Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận Thanh toán quốc tế tìm hiểu Biến động tỷ giá 2008-2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.72 KB, 29 trang )

BẢNG PHÂN CÔNG THỰC HIỆN CÔNG VIỆC NHÓM
Mã sinh viên Họ tên Nhiệm vụ Nhận xét
0953010065 Trịnh Thị Hoài Thương - Phân tích tác động của biến động tỷ giá
USD/VND 2008-2009 đến cán cân thương
mại
Hoàn thành nhiệm
vụ được giao
0953010067 Lê Bá Tiệp - Phân tích tác động của biến động tỷ giá
USD/VND 2008-2009 đến cán cân vốn
Hoàn thành nhiệm
vụ được giao
0952030100 Nguyễn Thị Trà My - Điểm lại một số nét chính của tình hình
kinh tế thế giới 2008-2009
- Phân tích nguyên nhân cung cầu trên thị
trường đến biến động tỷ giá USD/VND
2008-2009
Hoàn thành nhiệm
vụ được giao
0951010672 Hoàng Mỹ Hạnh - Phân tích nguyên nhân chênh lệch lạm phát
và lãi suất đến biến động tỷ giá USD/VND
2008-2009
- Tổng hợp tiểu luận
Hoàn thành nhiệm
vụ được giao
0951010721 Lương Quang Trung - Phân tích diễn biến tỷ giá USD/VND 2008-
2009
- Phân tích tác động của biến động tỷ giá
USD/VND 2008-2009 đến đầu tư
Hoàn thành nhiệm
vụ được giao
1


Mục lục
Mục lục 2
Lời mở đầu 3
Nội dung 4
2.Biến động tỷ giá do lạm phát: 10
3.Cung và cầu USD trên thị trường Việt Nam giai đoạn 2008 – 2009: 12
4.Biến động tỷ giá do chênh lệch lãi suất: 16
5.Nguyên nhân khác: 19
2.Ảnh hưởng của tỷ giá đến tài khoản vốn: 24
3.Đầu tư: 26
Kết luận 28
Tài liệu tham khảo 29
2
Lời mở đầu
Khủng hoảng cho vay bất động sản dưới chuẩn của Mỹ năm 2008 đã khơi ngòi cho cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu sụt giảm đáng kể, các nền kinh tế
phát triển đều rơi vào suy thoái. Chính phủ nước Hoa Kỳ phải thực thi các giải pháp cứu trợ
kinh tế trị giá hàng nghìn tỷ đôla Mỹ và liên tiếp cắt giảm lãi suất chủ đạo, bơm thanh khoản
vào hệ thống ngân hàng. Tình hình suy thoái kinh tế cũng tác động mạnh đến các nước đang
phát triển, trong đó có Việt Nam. Mà một trong những biến số quan trọng của nền kinh tế bị
ảnh hưởng đầu tiên và mạnh mẽ chính là yếu tố tỷ giá, quan trọng nhất là tỷ giá USD/VND.
Năm 2008 – 2009 là giai đoạn tỷ giá biến động đầy bất ổn, khi chỉ trong 2 năm 2008 –
2009, tỷ giá VND/USD đã tăng 1.838VND/USD, thậm chí còn lớn hơn mức tăng trong giai
đoạn 7 năm trước đó (trong giai đoạn 2001 – 2007, mức tăng chỉ là 1.502VND/USD), thêm vào
đó, nhà nước đã phải 2 lần phá giá nội tệ, cùng với nhiều lần thay đổi biên độ giao dịch tỷ giá.
Những biến động này đã tác động không nhỏ đến kinh tế Việt Nam, từ hoạt động xuất nhập
khẩu, cán cân thương mại đến nợ nước ngoài, hay các hoạt động đầu tư, thu hút vốn
Những tác động sâu sắc đó đến toàn nền kinh tế đòi hỏi phải nhìn thẳng vào vấn đề, xem
xét kỹ lưỡng diễn biến, tìm ra nguyên nhân và phân tích các ảnh hưởng của nó, từ đó, rút ra các
bài học kinh nghiệm để có thể quản lý, điều hành công cụ tỷ giá đối với nền kinh tế Việt Nam

hiệu quả hơn. Đó chính là mục đích để nhóm chúng tôi thực hiện bài tiểu luận với nội dung:
“Phân tích diễn biến, nguyên nhân và tác động của biến động tỷ giá giai đoạn 2008 – 2009”.
Trong bài làm còn có nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự đánh giá, góp ý của cô giáo
cùng các bạn để nhóm tác giả có thể hoàn thiện hơn phần nghiên cứu của mình.
3
Nội dung
I. Diễn biến:
1. Tình hình biến động trước giai đoạn 2008-2009:
Trong giai đoạn sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 – 2000, nền kinh tế
nước ta đi vào ổn định và tỷ giá VND/USD được neo giữ tương đối cứng nhắc.
Bảng 1: Tỷ giá VND/USD (loại tờ lớn) vào ngày 15 các tháng 2, 5, 8 và 11 giai đoạn 2001-2007
Nguồn: Ngân hàng Á Châu ( />Tuy nhiên, đến cuối năm 2007, nguồn vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam tăng đột biến
khiến nguồn cung USD tăng. Điều đó dẫn tới sự dư cung USD và tỷ giá giảm đến sàn biên độ
1
.
2. Giai đoạn 2008-2009:
Nhìn chung, trong giai đoạn 2008 – 2009, tỷ giá VND/USD có nhiều biến động hơn rất
nhiều.
1
Thông tin tổng hợp từ báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước Việt Nam
4
Bảng 2: Tỷ giá VND/USD trung bình các tháng giai đoạn 2008 – 2009
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2008 và 2009, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Vào năm 2008, khi cuộc khủng hoảng tài chính và bong bóng bất động sản nổ ra tại Mỹ,
đã có một sự đảo chiều mạnh mẽ trong lượng vốn đầu tư gián tiếp vào nước ta với mức thâm
hụt 578 triệu USD và quay trở lại thặng dư ở mức 178 triệu USD vào năm sau. Tỷ giá
VND/USD cùng với đó biến động mạnh. Chỉ trong 2 năm 2008 – 2009, tỷ giá VND/USD đã
tăng 1.838VND/USD, thậm chí còn lớn hơn mức tăng trong giai đoạn 7 năm trước đó (trong
giai đoạn 2001 – 2007, mức tăng chỉ là 1.502VND/USD). Trên thị trường chợ đen, đã có thời kì
tỷ giá lên đến 19.400VND/USD.

Ngày Biên độ cho phép
01/07/2002 +/- 0,25%
31/12/2006 +/- 0,5%
24/12/2007 +/- 0,75%
10/03/2008 +/- 1%
27/06/2008 +/- 2%
06/11/2008 +/- 3%
24/03/2009 +/- 5%
01/12/2009 +/- 3%
Bảng 3: Thay đổi biên độ giao dịch tỷ giá so với tỷ giá VND/USD được công bố
trên thị trường liên ngân hàng (Nguồn: Tổng hợp)
Đồng thời, Ngân hàng nhà nước liên tục đưa ra các chính sách thay đổi biên độ giao dịch
5
tỷ giá so với tỷ giá VND/USD được công bố trên thị trường liên ngân hàng. Biên độ này mở
rộng ra rất nhiều so với giai đoạn trước. Đặc biệt, cần lưu ý răng trong giai đoạn 2000 – 2006,
chỉ có duy nhất một lần Ngân hàng nhà nước ban hành chính sách thay đổi biên độ giao dịch tỷ
giá so với tỷ giá VND/USD được công bố trên thị trường liên ngân hàng từ 0,1% lên 0,25%.
Các ngân hàng thương mại trong giai đoạn này liên tục giao dịch ở mức giá trần.
Trong 2008 – 2009, Ngân hàng nhà nước đã tiến hành phá giá đồng nội tệ 2 lần: lần thứ
nhất ở mức 3% vào cuối 12/2008 và lần thứ hai lên tới 5,44% vào ngày 26/11/2009 để chống
đầu cơ tiền tệ và giảm áp lực thị trường.
Vào cuối năm 2009, kì vọng vào việc đồng Việt Nam mất giá vẫn còn rất cao.
II. Nguyên nhân:
1. Điểm qua một số sự kiện thế giới tiêu biểu có ảnh hưởng đến tỉ giá USD/VND tại Việt
Nam giai đoạn 2008 – 2009:
Có thể nói, giai đoạn 2008 – 2009 là giai đoạn mà nền kinh tế thế giới chao đảo trước sự
sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng, mở đầu cho cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính đầu tiên
của thế kỉ 21, một cuộc khủng hoảng “phi vật chất” không hề giống với bất kì cuộc khủng
hoảng nào trước đó.
Năm 2008 là năm mà cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bùng phát mạnh mẽ nhất.

