Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Lương tối thiểu Kinh tế nguồn nhân lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.38 KB, 17 trang )

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ 4
LƯƠNG TỐI THIỂU VÀ NGÀNH CHỊU / KHÔNG CHỊU TÁC ĐỘNG

MỤC LỤC

1


PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
PHẦN II. NỘI DUNG
1.Áp dụng chính sách: Tác động của tiền lương tối thiểu
2.Tuân thủ Luật tiền lương tối thiểu
3. Các lĩnh vực được bảo vệ và khơng được bảo vệ
4. Lương tối thiểu có làm người lao động thay đổi?
5. Tác động của mức lương tối thiểu đối với việc làm ở Puerto Rican
PHẦN III. KẾT LUẬN
PHẦN IV. DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM VÀ MỨC ĐỘ THAM GIA CÔNG
VIỆC

2


PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nền kinh tế thị trường, tiền lương là giá cả của sức lao động hình thành trên cơ sở
thỏa thuận giữa người lao động với người sử dụng lao động, phù hợp với quan hệ cung –
cầu sức lao động và tuân thủ với các quy định của pháp luật. Đối với khu vực sản xuất,
kinh doanh, tiền lương liên quan trực tiếp đến thu nhập, mức sống, khả năng tái sản xuất
sức lao động của người lao động và là nhân tố quan trọng cho sự thành công hay thất bại
trong sản xuất kinh doanh của người sử dụng lao động. Đây là điểm hội tụ của những lợi
ích trực tiếp và gián tiếp, trước mắt và lâu dài của người lao động và người sử dụng lao
động. Mức lương cao hơn trên cơ sở nâng cao năng suất lao động không chỉ là mục đích


mà cịn là động lực phấn đấu của cả người lao động và người sử dụng lao động, nhờ đó
góp phần vào phát triển kinh tế, xã hội đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Việc áp
dụng hình thức trả lương hợp lý nhằm khuyến khích cơng nhân nâng cao tay nghề, tăng
năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là việc làm
cần thiết và có ý nghĩa to lớn. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản
xuất kinh doanh, tiền lương là một bộ phận của chi phí sản xuất, hình thức trả lương có
ảnh hưởng lớn đến quá trình sản xuất của từng doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp đưa
ra những mức lương hấp dẫn nhằm thu hút lao động có trình độ gây khó khăn khơng nhỏ
cho chính sách lao động của các doanh nghiệp trong nước. Mức thu nhập thấp cũng là
một nguyên nhân gây vấn đề khá đau đầu.
Thêm vào đó, việc chịu ảnh hưởng giữa các ngành chịu tác động và không chịu tác động
của mức lương tối thiểu sẽ khiến họ có những thay đổi trong việc quyết định ở lại hay là
tìm một cơng viêc khác có mức lương cao hơn hiện tại.
Trước tình hình đấy, để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong nước và tình hình
chung của thế giới, Chính phủ liên bang Hoa Kỳ đã không ngừng thay đổi và ban hành
mới các quy định về tiền lương tối thiểu là một trong những vấn đề quan trọng được các
ngành, và cá nhân người lao động trong cả nước quan tâm tới. Một chính sách tiền lương
tối thiểu hợp lý sẽ là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước, cũng
như tiến trình hội nhập.

3


PHẦN II. NỘI DUNG
1.Tác động của tiền lương tối thiểu
Chính phủ liên bang Hoa Kỳ đã đưa ra mức lương tối thiểu bắt buộc trong thị trường lao
động vào năm 1938, như một trong những điều khoản của Đạo luật Tiêu chuẩn Lao động
Công bằng (FLSA). Năm 1938, mức lương tối thiểu danh nghĩa được quy định ở mức 25
xu một giờ, và chỉ có 43% cơng nhân khơng giám sát được bao trả bởi các quy định về
mức lương tối thiểu của FLSA. Người lao động trong các ngành như nông nghiệp và dịch

vụ bán lẻ trong nước được miễn trừ khỏi luật.

