản ánh trong hồ sơ (Stein, 2000). Thông


22

tin càng chính xác thì chất lượng càng cao và các nhà quản lý có thể tin tưởng
vào để đưa ra quyết định một cách an toàn hơn (Stoner et al., 1995).
- Kịp thời: Thơng tin hữu ích cho người dùng nếu được cung cấp kịp thời
khi có yêu cầu. Báo cáo khơng kịp thời hoặc trì hỗn đã làm suy giảm độ tin
cậy việc báo cáo để đưa thông tin đáng tin cậy vào là những hành động không
cần thiết. Do đó, thơng tin được cung cấp bởi bất kỳ hệ thống thông tin nào
phải được cung cấp cho đúng người vào đúng thời điểm để có hành động

thích hợp được thực hiện (Stoner và cộng sự, 1995).
- Dễ hiểu: Sẽ khơng tốt nếu có tất cả các điểm liên quan nếu báo cáo tài
chính sau đó được trình bày theo cách khó hiểu đối với người sử dụng. Chất
lượng cơ bản của thông tin được cung cấp trong báo cáo tài chính là phải
được trình bày sao cho người sử dụng dễ hiểu (IASC, 2000). Theo khuôn khổ
IASC, người dùng được cho là có khả năng hoặc kiến thức hợp lý về các hoạt
động kinh doanh và kinh tế. Tính dễ hiểu đo lường sự tương tác của người
đọc văn bản và khả năng người đọc thu được kiến thức từ văn bản. SAC 3
(1990) cũng nói rằng khả năng hiểu thơng tin tài chính của người sử dụng phụ
thuộc vào khả năng chính họ và một phần vào cách thức hiển thị thông tin.
* Cân bằng giữa các đặc tính chất lượng
Có thể khơng hịa giải được các xung đột giữa các đặc điểm về mức độ
liên quan, độ tin cậy, khả năng so sánh và tính dễ hiểu và có thể cần phải đánh
đổi (Neil, 2000). Trong q trình xây dựng báo cáo; kế tốn viên phải kết hợp
thông tin thu thập được từ người quản lý doanh nghiệp với các thơng tin khác
mà kế tốn viên có thể quan sát trực tiếp. Thơng tin của người quản lý chỉ
được người quản lý quan sát trực tiếp và có chất lượng vượt trội so với các
thơng tin khác mà kế tốn viên có thể quan sát được. Sự đánh đổi giữa độ tin
cậy và mức độ liên quan nảy sinh bởi vì khi kế tốn đặt nặng hơn vào báo cáo
của người quản lý, thì thơng tin hữu ích tiềm năng hơn sẽ được đưa vào báo
cáo, với cái giá là khuyến khích người quản lý bóp méo thơng tin của mình ở
mức độ lớn hơn (Ronald & Sridhar, Năm 2004).
2.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hữu ích của báo cáo tài chính
Cách tiếp cận thể chế này khác với các lý thuyết khác có bản chất tỷ lệ,
bằng cách hiểu rằng các hiện tượng kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa tạo
nên mơi trường thể chế, hình thành ý nghĩa của các khái niệm như cá nhân,
hành động xã hội, Nhà nước và xã hội (Carpenter & Feroz , 2001; Carpenter,
Cheng, & Feroz, 2007; DiMaggio & Powell, 1991; Meyer & Rowan, 1991;
Modell, 2004; Ryan và cộng sự, 2002).
Trong phạm vi khu vực công, trong những năm gần đây, lý thuyết cấp độ

thể chế (cụ thể là dòng Xã hội học thể chế mới) đã được sử dụng thường
xuyên bởi các nhà nghiên cứu khác nhau, những người tìm cách chịu đựng sự
thay đổi tổ chức trong bối cảnh này (Brignall & Modell, 2000; Grossi &
Reichard , 2009; Lapsley & Pallot, 2000; Ter Bogt, 2008; Ter Bogt & Van
Helden, 2000).