Manh nha từ tháng 8 năm 2007, cuộc khủng hoảng này được “châm ngòi” bằng hoạt động
cho vay thế chấp dưới chuẩn (sub-prime mortgage) dễ dãi và thiếu kiểm soát ở Mỹ. Kéo theo
đó là sự đổ vỡ dây chuyền trong ngành tài chính Mỹ ở thời kỳ đỉnh điểm giữa tháng 9/2008 đã
lan qua Đại Tây Dương, tới châu Âu, và gây ra những cơn “dư chấn” ở châu Á. Đây là sự đồng
loạt suy thoái lần đầu tiên kể từ Đại chiến Thế giới thứ hai của ba nền kinh tế lớn nhât thế giới
(Mỹ, Nhật Bản và khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) khiến cho kinh tế toàn
cầu giảm tốc mạnh. Suy thoái tại các nền kinh tế lớn – đồng thời là thị trường xuất khẩu chủ
chốt của các nền kinh tế đang nổi lên – kéo tốc độ tăng trưởng sụt giảm trên phạm vi toàn cầu.
2008 cũng là năm của các kế hoạch giải cứu và kích thích kinh tế.
Tính nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã khiến chính phủ các nước
không thể không can thiệp. Tại Mỹ, Chính phủ nước này năm qua đã phải tiếp quản hai tập
đoàn tài chính nhà đất khổng lồ là cặp “sinh đôi” Fannie Mae và Freddie Mac, hãng bảo hiểm
AIG và ngân hàng Citigroup. Đồng thời, đưa ra kế hoạch giải cứu quy mô lớn 700 tỷ USD dành
cho ngành tài chính, kế hoạch 800 tỷ USD để “phá băng” thị trường tín dụng, kế hoạch mua
thương phiếu để tăng tính thanh khoản cho các doanh nghiệp không thuộc ngành ngân hàng, kế
hoạch cứu các con nợ địa ốc khỏi mất nhà… Chính phủ Mỹ cũng đã tìm biện pháp để cứu
6
ngành công nghiệp xe hơi của nước này sau khi một kế hoạch hỗ trợ 14 tỷ USD dành cho các
hãng ôtô bị Thượng viện bác bỏ.
Tại châu Âu, danh sách các ngân hàng được các nhà chức trách can thiệp cũng tương đối
dài. Nhiều ngân hàng lớn của châu lục này đã bị quốc hữu hóa một phần hoặc toàn bộ như
Northern Rock và Bradford & Bingley của Anh, Fortis và Dexia của Bỉ, Hypo Real Estate của
Đức; Kaupthing, Landsbanki và Glitnir của Iceland… Các nước sử dụng đồng tiền chung Euro
cũng đi tới một kế hoạch giải cứu tập thể cho ngành ngân hàng. Nước Anh cũng tung ra một gói
giải cứu trị giá 85 tỷ USD cho hệ thống tài chính của mình.
Thế giới cũng chứng kiến sự ra đời của những kế hoạch kích thích kinh tế lớn chưa từng
có. Mở màn là gói kích thích kinh tế thông qua hoạt động hoàn thuế cho người dân và doanh
nghiệp trị giá hơn 150 tỷ USD của Mỹ. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới Trung
Quốc cũng đã tung ra gói kích thích kinh tế trị giá 568 tỷ USD. Vào ngày 12 tháng 12 năm
2008, Nhật Bản đã công bố kế hoạch kích thích kinh tế trị giá 255 tỷ USD. Cùng thời điểm, EU

cũng đưa ra một kế hoạch tương tự trị giá khoảng 267 tỷ USD.
Cuộc khũng hoảng cũng kéo theo sự đổi hướng trong chính sách tiền tệ của các nước, xuất
hiện những mức lãi suất thấp chưa từng có trong lịch sử.
Những biến động đó buộc ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đi tới những thay
đổi hiếm gặp trong chính sách tiền tệ. Từ chủ trương thắt chặt tiền tệ để chống khủng hoảng,
thế giới đã chuyển sang nới lỏng mạnh mẽ chính sách này để chống khủng hoảng và hỗ trợ tăng
trưởng. Với chuỗi cắt giảm lãi suất 10 lần kể từ tháng 9/2007 tới nay, FED đã đưa lãi suất đồng
USD từ mức 5,25% về khoảng thấp chưa từng có trong lịch sử 0 – 0,25%. ECB, ngân hàng
trung ương với mục tiêu số một là chống lạm phát, cũng đã phải giảm mạnh lãi suất đồng Euro
về mức 2,5% sau khi khủng hoảng tấn công mạnh vào châu Âu. Nhật Bản lần đầu tiên hạ lãi
suất trong 7 năm trở lại đây, đưa lãi suất đồng Yên về mức 0,3%. Trung Quốc cũng liên tục cắt
giảm lãi suất đồng Nhân dân tệ. Thụy Sỹ trở thành quốc gia đầu tiên tại châu Âu hiện nay có
mức lãi suất dưới 1% khi mới đây đưa lãi suất đồng Franc của mình về 0,5%
Năm 2008 chứng kiến đỉnh cao và sự thoái trào của hoạt động đầu cơ trên thị trường hàng
hoá.
Hai mặt hàng được quan tâm nhiều là vàng và dầu thô đều cùng đạt đỉnh cao lịch sử trong
năm nay, với mức trên 1.030 USD/oz đối với giá vàng vào thời điểm tháng 3, và mức trên 147
USD/thùng đối với giá dầu vào giữa tháng 7. Sau đó, giá cả hai mặt hàng này cùng trượt dốc
dài. Tuy nhiên, với tư cách là một kênh đầu tư an toàn trong khủng hoảng, giá vàng không sụt
giảm quá mạnh. Trong khi đó, giá dầu – một hàn thử biểu của sức khỏe kinh tế - đã “đánh mất”
7
hơn 70% so với mức đỉnh nói trên.
Năm 2008 còn là năm chao đảo của thị trường chứng khoán toàn cầu.
Khủng hoảng tài chính, kéo theo sự đổ vỡ và nguy cơ đổ vỡ của nhiều tập đoàn lớn trong
ngành này, cùng với sự suy thoái của kinh tế toàn cầu, đã khiến thị trường chứng khoán thế giới
liên tục rung chuyển trong năm 2008. Cũng theo số liệu của Bloomberg, tính tới ngày 19/12
này, thị trường chứng khoán thế giới đã sụt giảm 46% giá trị so với hồi đầu năm, còn 32.000 tỷ
USD. Riêng tại thị trường Mỹ, tính tới ngày 17/12, chỉ số Dow Jones đã giảm 33,47%, chỉ số
S&P 500 giảm 38,4%, còn chỉ số Nasdaq giảm 40,45%.
Sang đến năm 2009, đã có một vài mảng sáng trong gam màu u ám của nền kinh tế thế giới