Hình 5-6: Mức lương tối thiểu ở Hoa Kỳ từ năm 1938 - 1992

Như Hình 5-6 cho thấy, mức lương tối thiểu danh nghĩa đã được điều chỉnh theo chu kỳ
bất thường trong 50 năm qua. Năm 1991, lần cuối cùng khi mức lương tối thiểu danh
nghĩa được tăng lên, mức lương sàn được đặt ở mức 4,25 đơ la một giờ. Ngồi ra, mức độ
bao phủ của tiền lương tối thiểu đã được mở rộng hơn rất nhiều. Đến năm 1991, hầu hết
4


những người lao động khơng làm việc cho chính quyền tiểu bang hoặc địa phương đều
thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật.
Hình 5-6 minh họa một đặc điểm quan trọng của tiền lương tối thiểu ở Hoa Kỳ: Chúng
không được đánh giá theo chỉ số lạm phát hoặc tăng trưởng năng suất. Kết quả là, mức
lương tối thiểu thực tế giảm xuống giữa thời điểm đặt mức lương sàn danh nghĩa và thời
điểm Quốc hội nâng mức lương đó lên. Năm 1981, mức lương tối thiểu được quy định ở
mức 3,35 đô la một giờ, hay 42% của mức lương trung bình trong ngành sản xuất. Vào
năm 1989, mức lương tối thiểu danh nghĩa vẫn là 3,35 một giờ, nhưng mức lương này chỉ
bằng 32% mức lương trung bình trong lao động. Sự “ăn bám” trong mức tối thiểu thực
cho thấy tác động kinh tế của tiền lương tối thiểu càng giảm lâu kể từ khi một mức cụ thể
có hiệu lực.
2.Tn thủ Luật tiền lương tối thiểu
Mơ hình tiêu chuẩn về tác động của tiền lương tối thiểu này sử dụng hai giả định không
được tuân thủ nghiêm ngặt ở Hoa Kỳ. Đặc biệt, chúng tôi cam đoan rằng tất cả đều tuân
thủ luật pháp một cách chặt chẽ và tất cả các từ ngữ đều được pháp luật điều chỉnh. Tuy
nhiên, có rất nhiều trường hợp khơng tuân thủ luật tiền lương tối thiểu. Có lẽ có tới 40%
người lao động đủ tiêu chuẩn hưởng mức lương tối thiểu được trả thấp hơn mức đó.
Nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ không tuân thủ rất cao này là do các công ty bị phát hiện vi
phạm pháp luật chỉ phải đối mặt với các hình phạt nhẹ. Khi một trong số 4.007 cơ quan

thực thi trong Cơ quan Quản lý Tiêu chuẩn Việc làm của Bộ Lao động phát hiện vi phạm
tiền lương tối thiểu, chính phủ thường cố gắng thương lượng giải quyết giữa công ty và
những người lao động bị ảnh hưởng. Công ty đồng ý trả cho những người lao động mà
anh ta chênh lệch giữa mức lương tối thiểu và mức lương thực tế cho người cuối cùng
trong 2 năm làm việc. Ngoài việc thu hồi hoàn vốn, rất hiếm khi xảy ra các thiệt hại mang
tính trừng phạt.
Tác động của mức lương tối thiểu đối với lĩnh vực được bảo hiểm và nếu mức lương tối
thiểu chỉ áp dụng cho các công việc trong lĩnh vực được bảo hiểm, thì người lao động bị
dịch chuyển có thể chuyển sang lĩnh vực khơng được bảo hiểm, làm dịch chuyển đường
cung sang phải và giảm mức lương của lĩnh vực không được bảo hiểm. Nếu dễ dàng kiếm
được một công việc với mức lương tối thiểu, người lao động trong lĩnh vực chưa được đề
cập có thể tự nhận cơng việc của mình và chờ đợi trong lĩnh vực được đề cập cho đến khi
5


