Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Những Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Hành Vi Mua Và Sự Thay Đổi Xu Hướng Mua Sắm Của Người Tiêu Dung Hà Nội.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.92 KB, 34 trang )

LỜI NĨI ĐẦU
Trong cơng cuộc đổi mới,khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường
thì xu hướng tiêu dùng của người dân cả nước nói chung và người dân Hà Nội
nói riêng cũng thay đổi mạnh mẽ,rõ rệt.
Những năm cuối thế kỉ 90,nền kinh tế thị trường bắt đầu phát triển,mở
rộng ,mức sống của người dân phát triển và nhu cầu mua sắm của đại đa số tầng
lớp nhân dân ngày càng cao. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế là sự xuất
hiện và phát triển của một loại hình kinh doanh bán lẻ hiện đại “siêu thị”.
Siêu thị chính thức xuất hiện lần đầu tiên ở nước ta năm 1993 khi công ty
Vũng Tàu Sinhanco khai trương siêu thị Minimart.Tại Hà Nội,hai siêu thị được
khai trương lần đầu là siêu thị thuộc Trung tâm thương mại số 7-9 Đinh Tiên
Hoàng(1/1995) và siêu thị Minimart Hà Nội tại tầng II -chợ Hôm(3/1995). Đến
nay,sau hơn 10 năm hình thanh và phát triển, ở Hà Nội đã có một hệ thống siêu
thị tương đối hoàn chỉnh từ các siêu thị nhỏ cho tới các đại siêu thị .Siêu thị đã
trở nên quen thuộc đới với người dân Hà Nội.
Mới đầu,siêu thị là một khái niệm còn mới lạ đối với người tiêu dùng Hà
Nội,bởi họ có thói quen mua sắm tại các chợ truyền thống.Thói quen này đã có
từ lâu khó có thể thay đổi.Nhưng theo thời gian cùng với sự phát triển của nền
kinh tế xã hội và sự phát triển của hệ thống siêu thị, người tiêu dùng đã thay đổi,
thích ứng và chuyển sang mua sắm tại các siêu thị.
Nghiên cứu đặc điểm tâm lý của người tiêu dùng Hà Nội nói riêng và người
tiêu dùng Việt Nam nói chung cũng như những xu hướng thay đổi của nó trong
tình hình đất nước hiện nay có ý nghĩa to lớn.Nó khơng những cho phép chúng
ta hiểu sâu sắc hơn những thay đổi trong các lĩnh vực kinh tế,xã hội mà còn giúp
các nhà kinh doanh hoạch định sản xuất sao cho phù hợp với nhu cầu người tiêu
dùng. Đồng thời nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn của việc phat
triển siêu thị ở Hà Nội nhằm góp phần nâng cao nhận thức của toàn xã hội về
siêu thị,xây dựng và phát triển năng lực quản lí vĩ mơ và năng lực quản trị kinh
doanh hệ thống thương mại văn minh hiện đại này.
Trong bài viết này em xin tập trung trình bầy bốn vấn đè cơ bản sau:
1




 Một là,xu hướng mua hàng của người tiêu dùng Hà Nội và sự thay đổi
trong hành vi mua của người tiêu dùng.
 Hai là,những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua và sự thay đổi xu hướng
mua sắm của người tiêu dung Hà Nội.
 Ba là,triển vọng phát triển của các siêu thị tại Hà Nội.
 Bốn là,các giải pháp để phát triển hệ thống siêu thị tại Hà Nội.
Do khả năng còn nhiều hạn chế nên bài viết này khó tránh khỏi
những khiếm khuyết nào đó.Rất mong thầy thơng cảm và đóng góp ý kiến để bài
viết hoàn thiện hơn. Đặc biêt,em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn,chỉ bảo
tận tình của thầy,đã giúp em có thể hoàn thành đề tài trên.Em xin chân thành
cảm ơn!