nhưng cũng không đủ để kéo nó thoát khỏi sự ảm đạm.
Hàng loạt các quốc gia đã thoát khỏi suy thoái.
Vào đầu tháng 12 năm 2009, khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu hồ hởi tuyên bố
EU, ngoại trừ Hy Lạp và Tây Ban Nha, đã chính thức thoát khỏi suy thoái. Trong quý III/2009,
EU tăng trưởng dương 0,3%, sau 5 quý âm liên tiếp. Khu vực này được vực dậy nhờ hoạt động
xuất khẩu cùng hàng loạt biện pháp kinh tế của các chính phủ. Trước đó, các nền kinh tế
khác như Singapore, Hong Kong, Đức, Pháp cũng tuyên bố đã ra khỏi thời kỳ đen tối nhất.
Với kết quả tăng trưởng kinh tế quý 3 đạt 2,2%, nền kinh tế lớn nhất toàn cầu là Mỹ cũng đã
qua đáy lúc nào không hay, đập tan các dự báo về suy thoái kép. Trước đó, GDP nước này tăng
trưởng âm 4 quý liên tiếp.
2009 là năm nước Mỹ chứng kiến làn sóng sụp đổ của các ngân hàng.
Chỉ riêng trong ngày 18/12, có tới 7 ngân hàng đóng cửa, nâng tổng số nạn nhân từ đầu
năm lên đến 140. Đây là con số khổng lồ so với vỏn vẹn 3 ngân hàng Mỹ bị xóa sổ hồi 2007.
Trong toàn bộ năm 2008, ngành ngân hàng nước này chỉ có 25 nạn nhân. Tuy nhiên sang đến
năm 2009, Mỹ chỉ mất 4 tháng đầu tiên để “đạt được” con số trên nhưng hầu hết các nạn nhân
của năm nay đều là những ngân hàng nhỏ. Đó cũng là tín hiệu khả quan, một phần nhờ vào
những nồ lực của chính phủ Mỹ. Gói Giải trừ nợ xấu (TARP) trị giá khoảng 200 tỷ USD phê
duyệt hồi cuối 2008 đã phát huy tác dụng. Nhờ TARP, một loạt ngân hàng đã phục hồi và thậm
chí còn thu lãi kỷ lục như Goldman Sachs. Trong quý 2/2009, lợi nhuận của Goldman đạt 3,4 tỷ
USD, tăng tới 89% và là kỷ lục trong lịch sử 140 năm của ngân hàng này. Sau khi Goldman
Sachs tuyên bố đã thanh toán xong mọi nợ nần với chính phủ, một loạt các đại gia khác như
Well Fargos, Citigroup cũng cho biết đã sẵn sàng trả nợ.
Giá dầu đã tăng gấp đôi trong một năm.
8
Khởi đầu năm 2009 với mức đáy 34,57 USD một thùng vào ngày 2/1, giá dầu tăng nhanh
với tốc độ xấp xỉ 10 USD chỉ trong một tuần sau đó do tác động của tình hình chiến sự tại Dải
Gaza và những tranh cãi xung quanh vấn đề vận chuyển dầu của Nga qua Ukraina. Đà hồi
phục của kinh tế thế giới trong suốt năm 2009 tiếp tục là động lực cho thị trường suốt 12
tháng sau đó. Cùng với những tin tức tốt lành từ kinh tế Mỹ, giá dầu đạt kỷ lục 79,12 USD một
thùng vào thời điểm 2 ngày trước khi năm 2009 kết thúc.

Năm 2009 cũng là một năm của giá vàng.
Giá vàng 2009 chứng kiến đà leo thang chóng mặt từ mấp mé 900 USD một ounce hồi đầu
tháng 1 lên 1.091 USD vào cuối tháng 12. Ngày 3/12, giá lập đỉnh cao nhất mọi thời đại tại
1.126,56 USD. Sức tăng của thị trường được kết hợp của nhiều yếu tố, bao gồm đồng đôla
yếu. Lâu nay, tờ bạc xanh vẫn được xem là đối thủ của kim loại màu vàng. Khi USD tăng
giá, nhà đầu tư sẽ đổ xô đầu tư vào mua USD, bỏ rơi vàng và ngược lại. 8 năm qua, chỉ số
Dollar Index mất 61% giá trị, trong khi giá vàng tăng tới 365%.
Việc thị trường được thổi lên gần chạm 1.300 USD vào cuối năm còn nhờ nguy cơ lạm
phát. Mặc dù các chuyên gia khẳng định chưa thấy yếu tố hỗ trợ lạm phát nào xuất hiện, giới
đầu tư vẫn lao vào vàng, lo sợ đồng tiền mất giá. Tiêu biểu nhất là làn sóng mua vàng thay thế
đôla trong kho dự trữ ngoại tệ của các ngân hàng trung ương, khiến giá càng lên cao quá mức.
Trong tháng cuối năm, thị trường điều chỉnh giảm mạnh, từ mức cao kỷ lục xuống chỉ còn
quanh 1.090 USD, phù hợp với nhiều dự báo.
Trong năm 2009, trọng tâm thế giới đang dần chuyển dịch về phía Đông.
Cùng với Trung Quốc, các quốc gia châu Á trở thành trung tâm chú ý của toàn thế giới
trong khủng hoảng. Suy thoái kinh tế toàn cầu là cơ hội để các quốc gia trong khu vực khẳng
định vị thế của mình. Trong tháng 12/2009, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) nâng mức dự
báo tăng trưởng cho nhóm 45 quốc gia châu Á đang phát triển lên 4,5% trong 2009 và 6,6%
trong năm 2010. Con số này cao hơn nhiêu so với đánh giá trước đó, lần lượt là 3,9% và 6,4%
cho hai năm. Với mức tăng này, châu Á hiện vẫn là đầu tàu tăng trưởng của thế giới. Nền kinh
tế lớn nhất châu Âu là Đức mới đây công bố tăng trưởng quý 2/2009 đạt 0,3%. Dù khiêm tốn,
đây là quý đầu tiên nước này đi lên sau 4 quý lao dốc liên tiếp. Thậm chí, theo đánh giá của
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm tới sẽ phụ thuộc vào
châu Á, đặc biệt là những nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ.
9
2. Biến động tỷ giá do lạm phát:
Lạm phát là sự giảm sức mua của tiền tệ được đo lường bằng giá cả chung tăng lên. Lạm
phát là nguyên nhân chính khiến tỷ giá biến động, nhưng từ từ và trong dài hạn. Lạm phát phản
ánh sức mua của tiền tệ nên khi lạm phát của VND càng cao thì VND càng mất giá. Lạm phát
của VND luôn cao hơn lạm phát của USD nên tỷ giá USD/VND thường có xu hướng tăng.

Nhìn biểu đồ diễn biến tỷ giá USD/VND các năm trở lại đây cho thấy tỷ giá USD/VND năm
sau luôn cao hơn năm trước.
Trong năm 2008, tỷ lệ lạm phát ở nước ta rất cao, lên tới 22,97%.
Lạm phát ở Việt Nam 10 tháng đầu năm 2008
Nguồn: tổng cục thống kê
Lạm phát có xu hướng tăng liên tục từ đầu năm 2008 đến tháng 10/2008 mới có dấu hiệu
đảo chiều.
Trong khi đó, mặc dù gặp khủng hoảng kinh tế nhưng lạm phát của Hoa Kỳ vẫn ở mức
thấp 3,85% trung bình năm
10
Nguồn: inflationdata.com/inflation
Sự duy trì mức lạm phát thấp của Hoa Kỳ trong khi mức lạm phát ở Việt Nam quá cao và
khó kiềm chế nên giá VND sụt giảm mạnh so với USD, từ mức 16104 VND = 1 USD vào đầu
năm 2008 đến mức 16598 VND = 1 USD vào tháng 12/2008, sụt giảm tới 3,1%. Lạm phát hơn
10% kéo dài trong năm 2008 khiến kỳ vọng vào VND lên giá là rất thấp. Điều này cũng càng
khiến cho VND bị giảm giá. Thị trường Việt Nam chưa phải là một thị trường hoàn hảo, quy
luật” đám đông” trong nhiều trường hợp sẽ chi phối trạng thái của tiền tệ. Khi mọi người nghĩ
rằng trong tương lai VND sẽ tiếp tục mất giá mạnh thì họ sẽ đầu tư hoặc cất trữ tiền bằng USD
thay cho VND khiến cầu USD tăng và USD tăng giá. Người dân và nhiều nhà đầu tư Việt Nam
khi nhận thấy mọi người mua vào nhiều USD thì cũng sẽ theo “ đám đông “ mua vào USD.
Trong một thời điểm, khi lượng câu USD quá lớn thì giá USD trên thị trường tự do, không chịu
biên độ dao động trần của ngân hàng nhà nước sẽ tăng lên một cách chóng mặt. Vào nửa cuối
năm 2008, VND vẫn tiếp tục xu hướng mất giá nhưng chỉ mất giá nhẹ bởi vào thời điểm này,
lạm phát Việt Nam có xu hướng giảm hơn so với những tháng trước, đồng thời lãi suất cơ bản
VND cũng giam và duy trì sự ổn định tạm thời.
Vào cuối năm 2008, đầu năm 2009, lạm phát Việt Nam tăng mạnh vì đây là vào thời gian
tháng tết, nhu cầu của người dân tăng mạnh kéo theo sự tăng giá của lương thực, thực phẩm và
rất nhiều mặt hàng khác. Ngược lại với Việt Nam, lạm phát ở Hoa Kỳ là giảm từ 0,09% vào
tháng 12/2008 xuống 0,03% vào tháng 1/2009. Diễn biến trái chiều của chỉ số lạm phát giữa hai
nước đá khiến VND mất giá mạnh. Tỷ giá USD/VND vào tháng 12/2008 là 16598, nhưng đến