23

Các tài liệu về kế tốn khu vực cơng và các khuôn khổ lý thuyết được đề
cập ở trên, ủng hộ rằng tính hữu ích của báo cáo tài chính đối với quá trình ra
quyết định của người sử dụng / người ra quyết định nội bộ phụ thuộc vào các
yếu tố bên trong và bên ngoài các tổ chức khu vực cơng, bao gồm cả chính
quyền địa phương (Askim, 2008; Cohen, 2009; Cohen và cộng sự, 2007;
Grossi & Reichard, 2009; Guthrie, 1998; Lee, 2008; Mack & Ryan, 2006;
Pallot, 1997; Paulsson, 2006; Taylor, 2009; Yamamoto, 2008).
Các tài liệu truyền thống cho rằng các lý do về bản chất kinh tế (để nâng
cao hiệu quả và hiệu lực) là động lực chính cho sự thay đổi tổ chức, cụ thể là
tính hữu ích của báo cáo tài chính đối với việc ra quyết định. Tuy nhiên, theo
lý thuyết tổ chức, các yếu tố thể chế (bên ngoài) - khả năng cạnh tranh, chính
phủ, các nhóm chun nghiệp, cơng nghệ và khách hàng - và các yếu tố văn
hóa (nội bộ) - cần hiệu quả, tính chuyên nghiệp, sự thay đổi về động lực tự
chủ, quy mô và mức độ phức tạp của tổ chức, và việc tìm kiếm các chiến lược
tổ chức - có vai trị nổi bật trong việc giải thích sự thay đổi của tổ chức, bao
gồm cả sự thay đổi của hệ thống kế toán (Benito, Bastida, & Munoz, 2010;
Burns & Scapens, 2000; Deegan, 2002; Scapens, 1994).
Về những thay đổi trong hệ thống kế toán và báo cáo cũng như tính hữu
ích của thơng tin tài chính, về tổng thể, các nghiên cứu này đề cập đến như
các yếu tố ảnh hưởng (Buylen & Christiaens, 2013): áp lực về thể chế và luật
pháp, thiếu hiểu biết về thông tin mới được chuẩn bị theo cơ sở dồn tích, thiếu

nguồn nhân lực và khả năng chống lại sự thay đổi, cùng những yếu tố khác.
Một số yếu tố liên quan trực tiếp đến đặc điểm và thái độ cá nhân của người
ra quyết định, một số yếu tố khác là kết quả của các tiêu chuẩn thể chế nhất
định của các tổ chức tương ứng và những yếu tố khác liên quan đến lập
trường bên ngoài.
Các yếu tố liên quan đến đặc điểm hành vi cá nhân của người ra quyết
định - chẳng hạn như kỹ năng, kiến thức và kinh nghiệm về các khái niệm và
công cụ quản lý tài chính (sự quen thuộc) - dường như có liên quan đặc biệt
trong việc xác định mức độ hữu ích mà họ cung cấp cho thông tin tài chính
(Askim, 2008; Paulsson, 2006; Yamamoto, 2008).
Mức độ sử dụng dữ liệu báo cáo tài chính để ra quyết định cũng tùy thuộc
vào "mức độ hữu ích của quyết định" của dữ liệu (xemMack & Ryan, 2006,
về khái niệm này), điều này xác định lợi ích tiềm năng của dữ liệu đối với
người dùng (mức độ liên quan, sự phù hợp với kỳ vọng, vv) nhưng nó cũng là
một câu hỏi về tính dễ đọc và dễ hiểu của thơng tin tài chính. Grossi và
Reichard (2009) giải thích rằng nhu cầu về một số bộ dữ liệu báo cáo tài
chính phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố cá nhân và thể chế khác nhau, như
kiến thức hoặc văn hóa. Nói chung, việc sử dụng thơng tin phi tài chính là kết
quả của sự tác động lẫn nhau của một số yếu tố ảnh hưởng liên quan đến phía
cung và phía cầu.
2.3.5. Kiểm soát nội bộ