2


I. XU HƯỚNG MUA HÀNG CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG HÀ NỘI VÀ
SỰ THAY ĐỔI TRONG HÀNH VI MUA CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG.
Để tìm hiểu quá trình thay đổi trong xu hướng mua hàng và hành vi
mua của người tiêu dùng Hà Nội chúng ta sẽ đi tìm hiểu hai giai đoạn chính:
Giai đoạn trước những năm 1995 và giai đoạn từ năm 1995 đến nay.
1. Giai đoạn trước những năm 95
1.1 Giai đoạn từ năm 1986 trở về trước
Đây là giai đoạn còn chế độ bao cấp. Trong giai đoạn này,nhu cầu của người
dân cả nước cũng như người dân Hà Nội là nhu cầu vật chất đơn giản.Nền kinh
tế phát triển chậm với các nghành sản xuất hàng hoá tiêu dùng đơn điệu,hạn chế
về số lượng,chế độ phân phối theo tem phiếu,cùng với việc ngăn sông cấm chợ
đã làm đơn giản hoá nhu cầu vật chất của người dân.
Trong bối cảnh đó,việc thoả mãn nhu cầu vật chất của con người về thực

chất rất đúng với ý nghĩa thuần tuý nhất của việc phục hồi lại sức lực mà con
người đã tiêu hao trong lao động ở mức thấp nhất.
Sự phát triển các nhu cầu tinh thần cũng không có gì phong phú hơn. Ở đây
thấy rõ một đặc điểm là tinh tập thể hoá trong thoả mãn nhu cầu tinh thần khá
cao.Một số hình thức hoạt động nhìn bề ngồi có vẻ đáp ứng được những nhu
cầu tinh thần của từng cá nhân riêng lẻ như: phim, ảnh, văn công, sách báo, các
buổi phát thanh trên đài..v.v. Nhưng thực chất sự đơn điệu trong nội dung của
các hoạt động đó đã vơ tình tạo ra và duy trì tinh phi cá tính trong cách thức thoả
mãn nhu cầu cũng như trong sự phát triển nhu cầu của con người.
Ngồi ra trong giai đoạn này có một hình thức thoả mãn nhu cầu văn hoá, tinh
thần của người dân khá phổ biến. Đó là các hoạt động tập thể như: biểu diễn văn
nghệ của cơ quan, trường học, địa phương, các buổi mítting…Các hoạt động này
thường được xã hội khuyến khích và dư luận “buộc” mọi người phải chấp nhận.
Bên cạnh đó trong thời gian này xã hội địi hỏi rất cao tinh thần xả thân vì
nước ở mỗi người và tinh thần đó cũng đã trở thành một giá trị xuyên suốt mọi
hoạt động trong đời sống của người dân. Người dân đã chấp nhận quan điểm tiết
3


kiệm như một biểu hiện của tình cảm yêu nước, như một điều kiện để xây dựng
và giải phóng đất nước. Bên cạnh yếu tố tinh thần tích cực là nhận thức ấu trĩ và
cứng nhắc của người dân về một số hiện tượng xã hội. Người ta thường có ấn
tượng xấu đối với người giàu, đối với hoạt động kinh doanh tư nhân hay đối với
những ai có cách sống khác mọi người. Vì vậy những biểu hiện hưởng thụ khác
với số đông thường bị dư luận đẻ ý, dịm ngó.
Bối cảnh sống này đã buộc những người có điều kiện kinh tế cũng phải nén
chịu hay đáp ứng nhu cầu của mình một cách kín đáo.
Mặt khác, vai trị của giao lưu văn hóa bị hạn chế trong những khn khổ
nhất định. Giao lưu văn hóa, đặc biệt với nước ngồi, nơi mà người dân ở đó có
mức độ phát triển nhu cầu cũng như trình độ tiêu dùng cao hơn, lại phiến diện,