tháng 1/2009 tỷ giá USD/VND đã là 16973, tăng tới 2,3%.
Năm 2009, tỷ giá USD/VND không có sự dao động mạnh nào từ tháng 2/2009 đến tháng
11
10/2009. Xu hướng chung của năm 2009 là sự mất giá danh nghĩa của VND so với USD. Việt
Nam đã thành công trong việc kiềm chế lạm phát ở mức 6,88%, còn Hoa Kỳ chỉ số lạm phát cả
năm là -0,34%. Mức lạm phát của Việt Nam được duy trì ổn định nên lãi suất cơ bản VND
cũng được giữ ổn định. Lãi suất cũng là một trong những nguyên nhân gây biến động tỷ giá.
Đến cuối năm 2009, do quyết định của ngân hàng nhà nước phá giá VND so với USD là 5,4%
để chống đầu cơ tiền tệ nên tỷ giá USD/VND mới tăng một cách đột biến.
3. Cung và cầu USD trên thị trường Việt Nam giai đoạn 2008 – 2009:
Sự hình thành tỉ giá hối đoái là quá trình tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách
quan, nổi lên là ba yếu tố chính, trong đó có mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ.
Cung cầu về ngoại tệ trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến động của tỷ
giá hối đoái. Cung cầu ngoại tệ lại chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau trong đó có
cán cân thanh toán quốc tế. Nếu cán cân thanh toán quốc tế dư thừa có thể dẫn đến khả năng
cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ và ngược lại. Sự cân bằng của cán cân thanh toán quốc tế lại
phụ thuộc vào các nguốn cung và cầu ngoại tệ cấu thành nên cán cân thanh toán quốc tế. Khi
nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu sẽ tăng do
đó nhu cầu về ngoại tệ cho thanh toán hàng nhập khẩu tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi
vào tình trạng suy thoái thì các hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu bị đình trệ
làm cho nguồn cung ngoại tệ giảm đi. Trong khi nhu cầu nhập khẩu chưa kịp thời được điều
chỉnh trong ngắn hạn việc giảm cung ngoại tệ sẽ đẩy tỷ giá lên cao.
Nhìn lại giai đoạn 2008 – 2009, ta có thể nhận thấy, sự biến động của cung – cầu USD
trong giai đoạn này có ảnh hưởng không nhỏ đến những biến động của tỉ giá USD/VND.
Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2008 - Nguồn: BIDV
Trong những tháng đầu năm 2008, tỉ giá USD/VND liên tục sụt giảm, dưới mức sàn.
12
Nguyên nhân của sự sụt giảm này là do đây là giai đoạn gần tết Dương lịch, lượng kiều hối
chuyển về nước khá lớn khiến cho lượng cung USD tăng. Cùng với đó, các nhà đầu tư cũng dự
kiến VND sẽ tăng giá so với USD, cộng thêm chênh lệch lãi suất lớn giữa USD và VND nên

các nhà đầu tư đẩy mạnh việc bán USD chuyển qua VND. Tập trung vào các đối tượng là nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ Việt Nam (1,4 tỷ USD), các doanh nghiệp
xuất khẩu vay USD để phục vụ sản xuất kinh doanh…Các ngân hàng thương mại lúc này cũng
đẩy mạnh bán USD. Trong khoảng thời gian này, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đang đẩy
mạnh việc kiềm chế lạm phát, sử dụng biện pháp tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất cơ bản từ
8,25%/năm (tháng 12/2007) lên 8,75%/năm (tháng 2/2008). Ngân hàng nhà nước không thực
hiện mua ngoại tệ USD nhằm hạn chế việc bơm tiền ra lưu thông, tăng biên độ tỷ giá
USD/VND từ 0,75%/năm lên 1%/năm trong ngày 10/03/2008.
Đến 3 tháng tiếp theo, tỉ giá USD/VND tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh. Nguyên nhân
chủ yếu do tâm lý bất ổn của doanh nghiệp và người dân khi thấy USD tăng nhanh dẫn đến
trạng thái găm ngoại tệ của giới đầu cơ. Nhu cầu mua ngoại tệ trả các khoản nợ của cả doanh
nghiệp xuất và nhập khẩu đến hạn cao, tăng nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng
trong nước và quốc tế. Nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu rút vốn khỏi Việt Nam bằng việc bán trái
phiếu Chính phủ khi lo ngại về tình hình kinh tế và do tình hình thanh khoản thấp trên thị
trường thế giới đẩy nhu cầu mua USD chuyển vốn về nước lên cao (bán ròng 0,86 tỷ USD).
Tuy nhiên, cung ngoại tệ lại thấp do Ngân hàng nhà nước không cho phép cho vay ngoại tệ đối
với doanh nghiệp xuất khẩu (theo quyết định số 09/2008/QĐ, NHNN không cho phép vay để
chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu, vay thực hiện dự án sản xuất xuất khẩu), giảm hiện tượng
doanh nghiệp xuất khẩu vay ngoại tế bán lại trên thị trường.
Sang quí III năm 2008, tỉ giá USD/VND giảm mạnh rồi trở lại bình ổn là nhờ có sự can
thiệp kịp thời của Ngân hàng Nhà nước khiến cơn sốt USD bị chặn đứng. Nhận thấy tình trạng
sốt USD đã ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử, Ngân hàng Nhà nước đã công khai công
bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi các thông tin trên thị trường cho rằng USD đang
trở nên khan hiếm. Đồng thời lúc này, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành một loạt các chính
sách nhằm bình ổn thị trường ngoại tệ như kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ (cấm mua
bán ngoại tệ trên thị trường tự do không đăng ký với các NHTM), cấm mua bán USD thông
qua ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng; bán ngoại
tệ can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn.
Cuối năm 2008, tỷ giá USD/VND tăng đột ngột trở lại, sau đó giảm nhẹ. Giao dịch nằm
trong biên độ tỷ giá. Tuy nhiên, cung hạn chế, cầu ngoại tệ vẫn lớn. Trong khoảng thời gian từ