có việc làm, dịch chuyển đường cung trong lĩnh vực chưa được đề cập sang trái và tăng
mức lương của lĩnh vực chưa được đề cập .
Trên thực tế, các cơng ty vi phạm pháp luật và bị chính phủ truy bắt sẽ nhận được một
khoản cho vay khơng tính lãi. Họ có thể trì hỗn việc trả một phần lương của mình trong
tối đa 2 năm.
Hơn nữa, các cơng ty vi phạm pháp luật và khơng bị bắt (có thể bao gồm phần lớn các
trường hợp) có thể tiếp tục thuê nhân công với mức lương cạnh tranh. Mức độ khơng tn
thủ luật pháp càng lớn thì việc cắt giảm việc làm do mức lương tối thiểu càng nhỏ và tỷ lệ
thất nghiệp càng thấp.

3.Các lĩnh vực được bảo vệ và khơng được bảo vệ

Mơ hình tóm tắt trong Hình 5-7 cũng giả định rằng tất cả người lao động đều thuộc phạm
vi điều chỉnh của pháp luật. Như đã đề cập ở trên, chỉ có 43% lao động không giám sát
trong nền kinh tế thuộc lĩnh vực được bảo hiểm khi FLSA lần đầu tiên được ban hành.

Tuy nhiên, quy mô của khu vực được đề cập đã tăng lên theo thời gian, do đó luật pháp
đã bao phủ khoảng 88% tổng số người lao động vào năm 1990.

6


Có hai khu vực trong nền kinh tế, khu vực được bao phủ trong Hình 5-8 (a) và khu vực
được bao phủ trong Hình 5-8 (b) . Trước khi áp dụng mức lương tối thiểu, có một mức
lương cân bằng duy nhất, w *, ở cả hai thị trường (được xác định bởi giao điểm của
đường cung Sc và đường cầu D trong lĩnh vực được đề cập, và giao điểm của Sy và Dy
trong lĩnh vực không được che phủ). Mức lương tối thiểu chỉ được áp dụng đối với người
lao động làm việc trong các loại công việc và ngành nghề bao gồm lĩnh vực được bảo
hiểm. Những người lao động làm việc trong lĩnh vực chưa được đề cập sẽ bị bỏ mặc theo
thị trường, và sẽ nhận được mức lương cạnh tranh.Một khi mức lương tối thiểu được áp
dụng cho lĩnh vực được bảo hiểm, tiền lương sẽ tăng lên mức w và một số công nhân bị
mất việc làm. Việc làm trong khu vực được bảo hiểm giảm xuống mức E và có Ec-E thay
thế công nhân trong lĩnh vực được bảo hiểm. Tuy nhiên, nhiều người trong số những
người lao động bị di dời có thể di cư đến khu vực chưa được đề cập và tìm việc làm ở đó.
Nếu một số người trong số những người lao động này chuyển sang làm việc trong lĩnh
vực chưa được đề cập, thì đường cung trong lĩnh vực này dịch chuyển sang Sy [như minh
họa trong Hình 5-8 (b)]. Kết quả là, mức lương của khu vực không được đề cập giảm và
số lượng công nhân làm việc trong lĩnh vực không được đề cập tăng từ Eu lên E’u.

7


Tuy nhiên, đây không phải là kiểu di cư duy nhất có thể xảy ra. Rốt cuộc, những người
lao động bình thường làm việc trong lĩnh vực khơng được bảo vệ có thể quyết định rằng
việc bỏ cơng việc lương thấp của họ là xứng đáng, và sẽ chọn “quanh quẩn” trong lĩnh
vực được bảo hiểm cho đến khi một công việc lương thấp mở ra. . Nếu nhiều người lao