24

Trong Từ điển Quốc tế (2002), kiểm soát được định nghĩa là giám sát,
điều tra; so sánh thực tế với các điều kiện được đặt ra; duy trì hoạt động của
một vật thể. Trong từ điển về Kinh tế, kiểm soát là cách thể hiện sự ảnh
hưởng trong việc quản lý của công ty; là quyền lợi theo luật và hợp đồng liên
quan đến việc sở hữu tài sản; là quyền mà có ảnh hưởng quan trọng đến việc

quản lý và hoạt động của công ty hoặc là sự giám sát. Do cách tiếp cận khác
nhau, nên khái niệm về kiểm sốt được trình bày khác nhau mặc dù ý nghĩa
khá giống nhau (Bảng 1). Theo Liên đồn kế tốn quốc tế (IFAC), hệ thống
KSNB là kế hoạch của đơn vị và tồn bộ các phương pháp, các bước cơng
việc mà các nhà quản lý doanh nghiệp tuân theo. Hệ thống KSNB trợ giúp
cho các nhà quản lý đạt được mục tiêu một cách chắc chắn theo trình tự và
hoạt động một cách hữu hiệu có từ việc tơn trọng các quy chế quản lý; giữ an
toàn tài sản, ngăn chặn, phát hiện sai phạm và gian lận; ghi chép kế tốn đầy
đủ, chính xác, lập báo cáo tài chính kịp thời, đáng tin cậy. Theo COSO (2013),
khái niệm KSNB là một quá trình do người quản lý, hội đồng quản trị và các
nhân viên của đơn vị chi phối, nó được thiết lập để cung cấp một sự đảm bảo
hợp lý nhằm thực hiện các mục tiêu liên quan đến hoạt động, báo cáo và tuân
thủ. Kiểm soát nội bộ là một khuôn khổ các thỏa thuận và hệ thống nhằm bảo
vệ tài sản của đơn vị và các tài sản khác mà hiệp hội có thể sử dụng được, xác
nhận báo cáo tài chính chính xác và đáng tin cậy, các nguyên tắc hoặc luật và
kiểm soát sự tiến bộ nhất quán, và việc hoàn thành nhiệm vụ hiệu quả và
thành cơng (Dzomira, 2014). Luật Kế tốn (2015) cho rằng, “Kiểm soát nội
bộ là việc thiết lập và tổ chức thực hiện trong nội bộ đơn vị kế tốn các cơ chế,
chính sách, quy trình, quy định nội bộ phù hợp với quy định của pháp luật
nhằm bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời rủi ro và đạt được yêu
cầu đề ra”. Theo AU 319 và COSO, kiểm soát nội bộ bao gồm năm phần: (i)
mơi trường kiểm sốt, (ii) đánh giá rủi ro, (iii) hoạt động kiểm sốt, (iv) thơng
tin và truyền thơng, và (v) giám sát.
2.3.6. Năng lực nguồn nhân lực
Khái niệm năng lực lần đầu tiên được biết đến bởi Boyatzis (1982) khi
ông cho rằng, năng lực là khả năng của con người xuất hiện phù hợp với nhu
cầu của các tổ chức làm việc trong điều kiện mơi trường bình thường và mang
lại những kết quả mong muốn. Funk (2005) khẳng định, năng lực là mức độ
thể hiện hiệu quả của các yếu tố kiến thức, kỹ năng và quản lý. Mặt khác,
Pike và Fernstro (2010) lại đưa ra nhận định, năng lực là đặc điểm của một

người mang lại kết quả cao trong công việc. Nhiều tác giả mô tả năng lực
giống như các đặc điểm cá nhân như kiến thức, kỹ năng, khả năng, tính cách,
nỗ lực và giá trị bản thân.
Theo Rothwell (1996), năng lực là khả năng về kiến thức hay khả năng
sản xuất, ông chia năng lực theo 4 phần cụ thể: (1) Năng lực kỹ thuật: năng
lực thực hiện các nhiệm vụ chính của cơng ty; (2) Năng lực quản lý: năng lực
liên quan đến khả năng quản lý cần thiết trong nhiệm vụ của tổ chức; (3)
Năng lực xã hội: khả năng giao tiếp cần thiết để thực hiện nhiệm vụ chính của
tổ chức; (4) Năng lực trí óc: khả năng suy nghĩ chiến lược với tầm nhìn trước