13
tháng 10 đến tháng 11, nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh việc bán ra chứng khoán trong đó có
bán trái phiếu (700 triệu USD), cổ phiếu (100 triệu USD). Nhu cầu mua ngoại tệ của khối nhà
đầu tư nước ngoài tăng cao khi muốn đảm bảo thanh khoản của tổ chức tại chính quốc. Nhu cầu
mua USD của các ngân hàng nước ngoài cũng tăng mạnh (khoảng 40 triệu USD/ngày). Cầu
USD trên thị trường tự do tăng cao bởi khi Ngân hàng Nhà nước không cho phép nhập vàng thì
hiện tượng nhập lậu vàng gia tăng, làm tăng cầu USD để nhập khẩu (do USD là đồng tiền thanh
toán chính). Ngân hàng Nhà nước bán hơn 1 tỷ USD cho các ngân hàng thương mại đáp ứng
nhu cầu nhập khẩu một số mặt hàng thiết yếu.
Có thể thấy, trong năm 2008, những biến động khó lường của kinh tế và thị trường tài
chính thế giới cũng như trong nước đã ảnh hưởng tiêu cực tới cân bằng cung cầu ngoại tệ trong
nước. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo sát sao của Thủ tướng Chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ của
các Bộ, Ngành, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành tỷ giá linh hoạt, thực hiện được các mục tiêu
của chính sách tỷ giá, đảm bảo thanh khoản ngoại tệ của hệ thống ngân hàng, góp phần thúc
đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, cụ thể là:
- Ngân hàng Nhà nước đã can thiệp thị trường ngoại hối với mức tỷ giá mua vào và bán ra
được điều chỉnh linh hoạt. Trong thời điểm thị trường dư cầu, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời
bán ngoại tệ can thiệp, hạ nhiệt thị trường. Trong thời điểm thị trường dư cung, Ngân hàng Nhà
nước mua ngoại tệ vào ở mức hợp lý, bảo đảm tỷ giá không giảm sâu, nhằm thực hiện mục tiêu
kiềm chế nhập siêu.
- Trong hoạt động can thiệp, Ngân hàng Nhà nước đã kết hợp đa dạng, linh hoạt các hình
thức can thiệp. Bên cạnh can thiệp trực tiếp, lần đầu tiên Ngân hàng Nhà nước áp dụng hình
thức can thiệp gián tiếp để ổn định tâm lý thị trường. Với sự phối hợp tốt giữa Ngân hàng Nhà
nước với các ngân hàng thương mại, hình thức can thiệp này đã nhanh chóng phát huy hiệu
quả, đưa thị trường bình ổn trở lại.
- Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng làm tốt công
tác tuyên truyền, củng cố lòng tin trong nhân dân và doanh nghiệp.
- Việc điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá đã được phối hợp đồng bộ. Lãi suất
VND tăng trong khi lãi suất USD giảm đã tạo sự hấp dẫn cho tiền đồng, góp phần ổn định tỷ
giá.

Trong bối cảnh cung cầu ngoại tệ và tỷ giá trên thị trường biến động phức tạp, có những
thời điểm biến động đột biến, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời bám sát diễn biến thị trường,
thường xuyên giám sát, cập nhật thông tin và đánh giá các dòng vốn vào và ra để có chính sách
điều hành tỷ giá thích hợp. Với các biện pháp đồng bộ của Ngân hàng Nhà nước, thị trường
14
ngoại hối đã ổn định trở lại.
Diễn biến tỷ giá VND/USD năm 2008-2009
Sang đến năm 2009, tỷ giá USD/VND lại tiếp tục tăng đà tăng trong 4 tháng đầu năm, đặc
biệt sau khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện nới rộng biên độ tỷ giá lên +/-5% khiến cho tỷ giá
ngoại tệ liên ngân hàng đã có đợt tăng đột biến cũng như giao dịch trên thị trường tự do và hoạt
động đầu cơ, găm giữ ngoại tệ được xem là yếu tố chính khiến tỷ giá USD/VND tăng mạnh.
Trong hơn nửa đầu năm 2009, tỉ giá USD/VND liên tục biến động mạnh do lượng USD vào
Việt Nam không được cung ứng ra thị trường đáp ứng các nhu cầu thanh toán, mà tập trung trên
tài khoản tiền gửi chờ tỷ giá lên. Cùng với đó còn có hiện tượng doanh nghiệp vay USD tuy
chưa đến kỳ trả nợ nhưng đã mua sẵn USD để giữ hay trả nợ vay trước hạn vì sợ tỷ giá sẽ tăng.
Chính lượng đặt mua nhiều của doanh nghiệp khiến cầu ngoại tệ tăng. Ngoài ra, do tâm lý bất
ổn của cả doanh nghiệp và người dân khi tỷ giá tăng nhanh dẫn tới hiện tượng găm giữ ngoại
tệ. Đặc biệt, khi chương trình hỗ trợ lãi suất góp phần thu hẹp chênh lệch lãi suất VND và lãi
suất USD, người dân chuyển từ tiền gửi VND sang tiền gửi ngoại tệ. Số dư tiền gửi ngoại tệ
trong ngân hàng vào cuối tháng 4/2009 tăng 4,52% so với cuối năm 2008, trong khi đó số dư
tiền vay ngoại tệ giảm 1,6% tương ứng. Bên cạnh đó, do tác động của chính sách hỗ trợ lãi suất
cho các doanh nghiệp bằng VND, do lãi suất vay VND thấp, phạm vi và thời gian vay được mở
rộng theo chủ trương của chính phủ nên một số doanh nghiệp có USD có xu hướng không
muốn bán USD và chỉ muốn vay VND.
Ở một quốc gia đang bị “đô-la hóa” từ lâu như Việt Nam, khi Chính phủ có chủ trương hỗ
trợ lãi suất đã làm cho lãi suất cho vay của VND giảm xuống. Tuy nhiên, vì Chính phủ không
song song hỗ trợ lãi suất USD nên đã làm cho khoảng cách của chênh lệch lãi suất giữa USD và
VND bị thu hẹp lại. Khi khoảng cách này càng gần thì nghiễm nhiên, VND trở nên mất giá và
15
đồng USD bị tăng giá cục bộ ở Việt Nam một cách giả tạo. Đó chính là lí do khiến một lượng

lớn USD bị rút khỏi lưu thông, nằm dưới dạng “tài sản để dành”, “găm giữ” của doanh nghiệp
và người dân trên tài khoản hoặc ở két sắt, chờ tỷ giá tăng để săn tìm lợi nhuận. Và đó cũng
chính là tình trạng góp phần tạo nên “bình ngưng” ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng mà Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong một văn bản kiến nghị Ngân hàng Nhà nước tháo gỡ
một số vướng mắc trong hoạt động kinh doanh ngân hàng đã đề cập. Dĩ nhiên, tác động phụ
này sẽ không xảy ra nếu Chính phủ đồng thời làm hai việc vừa tài trợ lãi suất cho tín dụng nội
tệ, vừa tài trợ lãi suất cho tín dụng ngoại tệ, nhằm phản ánh đúng tỷ lệ lạm phát của Việt Nam
so với tỷ lệ lạm phát của Mỹ cũng như uy tín của VND so với USD.
Tuy nhiên, từ nửa cuối tháng 11 năm 2009 cho đến hết năm, tỉ giá USD/VND bắt đầu giảm.
Nguyên nhân là do Ngân hàng Nhà nước thực hiện các biện pháp bình ổn tỷ giá, đặc biệt có sự
chung góp sức của các ngân hàng thương mại đã làm giảm tỷ giá sau một giai đoạn đầy biến
động.
Với mục tiêu điều hành tỷ giá trong mối quan hệ với lãi suất, chỉ số giá tiêu dùng, diễn biến
của cán cân thanh toán quốc tế phù hợp với tín hiệu của thị trường, có sự điều tiết của Nhà
nước, Ngân hàng Nhà nước công bố mức tỷ giá bình quân liên ngân hàng áp dụng cho ngày
26/11/2009 là 17.961 (tăng 5,16%) và áp dụng biên độ tỷ giá mới cho giao dịch mua bán giao
ngay giữa USD và VND là ± 3% từ ngày 26/11/2009. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng
cam kết sẽ hỗ trợ mạnh mẽ trong việc bán ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại kèm nhiều
biện pháp hỗ trợ khác nhằm bình ổn thị trường ngoại hối. Các tổ chức tín dụng có trạng thái
ngoại tệ từ âm 5% trở xuống được Ngân hàng Nhà nước cam kết bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm
bảo hệ thống ngân hàng cung cấp đủ ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt ưu
tiên những mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất.
Trước những quyết định điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước cũng như hiệu quả từ những
quyết định này mang lại, cộng đồng quốc tế đã nhận định lạc quan về tình hình kinh tế sắp tới
của Việt Nam
4. Biến động tỷ giá do chênh lệch lãi suất:
Khi quan sát biến động của tỉ giá, ta thấy rằng trong ngắn hạn nhưng tỷ giá biến động rất
nhanh và mạnh, vậy nhân tố nào đứng sau sự biến động tỷ giá trong ngắn hạn? Hiện thay,
chúng ta đang sống trong một thế giới rất sôi động và linh hoạt. Các ngân hàng trung ương sử
dụng lãi suất như một công cụ hữu hiệu để điều chỉnh nền kinh tế. Các nhà đầu tư, đầu cơ cũng