động trong lĩnh vực không được bảo vệ thực hiện hành động này, thì hướng di cư sau đó
sẽ là từ lĩnh vực không được bảo vệ sang lĩnh vực được bảo vệ. Đường cung trong khu
vực không được bảo vệ sẽ dịch chuyển sang S ”trong Hình 5.8 (b), tính theo mức lương
của khu vực khơng được bảo vệ.Phân tích trong Hình 5-8 cho thấy cách thức ra vào tự do
của người lao động trong và ngoài thị trường lao động có thể cân bằng mức lương thực tế
trong nền kinh tế mặc dù chính phủ có những điều chỉnh tốt nhất. Chúng tôi đã thấy rằng
trong trường hợp khơng có lương tối thiểu, tỷ lệ lao động giữa các khu vực tương đương
với mức lương trong hai khu vực. Sự di chuyển của người lao động khi mức lương ở một
trong các thị trường được đặt ở mức lương tối thiểu tương đương với mức lương kỳ vọng
giữa các ngành.Để thấy được điều này, hãy tính xem một cơng nhân làm việc trong lĩnh
vực được bảo hiểm có thể mong đợi mang về nhà bao nhiêu thu nhập. Gọi m là xác suất
để một công nhân làm việc trong lĩnh vực hợp tác xã có được việc làm ở đó, sao cho l –
là xác suất mà một công nhân trong lĩnh vực hợp tác xã bị thất nghiệp. Nếu người lao
động làm việc với mức lương tối thiểu, anh ta sẽ nhận được mức lương w; nếu anh ta
khơng có việc làm, anh ta sẽ khơng có thu nhập (bỏ qua bất kỳ khoản bồi thường thất
nghiệp nào). Mức lương mà một người tham gia vào lĩnh vực được bảo hiểm thực sự có
thể mong đợi nhận được sau đó được đưa ra bởi:
Mức lương kỳ vọng trong lĩnh vực được bảo hiểm = ( π x w´ ] + [(1 – π ) x 0] = π w´ hoặc
bình quân gia quyền của mức lương tối thiểu w´ và 0.
Lựa chọn thay thế của người lao động là tham gia vào lĩnh vực khơng có mái che. Tiền
lương trong lĩnh vực không được bảo hiểm do các lực lượng cạnh tranh quy định và bằng
wa. Bởi vì khơng có thất nghiệp trong lĩnh vực khơng được bảo hiểm, mức lương này là
một “điều chắc chắn” đối với người lao động trong lĩnh vực đó. Người lao động sẽ
chuyển sang lĩnh vực nào trả mức lương kỳ vọng cao nhất. Nếu khu vực được bảo hiểm
8


trả mức lương kỳ vọng cao hơn khu vực không được bảo hiểm, thì luồng lao động chuyển
sang các cơng việc có mức lương tối thiểu sẽ làm giảm xác suất tìm được việc làm, tăng
thời gian thất nghiệp và giảm mức lương dự kiến. Ngược lại, nếu mức lương cao hơn

trong khu vực không được bảo hiểm, sự di chuyển của người lao động sang khu vực đó
làm dịch chuyển đường cung ra bên ngoài và làm giảm mức lương cạnh tranh w. Do đó,
sự di cư tự do của người lao động giữa các ngành đảm bảo rằng:
πw
´ = Wu