25

được tương lai. Prihadi (2004) cho rằng, thành phần chính của năng lực bao
gồm kiến thức, kỹ năng và thái độ. Những thành phần này đều liên quan và
ảnh hưởng đến vị trí, vai trị, trách nhiệm, liên quan đến hiệu suất cơng việc.
Trong khi đó, Stewart và Brown (2011) lại cho rằng, năng lực đại diện cho
kiến thức, kỹ năng, khả năng cần thiết để thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Nhìn chung, năng lực bao gồm các đặc điểm cơ bản như: Kiến thức, kỹ năng
và khả năng áp dụng của một cá nhân thực hiện nhiệm vụ của mình để tạo ra
hiệt suất cao.
Nguồn nhân lực được coi là một trong những tầm quan trọng nhất của các
tổ chức hiện nay (Isaiah & Ericsson, 2012). Nguồn nhân lực dựa vào năng lực
có thể nâng cao năng lực và xây dựng nền tảng, bởi vì những người làm việc
trong tổ chức có năng lực phù hợp với yêu cầu cơng việc, những người này có
khả năng cả về kiến thức, kỹ năng và tinh thần và năng suất lao động
(Hutapea và Thoha, 2008: 86), Spencer và Spencer (1994). Theo Hutapea và
Thoha (2008) đã tiết lộ rằng có ba thành phần chính của sự hình thành năng
lực, đó là kiến thức, kỹ năng và hành vi.
2.3.7. Quản trị tài chính tại các đơn vị sự nghiệp cơng lập:

Quản trị tài chính (QTTC) trong các đơn vị sự nghiệp cơng lập (ĐVSNCL)
là q trình áp dụng các cơng cụ, phương pháp quản trị và hình thức tác động
vào quy trình tài chính của đơn vị nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ và nâng
cao đời sống cho người lao động, thúc đẩy đơn vị phát triển bền vững. Vì vậy
QTTC đóng vai trị hết sức quan trọng, là hoạt động cần thiết đối với các
ĐVSNCL. Theo Nguyễn Trọng Thản và Phạm Thị Hồng Phương, xét về quy
trình tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính và quỹ tiền tệ: “Quản trị tài
chính của một đơn vị cung cấp dịch vụ cơng là q trình lập kế hoạch, tổ chức,
thực hiện, kiểm soát và điều tiết việc tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài
chính và quỹ tiền tệ để đạt được các mục tiêu hoạt động của đơn vị”.
Đối tượng quản trị của quản trị tài chính trong các ĐVSNCL là hoạt động
tài chính của các đơn vị này. Đây là các mối quan hệ kinh tế trong phân phối
gắn với quá trình hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ ở mỗi đơn vị, cụ thể là
quản trị các nguồn tài chính, cũng như doanh thu, chi phí, kết quả tài chính và
phân phối kết quả tài chính của đơn vị. Quản trị tài chính ĐVSNCL bao gồm
các nội dung sau: Quản trị tài sản và nguồn vốn; quản trị doanh thu; quản trị
chi phí; quản trị hiệu quả tài chính. Mỗi nội dung này phải tơn trọng 3 khâu
của quy trình quản trị tài chính.
Mục tiêu của phân tích báo cáo tài chính phục vụ cơng tác quản trị tài
chính đơn vị sự nghiệp cơng lập: Hiện nay, có nhiều cách hiểu về khái niệm
phân tích báo cáo tài chính. Theo Josette Peyrard, phân tích báo cáo tài chính
là tập hợp các phương pháp cho phép đánh giá tình hình tài chính trong q
khứ và hiện tại, giúp đưa ra các quyết định quản trị và đánh giá “sức khỏe”
của doanh nghiệp một cách chính xác. Nguyễn Thị Thanh (2019) cho rằng
phân tích báo cáo tài chính và báo cáo quyết tốn của các đơn vị hành chính
sự nghiệp là tổng thể các phương pháp phân tích được sử dụng để đánh giá


×