luôn nắm bắt và cập nhật diễn biến lãi suất nhằm nắm bắt các cơ hội đầu tư kinh doanh chênh
16
lệch tỷ giá. Nếu tại một thời điểm với các nhân tố khác không đổi, tức là mức lạm phát dự tính
của hai đồng tiền cũng không đổi thì đồng tiền có lãi suất cao sẽ kỳ vọng giảm giá, còn đồng
tiền có lãi suất thấp sẽ kỳ vọng lên giá. Điều này có thể được giải thích theo hiệu ứng Fisher
quốc tế, mức lãi suất thực dự tính của các đồng tiền sẽ là như nhau, do đó đồng tiền có lãi suất
cao phải tiềm ẩn lạm phát cao, và theo PPP dạng kỳ vọng, thì đồng tiền tiềm ẩn lạm phát cao
phải giảm giá trong tương lai. Ngay sau khi có sự thay đổi lãi suất, ví dụ lãi suất VND tăng,
làm cho thị trường trở nên mất cân bằng, quy luật ngang giá bị phá vỡ, làm cho các hoạt động
đầu cơ vào cuộc. Các nhà đầu cơ là những người phản ứng rất nhạy bén với chỉ một sự thay đổi
nhỏ của thị trường, nên họ sẽ chớp lấy thời cơ ngay. Vì thế, lãi suất thay đổi càng nhanh và
càng mạnh thì tác động làm cho tỷ giá biến động càng nhanh và càng mạnh.
Trong trường hợp của Việt Nam và Hoa Kỳ, vì lãi suất của Việt Nam luôn cao hơn lãi suất của
Hoa Kỳ nên luôn diễn ra xu hướng Việt Nam đồng giảm giá so với USD. Ở Việt Nam, ngay từ
đầu năm 2008, ngân hàng nhà nước đã áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt khiến lãi suất huy
động vốn của các ngân hàng tăng một cách chóng mặt từ 8,5% vào tháng 1/2008 lên đến đỉnh
điểm là 18,5% vào tháng 6/2008 .
Nguồn:
Xu hướng biến động của mặt bằng lãi suất (PGS.TS Tô Kim Ngọc)
Song song với lãi suất huy động tiền gửi VND tăng một cách chóng mặt là tỷ giá
USD/VND cũng tăng nhanh chóng, đặc biệt từ tháng 5/2008 đến tháng 9/2008. Diễn biến tỷ giá
trên thị trường ngoại hối Việt Nam khá đối lập với diễn biến lãi suất. Theo lý thuyết, lãi suất
VND tăng cao khiến các nhà đầu tư muốn đầu tư vào VND nhiều hơn để hưởng mức lãi suất
cao làm cầu VND tăng thì VND phải tăng giá. Nhưng diễn biến trên thị trường ngoại hối lại là
VND mất giá một cách nhanh chóng. Điều gì đã dẫn đến sự phản ứng trái chiều của lãi suất và
Lãi suất huy động tiền gởi VNĐ năm 2008
17
tỷ giá như vây? Nguyên nhân chính ở đây là do lạm phát. Mặc dù lãi suất huy động VND cao
nhưng đây chỉ là lãi suất danh nghĩa, không phải lãi suất thực trong khi lạm phát vào năm 2008
rất cao.

Ta có
Trong đó:
R
r
: lãi suất thực tế
R
n
: lãi suất danh nghĩa
Π: lạm phát
Vào tháng 6/2008, lãi suất danh nghĩa các ngân hàng huy động VND là 18,5%, lạm phát là
17,18%. Vậy lãi suất thực của VND chỉ là 1,13%. Trong khi đó, lãi suất USD vào tháng 6/2008
là 2,42%. Vì thế các nhà đầu tư đã nhanh chóng đầu tư vào USD khiến cầu USD tăng mạnh và
USD lên giá. Ngoài ra, các khoản tiền gửi VND có kỳ hạn dưới 6 tháng, điều này khiến các
ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng rất cao và càng khiến cho tỷ giá USD/VND tăng mạnh.
Nguồn: inflationdata.com/inflation
Về phía Hoa Kỳ, năm 2008 cũng là một năm đầy biến động và khủng hoảng. Vào tháng
3/2008, cuộc khủng hoảng của Hoa Kỳ cũng chính thức nổ ra kéo theo những hệ lụy vô cùng to
lớn. Trong ngắn hạn, USD chịu ảnh hưởng mạnh từ cuộc khủng hoảng bị mất giá. Bởi thế nên
trong quý I/2008, mặc dù lãi suất VND tăng cao nhưng tỷ giá USD/VND vẫn giảm 150d.
Nhưng ngay sau đó, để đối phó với khủng hoảng, ngân hàng trung ương Hoa Kỳ đã liên tục hạ
18
lãi suất USD từ 2,71% vào tháng 1/2008 1,74% vào tháng 4/2008. Diễn biến lãi suất của USD
phản ánh khá chính xác diễn biến tỷ giá USD/VND. Các nhà đầu tư ngoài quan tâm đến lãi suất
VND cũng rất nhạy cảm với lãi suất USD. Bởi vậy vào thời điểm tháng 3, 4, 5/2008 khi Hoa
Kỳ cắt giảm lãi suất USD thì USD mất giá nhẹ. Còn vào thời điểm giữa năm 2008, đặc biệt vào
tháng 6 và tháng 7, khi Hoa Kỳ nâng lãi suất USD lên thì USD lập tức tăng giá mạnh. Có sự
phản ảnh khá chính xác giữa diễn biến lãi suất USD và diễn biến tỷ giá USD/VND vì lạm phát
của Hoa Kỳ khá thấp.
Trong nửa cuối năm 2008, để duy trì mức tỷ giá USD/VND không biến động quá biên độ
cho phép, ngân hàng nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh giảm lãi suất huy động vốn. Việc ngân

hàng nhà nước Việt Nam giảm lãi suất huy động vốn giúp cho lạm phát ở Việt Nam cũng được
kiềm chế. Diễn biến lãi suất VND và USD không có quá nhiều biến động nên tạm thời tỷ giá
USD/VND có sự ổn định trong ngắn hạn.
Năm 2009, xu hướng chung vẫn là VND mất giá so với USD.
Nguồn:
Xu hướng biến động của mặt bằng lãi suất (PGS.TS Tô Kim Ngọc)
Lãi suất VND có sự ổn định, chỉ tăng nhẹ trong những tháng cuối năm còn lãi suất USD
liên tục giảm xuống mức 0,31% vào tháng 12/2009. Điều này đã dẫn đến sự đầu cơ tiền tệ diễn
ra mạnh trong năm 2009. Vì thế 26/11/2009, ngân hàng nhà nước Việt Nam đã buộc phải phá
giá VND với USD, tỷ lệ phá giá lên tới 5,4% nên tỷ giá USD/VND tặng mạnh vào cuối năm
2009.
5. Nguyên nhân khác:
Ngoài ba nguyên nhân chính trên, còn có một số nguyên nhân khác tác động vào tỷ giá
USD/VND giai đoạn 2008-2009.
Chính sách về tỷ giá hối đoái của chính phủ là một nguyên nhân quan trọng trong sự biến
19
động tỷ giá USD/VND. Vì chính sách của ngân hàng nhà nước là chính sách tỷ giá thả nổi có
điều tiết. Điều này có nghĩa là cung cầu trên thị trường không hoàn toàn phản ánh biến động tỷ
giá mà tỷ giá chính thức của ngân hàng nhà nước có thể sai lệch khỏi điểm cân bằng. Đây cũng
là một trong những nguyên nhân chính khiến Việt Nam tồn tại hai chế độ tỷ giá. Tỷ giá
USD/VND tự do dao động mạnh hơn tỷ giá USD/VND chính thức và phản ánh chính xác hơn
biến động của thị trường. Chính phủ có thể tác động đến tỷ giá hối đoái bằng phương pháp trực
tiếp hay gián tiếp:
● Can thiệp trực tiếp: Các NHTW có thể tác động đến tỷ giá bằng cách trực tiếp mua vào ngoại
tệ hoặc bán nội tệ ra thị trường. Khi NHTW can thiệp vào thị trường hối đoái mà có sự điều
chỉnh sự thay đổi trong mức cung tiền tệ, điều này gọi là can thiệp không vô hiệu hóa. Ngược
lại, nếu muốn can thiệp vào thị trường hối đoái, trong khi vẫn duy trì mức cung tiền tệ, NHTW
sẽ sử dụng can thiệp vô hiệu hoá bằng cách áp dụng các giao dịch trên thị trường ngoại hối
đồng thời với các hoạt động trên thị trường mở.
● Can thiệp gián tiếp: NHTW có thể tác động đến đồng nội tệ một cách gián tiếp bằng cách tác

động đến các yếu tố ảnh hưởng đến đồng nội tệ; như lãi suất, các biện pháp kiềm chế lạm
phát… Một chính phủ cũng có thể tác động đến đến các tỷ giá hối đoái bằng cách áp đặt các
hàng rào đối với tài chính và mậu dịch quốc tế, như thuế nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, thuế
đánh trên bất cứ thu nhập nào do đầu tư ở nước đó của các nhà đầu tư ngoại quốc.