sao cho mức lương kỳ vọng trong khu vực được bảo hiểm bằng với mức lương chắc chắn
trong khu vực không được hỗ trợ.Cuộc thảo luận gợi ý rằng các yếu tố ảnh hưởng đến
xác suất tìm được việc làm với mức lương tối thiểu giúp xác định hướng của dòng di cư
giữa hai khu vực. Giả sử rằng những người lao động nhận được một công việc lương tối
thiểu sẽ giữ nó trong một thời gian dài. Khi đó, rất khó để một người mới bước vào lĩnh
vực được bảo hiểm có thể kiếm được việc làm. Do đó, một cơng nhân thất nghiệp nhanh
chóng nhận ra rằng anh ta tốt hơn nên làm việc trong lĩnh vực khơng được chú trọng, nơi
lương thấp hơn, nhưng vẫn có việc làm. Nếu những người nắm giữ các công việc lương
tối thiểu bị lép vế “(để có nhiều doanh thu trong những cơng việc này), thì cơ hội kiếm
được việc làm với mức lương tối thiểu là rất cao, khuyến khích nhiều người lao động xếp
hàng tìm việc làm trong lĩnh vực được bảo hiểm.
Cuộc thảo luận gợi ý rằng các yếu tố ảnh hưởng đến xác suất tìm được việc làm với mức
lương tối thiểu giúp xác định hướng của dòng di cư giữa hai khu vực. Giả sử rằng những
người lao động nhận được một công việc lương tối thiểu sẽ giữ nó trong một thời gian
dài. Khi đó, rất khó để một người mới bước vào lĩnh vực được bảo hiểm có thể kiếm
được việc làm. Do đó, một cơng nhân thất nghiệp nhanh chóng nhận ra rằng anh ta tốt
hơn nên làm việc trong lĩnh vực không được chú trọng, nơi lương thấp hơn, nhưng vẫn có
việc làm. Nếu những người nắm giữ các cơng việc lương tối thiểu bị lép vế “(để có nhiều
doanh thu trong những cơng việc này), thì cơ hội kiếm được việc làm với mức lương tối

9


thiểu là rất cao, khuyến khích nhiều người lao động xếp hàng tìm việc làm trong lĩnh vực

được bảo hiểm.

10


4.Lương tối thiểu có làm người lào động thay đổi ?
Mơ hình hồi quy điển hình được sử dụng để đánh giá tác động của tiền lương tối thiểu
đối với nhân lực được đưa ra bởi:
Et = Bwt + các biến khác
Trong đó Et, cho biết việc làm của một nhóm nhân khẩu học cụ thể tại thời điểm t; và Wt.
Đưa ra mức lương tối thiểu có hiệu lực tại thời điểm đó. Các biến số khác được đưa vào
các hồi quy này bao gồm tỷ lệ thất nghiệp trên toàn nền kinh tế và tỷ lệ bao phủ cho mức
lương tối thiểu.
Một tài liệu thực nghiệm lớn cố gắng xác định tác động việc làm của mức lương thấp.
Nhiều nghiên cứu trong số này tập trung vào tác động của tiền lương tối thiểu đối với
thanh thiếu niên, một nhóm bị ảnh hưởng rõ ràng bởi luật pháp. “Năm 1987, khoảng một
phần ba số người lao động trong độ tuổi từ 16 đến 19 kiếm được mức lương tối thiểu
hoặc thấp hơn, chỉ bằng 5% số người lao động trên độ tuổi 25.! 8 Một cuộc khảo sát toàn
diện về những nghiên cứu này kết luận rằng độ co giãn của việc làm ở tuổi vị thành niên
đối với mức lương tối thiểu nằm trong khoảng -0,1 đến-0,3. Nói cách khác, mức lương
tối thiểu tăng 10% làm giảm việc làm của thanh thiếu niên từ l đến 3%. Mặc dù độ đàn
hồi này có vẻ nhỏ, nhưng nó có thể có những tác động quan trọng.
Sự đồng thuận lâu đời rằng mức lương tối thiểu có tác động bất lợi đến việc làm đối với
những người lao động dễ bị ảnh hưởng nhất đã bị tấn công trong những năm gần đây.
Các nghiên cứu của những người theo chủ nghĩa phục hưng cho rằng lần tăng lương tối
thiểu gần đây nhất lên 4,25 đơ la khơng có bất kỳ tác động xấu nào đến việc làm. Một
trong những nghiên cứu gần đây đã khảo sát một số lượng lớn các nhà hàng thức ăn
nhanh ở Texas trước (tháng 12 năm 1990) và sau (tháng 7 năm 1991) việc áp đặt mức
lương tối thiểu 4,25 đô la Mỹ. Hoa Kỳ, và mức lương tối thiểu phải có tác động đặc biệt
mạnh mẽ đến việc làm của thanh niên trong ngành đó. Tuy nhiên, hóa ra có rất ít thay đổi