Các yếu tố trên đã ảnh hưởng đến tâm lý của người dân và doanh nghiệp cùng với ảnh
hưởng mạnh của việc thay đổi lãi suất và tỷ giá, dự đoán năm 2010 nền kinh tế Việt Nam vẫn
tiếp tục phải đương đầu với những khó khăn, thách thức của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính
toàn cầu. Điều này dẫn đến hiện tượng găm giữ ngoại tệ của người dân và doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp xuất khẩu hay các doanh nghiệp có nguồn thu bằng ngoại tệ thì găm giữ trên tài
khoản hoặc chỉ bán nhỏ giọt cho thị trường. Các doanh nghiệp nhập khẩu vội vã mua ngoại tệ.
Một bộ phận người dân cũng chuyển từ tiền gửi nội tệ sang tiền gửi ngoại tệ. Điều này lại càng
làm trầm trọng hơn tình trạng mất cân đối cung-cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như: hạn ngạch xuất nhập khẩu, lập hàng rào phi
thuế quan khác, thuế xuất nhập khẩu,…
III. Tác động của sự biến động tỷ giá USD/VND giai đoạn 2008 – 2009:
1. Đến cán cân thương mại hàng hóa:
1.1. Lý thuyết:
1.1.1. Ảnh hưởng của tỷ giá đến cán cân thương mại:
Cán cân thương mại hàng hóa là hạch toán các giao dịch xuất nhập khẩu hàng hóa của một
20
quốc gia. Nếu giá trị xuất khẩu lớn hơn giá trị nhập khẩu thì cán cân thương mại là thặng dư,
ngược lại, cán cân thương mại thâm hụt.
Như đã phân tích trong phần 2 của bài tiểu luận, một trong các nguyên nhân gây ra biến
động về tỷ giá là do cung cầu về ngoại tệ, mà cán cân thương mại là một bộ phận cấu thành nên
yếu tố cung cầu đó. Tuy nhiên, chúng có ảnh hưởng qua lại với nhau, do đó, sự biến động của
tỷ giá cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến cán cân thương mại.
Với giả định các nhân tố khác không thay đổi, khi tỷ giá tăng, làm cho giá hàng hóa xuất
khẩu tính bằng ngoại tệ giảm, tăng lợi thế so sánh, từ đó kích thích tăng khối lượng hàng hóa
xuất khẩu và hạn chế khối lượng nhập khẩu. Tuy nhiên, cán cân thương mại là tính theo giá trị,

nên không nhất thiết sẽ bị ảnh hưởng theo hướng xấu đi hay được cải thiện.
Hiệu ứng của biến động tỷ giá ảnh hưởng đến cán cân thương mại hàng hóa thể hiện ở cả
mặt giá trị và khối lượng.
Cán cân thương mại tính bằng VND:
TB
VND
= P.Q
x
– E. P
*
. Q
M
(1)
Cán cân thương mại tính bằng USD:
TB
USD
= P/E .Q
X
– P
*
. Q
M
(2)
Trong đó:
P: giá cả hàng hóa xuất khẩu tính bằng nội tệ
P
*
: giá cả hàng hóa nhập khẩu tính bằng ngoại tệ
Q
x

: lượng hàng hóa xuất khẩu
Q
M
: lượng hàng hóa nhập khẩu
E: tỷ giá (bằng số đơn vị nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ)
Khi tỷ giá tăng sẽ tạo ra hiệu ứng khối lượng, làm cho khối lượng xuất khẩu tăng, khối
lượng nhập khẩu giảm, từ đó sẽ làm cho cán cân thương mại được cải thiện.
Tuy nhiên, tỷ giá tăng cũng đồng nghĩa với E tăng. Đối chiếu với công thức (1) và (2) ở
trên, dễ dàng nhận thấy cán cân thương mại có chiều hướng xấu đi.
Do cả hai tác động trên là đồng thời, nên hiệu ứng ròng của cán cân thương mại (được cải
thiện hay xấu đi) sẽ phụ thuộc vào tính trội của hiệu ứng khối lượng hay hiệu ứng giá cả. Có ba
trường hợp xảy ra:

Nếu tính trội thuộc về hiệu ứng giá cả:
Khi đó, khối lượng xuất khẩu tăng và khối lượng nhập khẩu giảm cũng không đủ bù đắp
cho sự giảm giá trị xuất khẩu tính bằng ngoại tệ và giá trị nhập khẩu tính bằng nội tệ thì cán cân
sẽ trở nên xấu đi.
21

Nếu hai hiệu ứng trung hòa: cán cân thương mại được duy trì.

Nếu tính trội thuộc về hiệu ứng khối lượng:
Khi đó, khối lượng xuất khẩu tăng và khối lượng nhập khẩu giảm thừa đủ để bù đắp cho
hiệu ứng giá cả, cán cân thương mại sẽ được cải thiện.
1.1.2. Tác động của tỷ giá đến cán cân thương mại tại Việt Nam:
Như đã phân tích ở trên, cán cân thương mại thay đổi theo chiều hướng nào phụ thuộc vào
tác động của hiệu ứng giá cả lớn hơn hay hiệu ứng khối lượng lớn hơn. Trong phần này, chúng
tôi sẽ xem xét các yếu tố tác động từ thay đổi tỷ giá đến cán cân thương mại tại Việt Nam.
Khối lượng xuất khẩu và nhập khẩu chỉ co dãn trong dài hạn mà không co dãn trong ngắn
hạn, do đó, hiệu ứng khối lượng cũng chỉ có tác dụng sau một thời gian nhất định. Trong khi

đó, hiệu ứng giá cả lại có tác dụng ngay lập tức. Điều này tạo nên hiệu ứng tuyến J, có nghĩa là
ngay sau khi tỷ giá tăng, hiệu ứng giá cả sẽ làm cán cân thương mại xấu đi ngay tức khắc, và
hiệu ứng khối lượng chỉ có thể giúp cải thiện cán cân trong dài hạn sau đó. Mức độ và thời gian
thâm hụt của cán cân thương mại phụ thuộc vào điều kiện kinh tế cụ thể.
Sau đây, để xem xét hiệu ứng tuyến J về thay đổi của cán cân thương mại với nền kinh tế
Việt Nam, chúng tôi sẽ phân tích các đặc điểm của thị trường Việt Nam như sau:
Phần lớn hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam có nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài, khi tỷ
giá tăng, khối lượng nhập khẩu không lập tức giảm được trong ngắn hạn, nhưng hiệu ứng giá cả
lại thể hiện rõ rệt, đó là giá trị nhập khẩu tăng. Như vậy, tuy kích thích xuất khẩu nhưng lại gián
tiếp làm cho giá trị nhập khẩu tăng, tình hình cán cân thương mại không được cải thiện đáng
kể.
22
Hình: Cơ cấu nhập khẩu (% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa)
2
Nguồn: Tổng cục thống kê
Khi hàng hóa Việt Nam rẻ hơn tương đối so với thế giới (ảnh hưởng của tỷ giá tăng), nước
ngoài cũng chưa thể thích nghi với hàng hóa của Việt Nam, bởi họ có những yêu cầu rất khắt
khe về các tiêu chuẩn hàng hóa (hàng rào kỹ thuật đối với hàng hóa nhập khẩu). Do đó, khối
lượng xuất khẩu cũng chưa thể tăng trong ngắn hạn.
Trên cơ sở lý thuyết, với nguyên nhân kể trên, hiệu ứng tuyến J đối với thị trường Việt
Nam là rõ nét, và có xu hướng thâm hụt trong thời gian tương đối dài.
1.2. Diễn biến của cán cân thương mại hàng hóa trong giai đoạn 2008 – 2009:
Bởi vì có nhiều nguyên nhân cùng tác động đến sự thay đổi của cán cân thương mại hàng
hóa như cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (bắt nguồn ở Mỹ năm 2008) hay do ảnh hưởng
của các chính sách mà chính phủ đã áp dụng cho hoạt động xuất nhập khẩu, do đó, trong phạm
vi bài nghiên cứu này, chúng tôi sẽ xem xét diễn biến của cán cân thương mại hàng hóa giai
đoạn 2008 – 2009 với một phần nguyên nhân từ biến động của tỷ giá.
2005
(tỷ đô)
2006