11


về việc làm ở những cơ sở này, và nếu có thì nhiều người trong số những người ở cửa
biển đã thực sự tăng việc làm của họ.Cũng có một số bằng chứng cho thấy việc làm của
thanh thiếu niên không bị ảnh hưởng khi các bang ban hành mức lương tối thiểu cao hơn
mức liên bang. Vào tháng 7 năm 1988, 2 năm trước khi liên bang tăng lương tối thiểu,
California đã tăng mức tối thiểu từ 3,35 đô la lên 4,25 đô la một giờ. Trước khi tăng,
khoảng 50 phần trăm thanh thiếu niên California kiếm được ít hơn 4,25 đơ la một giờ, do
đó nhiều thanh thiếu niên bị ảnh hưởng bởi mức tăng bắt buộc của tiểu bang. Tuy nhiên,
có vẻ như thanh thiếu niên California khơng gặp bất kỳ tình trạng mất việc làm nào khi
mức lương tối thiểu cao hơn của tiểu bang có hiệu lực.

12


5. Tác động của mức lương tối thiểu đối với việc làm của Puerto Rican

Kể từ khi Đạo luật Tiêu chuẩn Lao động Công bằng được thông qua vào năm 1938,
Puerto Rico đã phải tuân theo các quy định về mức lương tối thiểu. Trong nhiều năm, các
hội đồng công nghiệp đặt ra mức tối thiểu riêng biệt theo ngành và nghề nghiệp thấp hơn
rõ rệt so với mức lương tối thiểu liên bang của Hoa Kỳ. Năm 1974, Quốc hội Hoa Kỳ,
với sự hỗ trợ của chính phủ Puerto Rico, đã khởi xướng chính sách nâng mức và mức độ
bao phủ của mức lương tối thiểu do liên bang bắt buộc trên đảo theo tiêu chuẩn của Hoa
Kỳ.

Như chúng tơi đã lưu ý trước đó, ngay cả khi độ co giãn của việc làm đối với mức lương
tối thiểu là “chỉ” theo thứ tự từ -0,1 đến -0,3, việc tăng lương tối thiểu có thể có tác động
đáng kể đến việc làm của các nhóm bị ảnh hưởng.


Thực tế này được làm rõ một cách rõ ràng qua một nghiên cứu điển hình gần đây về thị
trường lao động Puerto Rico, thị trường lao động bị mất việc làm lớn sau khi áp đặt mức
lương tối thiểu ở mức Hoa Kỳ.

Ví dụ, vào năm 1968, mức lương tối thiểu ở Hoa Kỳ là 1,60 đô la, nhưng mức lương sàn
của người Puerto Rico chỉ là 1,10 đô la.

Đến năm 1983, mức lương tối thiểu ở Puerto Rico đạt mức 3,35 đơ la một giờ sau đó
thịnh hành ở Hoa Kỳ và mức độ phù hợp với tỷ lệ 60 phần trăm lực lượng lao động trở
lên của Hoa Kỳ. Với thu nhập hàng giờ trên đảo chỉ bằng 2/3 thu nhập hàng giờ ở đất
liền, kết quả là tỷ lệ lương tối thiểu so với mức lương trung bình tạo ra mức lương tối
thiểu cao hơn mức bình thường do đó đã có những tác động đáng kể đến việc làm ở hòn
13


đảo này. Bằng chứng chỉ ra rằng độ co giãn của hoạt động của em ở Puerto Rico đối với
mức lương tối thiểu là từ-0,1 đến -0,2.

Tuy nhiên, những độ co giãn có vẻ khiêm tốn này lại ngụ ý những tác động rất lớn đối
với hoạt động của nơi đây. Đặc biệt, việc tăng lương tối thiểu của người Puerto Rico so
với mức của Hoa Kỳ đã làm giảm 9% việc làm và tăng tỷ lệ thất nghiệp lên 3%.

Với tình trạng đặc biệt của hịn đảo là một khối thịnh vượng chung của Hoa Kỳ, người
Puerto Rico là công dân Hoa Kỳ và không phải đối mặt với ràng buộc pháp lý nào nếu họ
muốn di cư đến Hoa Kỳ, Nên nhiều số lượng người làm việc chuyển đi ở Puerto Rico có
thể thấy việc gia nhập thị trường lao động Hoa Kỳ là điều đáng giá. Các bằng chứng xác
thực cho thấy tỷ lệ di cư ra khỏi Puerto Rico phản ứng với những thay đổi về mức lương
tối thiểu, do đó có thêm 0,3% dân số Puerto Rico di cư đến Hoa Kỳ. Hơn nữa, những
người di cư có xu hướng là những cơng nhân có nhiều khả năng bị ảnh hưởng bởi việc
tăng lương tối thiểu; cụ thể là lao động trẻ và ít học.


14


PHẦN III. KẾT LUẬN
Trong quan hệ lao động, người lao động phải bỏ ra một lượng sức lực nhất định để tạo ra
giá trị thặng dư và nhận một khoản tiền công do người sử dụng lao động trả. Trên cơ sở
giá trị sử dụng của mình, với khoản tiền lương đó, người lao động mới có thể duy trì
được cuộc sống của bản thân và gia đình. Tiền lương tối thiểu là khoản tiền đáp ứng nhu
cầu tối thiểu nhất cho người lao động. Mức lương tối thiểu ảnh hưởng quan trọng đến
một số nhóm người có tỷ lệ thất nghiệp đặc biệt cao.
Cách thức ra vào tự do của người lao động trong và ngoài thị trường lao động có thể cân
bằng mức lương thực tế trong một nền kinh tế. Trong trường hợp khơng có mức lương tối
thiểu, sự di cư của người lao động giữa các lĩnh vực tương đương với mức lương trong
hai lĩnh vực. Sự di cư của người lao động khi tiền lương ở một trong những thị trường
được đặt ở mức lương tối thiểu tương đương với mức lương dự kiến giữa các lĩnh vực.

Người lao động sẽ chuyển sang bất kỳ lĩnh vực nào trả mức lương kỳ vọng cao
nhất. Nếu khu vực được bảo hiểm trả mức lương kỳ vọng cao hơn so với khu vực
chưa được phát hiện, thì dịng cơng nhân vào các cơng việc có mức lương tối thiểu
sẽ làm giảm xác suất kiếm được việc làm, tăng thời gian thất nghiệp và giảm mức
lương dự kiến. Ngược lại, nếu mức lương cao hơn trong lĩnh vực chưa được phát
hiện, sự di cư của người lao động sang lĩnh vực đó sẽ chuyển đường cung ra bên
ngồi và giảm mức lương cạnh tranh.
Tiền lương tối thiểu hầu như chỉ áp dụng cho các đối trượng là thành viên ít kinh
nghiệm và kỹ năng nhất trong lực lượng lao động,
Những phân tích trên cho thấy tiền lương tối thiểu là “lưới an tồn” cho những người có
thu nhập thấp, lao động giản đơn dễ thay thế.

15



Mức lương tối thiểu đặt ở mức w´ buộc người sử dụng lao động phải cắt giảm việc làm (từ
´ ). Mức lương cao hơn cũng khuyến khích (E S- E*) thêm người lao động tham
E* xuống E

gia thị trường. Do đó, mức lương tối thiểu tạo ra thất nghiệp.
Tác động quan trọng tới việc làm của lứa tuổi vị thành niên. Khảo sát cho thấy các thanh
niên không bị mất việc làm khi ban hành mức lương tối thiểu cao hơn.
Nếu lĩnh vực cạnh tranh trả mức lương kỳ vọng cao hơn lĩnh vực khơng cạnh tranh, thì
dịng người lao động đến các cơng việc có mức lương tối thiểu sẽ giảm xác suất kiếm
được việc làm, làm tăng thời gian thất nghiệp.
Mức lương tối thiểu chưa hẳn thay thế người lao động.

16


17



×