(tỷ đô)
2007
(tỷ đô)
2008
(tỷ đô)
2009 (tỷ đô)
(tính đến tháng 10)
Hàng xuất theo giá
FOB
32.447 39.826 48.561 62.906 53.167
Hàng nhập theo giá
FOB
-34.886 -42.602 -58.921 -75.189 -60.241
Cán cân thương mại -2.439 -2.776 -10.360 -12.283 -7.074
Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam từ 2005 đến 2009
Số liệu từ: Thống kê tài chính quốc tế của IMF (theo báo cáo của Multrap tháng 9 năm 2010)
Nhìn vào số liệu được tổng hợp theo năm như bảng trên, có thể nhận thấy những năm gần
đây, Việt Nam liên tục nhập siêu, cán cân thương mại thâm hụt liên tiếp. Đặc biệt, năm 2008,
nhập siêu 12,283 tỷ đô la, cao nhất trong 5 năm kể từ 2005 – 2009.
Dưới đây là thống kê về kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 2008 – 2009 của Việt Nam
theo số liệu cụ thể của từng tháng.
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
Xuất khẩu 4.5 - - 5.1 5.2 - 6.25 6.1 5.3 5.1 - -
Nhập khẩu 5.5 - - 8.24 8 - 7.05 7 5.8 5.8 - -
2
Ghi chú: Riêng số liệu năm 2008, tách riêng nhập khẩu vàng, chiếm 3.4% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu.
Nếu phân chia nhập khẩu vàng cho sản xuất và tiêu dùng thì tỷ trọng hai khu vực này cũng gần như năm 2007.
23
Cán cân
thương mại

-1 - - -3.14 -2.8 - -0.8 -0.9 -0.5 -0.7 - -
Kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2008 (Triệu đô)
Số liệu từ báo cáo về tình hình công nghiệp và thương mại - Bộ Công thương
Năm 2008 do chịu ảnh hưởng của biến động của kinh tế thế giới nên xuất khẩu diễn biến
không theo quy luật, những tháng đầu năm xuất khẩu gặp thuận lợi về giá, kim ngạch xuất khẩu
đạt mức cao trong 2 tháng 7 và 8 tuy nhiên đến tháng 9 xuất khẩu giảm mạnh và tiếp tục giảm
trong những tháng cuối năm. Trong 9 tháng đầu năm, nhập siêu tăng là do tốc độ nhập khẩu
tăng cao hơn so với tốc độ xuất khẩu, vượt ngoài dự kiến mức nhập siêu cả năm 2008. Nguyên
nhân chủ yếu là nhu cầu nhập khẩu trong nước tăng mạnh. Bên cạnh đó, việc mở cửa thị trường
và cắt giảm thuế quan theo cam kết WTO trong khi một số hàng hoá trong nước đã sản xuất
được nhưng do sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu và chúng ta chưa có
một cơ chế kiểm soát nhập khẩu hiệu quả đã có tác động nhất định đến mức tăng kim ngạch
xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2008. Bên cạnh đó cũng có sự tác động bởi sự lúng túng điều hành
tỷ giá trên thị trường tiền tệ trong quý I. Nhìn chung, cả năm 2008, Việt Nam vẫn trong tình
trạng nhập siêu.
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 10 11 12
Xuất khẩu 3.72 4.84 5.3 4.3 4.4 4.74 4.8 4.7 4.55 - - -
Nhập khẩu 3.3 4.2 5 5.5 5.9 5.9 6.32 6.2 6.38 - - -
Cán cân
thương mại
0.42 0.64 0.3 -1.2 -1.5 -1.16 -1.52 -1.5 -1.83
Kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2009 (tỷ đô)
Số liệu từ báo cáo về công nghiệp và thương mại – Bộ Công thương
Dễ dàng nhìn ra sự thay đổi bất thường của cán cân thương mại 3 tháng đầu năm 2009,
khi giá trị nhập khẩu cao hơn giá trị xuất khẩu. Nguyên nhân chủ yếu do giá vàng trong nước
thấp hơn giá thế giới, dẫn đến việc xuất khẩu vàng ra nước ngoài. Tuy nhiên, các tháng liên tiếp
từ quý 2, cán cấn thương mại tiếp tục rơi vào tình trạng thâm hụt.
2. Ảnh hưởng của tỷ giá đến tài khoản vốn:
2.1. Lý thuyết:
Tài khoản vốn (còn gọi là cán cân vốn) là một bộ phận của cán cân thanh toán của

một quốc gia, bao gồm đầu tư trực tiếp nước ngoài thuần, đầu tư gián tiếp thuần và các
dòng luân chuyển tài chính khác. Nó ghi lại tất cả những giao dịch về tài sản (gồm tài
24
sản thực như bất động sản hay tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ) giữ
người cư trú trong nước với người cư trú ở quốc gia khác. Khi những tuyên bố về tài sản
nước ngoài của người sống trong nước lớn hơn tuyên bố về tài sản trong nước của những
người sống ở nước ngoài, thì quốc gia có thặng dư tài khoản vốn. Ngược lại, cán cân vốn
sẽ thâm hụt. Theo quy ước, dòng vốn vào ròng phải bằng thâm hụt tài khoản vãng lai.
2.2. Ảnh hưởng của tỷ giá đến tài khoản vốn:
Khi đồng tiền trong nước lên giá so với ngoại tệ, có nghĩa là tỷ giá hối đoái danh
nghĩa giảm, dòng vốn vào sẽ giảm đi, trong khi dòng vốn ra tăng lên. Hậu quả là tài
khoản vốn sẽ xấu đi. Ngược lại, khi đồng tiền trong nước mất giá (tỷ giá tăng), tài khoản
vốn sẽ được cải thiện.
Tuy nhiên, khi tỷ giá thay đổi, nó gián tiếp ảnh hưởng đến lãi suất và theo đó, tác
động đến tài khoản vốn theo một hướng khác. Khi mức độ phá gíá của tiền tệ lớn hơn
mức tăng của hàng hóa, sẽ dẫn đến lạm phát. Để giảm lạm phát, chính phủ sẽ sử dụng
công cụ lãi suất để giảm lượng cung tiền, nghĩa là lãi suất sẽ tăng. Khi đó, đầu tư vào trở
nên hấp dẫn hơn, vì thế dòng vốn vào sẽ gia tăng, trong khi đó dòng vốn ra giảm bớt.
Cán cân tài khoản vốn, nhờ đó, được cải thiện.
Biểu đồ lãi suất cơ bản VND (%/năm)
Nguồn: NHNN Việt Nam
Việc tăng lãi suất trong năm 2008 là một trong những nguyên nhân chính cho việc
Việt Nam thu hút được nguồn vốn FDI kỉ lục. Vốn FDI đăng ký trong năm 2008 (tính
đến ngày 20/12/2008) đạt trên 64 tỷ USD, mức tăng kỷ lục kể từ khi có Luật Đầu tư
nước ngoài 1987 đến nay, tăng hơn 3 lần năm 2007.
2.3. Diễn biến tài khoản vốn trong giai đoạn 2008-2009:
Tài khoản vốn ở Việt Nam thông thường có mức thặng dư nhờ luồng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI chảy vào khá lớn. Mặc dù ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới,
25

×