thường chỉ theo một khía cạnh nào đó của cuộc sống. Vì vậy vai trị của giao lưu
văn hóa như một yếu tố thúc đẩy nhu cầu phát triển đã bị hạn chế.
Và như vậy, trong giai đoạn này người tiêu dùng đã trở nên quen và bằng
lòng với các nhu cầu đơn giản như vậy của mình. Họ chấp nhận cách thức thỏa
mãn nhu cầu vật chất và tinh thần một cách đơn điệu.
1.2 Giai đoạn năm 1986-1995
Giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thi trường. Đây là giai đoạn nền kinh tế
bắt đầu phát triển và đời sống người dân dần được nâng cao. Sự phát triển kinh
tế với nhịp độ nhanh hơn, khả năng thu nhập của mỗi người dân tăng đã làm
thay đổi hẳn bộ mặt của đời sống . Đường phố Hà Nội nhộn nhịp với mn vàn
loại hình hoạt động: Dịch vụ thương mại, sản xuất kinh doanh, xây dựng cư
xá ,trao đổi nâng cao tri thức, sinh hoạt giải trí..v.v.
Nhu cầu của người dân cũng được đa dạng hoá. Nếu như trước kia người
dân chỉ quan tâm nhiều đến những nhu cầu thông thường như ăn, mặc ở những
mức độ vừa phải, nghỉ nghơi giải trí với những hình thức nhẹ nhang, đơn giản, ít
tốn kém thì trong giai đoạn này đã hồn tồn đổi khác. Đó là sự xuất hiện của
những nhu cầu mới như: đi du lịch vào cuối tuần hay sau những thời gian làm
việc lâu dài. Tuy nhiên, những nhu cầu này là chư nhiều và còn hạn chế.
Nhu cầu của người dân phát trỉên theo chiều sâu, có nghĩa là cũng vẫn với
những nhu cầu trước kia nhưng con người đời phải được thoả mãn chũng một
4


cách tinh vi hơn, đa dạnh hơn. Ví dụ như nhu cầu về thực phẩm, người ta không
chỉ cần ăn no mà địi hỏi phải ngon với sự trình bày đẹp mắt. Các loại thực
phẩm đáp ứng những nhu cầu đó cũng phải đa dạng hơn, đáp ứng sự thay đổi
khẩu vị hàng ngày, đồng thời sự chế biến chúng tại nhà cũng đòi hỏi phải thuận
lợi hơn.v..v. Riêng về lĩnh vực này trong giai đoạn này thì các nhà sản xuất vẫn
chưa nắm bắt được những thay đổi đó. Ngành thực phẩm chỉ thụ động phục tùng
sự phát triển tự phát của nhu cầu tiêu dung thực phẩm của nhân dân; tiến hành

những phương thức chế biến cổ truyền phục vụ nhu cầu nhân dân trong nước và
có xu hướng phát triển hướng ngoại nhiều hơn. Nó vẫn chưa chủ động tạo điều
kiện kích thích, định hướng phát triển nhu cầu đó nhằm mở rộng thị trường tiêu
thụ trong nước.
Một khía cạnh thay đổi khác trong nhu cầu của người dân có ảnh hưởng
mạnh đến nền sản xuất vật chất của xã hội, nhất là đén việc thiết kế hình thức,
mẫu mã của sản phẩm tiêu dùng đó là sự phát triển của nhu cầu tinh thần. Trong
giai đoạn này do tác động mạnh mẽ của mức sống cao hơn của nước ngồi
(thơng qua giao lưu văn hố) có thể thấy rằng trong sự phát triển chung của hệ
thông nhu cầu người dân Việt Nam nói chung, Hà Nội nói riêng là nhịp độ phát
triển của nhu cầu tinh thần cao hơn nhịp độ phát triển nhu cầu vật chất. Hay nói
cách khác, nhờ mở rộng giao lưu văn hoá, một khi nhu cầu vật chất của người
dân đã được thoả mãn ở mức độ tương đối thì nhu cầu tinh thần sẽ phát triển
nhanh và nó sẽ bao trùm lên, qui định toàn bộ phương thức thoả mãn của cả
những nhu cầu vật chất đó.
Nếu như trước kia việc đáp ứng nhu cầu vật chất hay tinh thần có thể phân
tích một cách rạch rịi, thì trong giai đoạn này nó đã hồ quyện vào nhau , gắn
liền chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn, đối với các sản phẩm may mặc người ta
khơng chỉ địi hỏi phải bền, mà còn phải đẹp, hợp thời trang. Đã xuất hiện một
nền văn hoá thẩm mỹ trong việc thoả mãn nhu cầu. Sự xuất hiện đó ngày càng
nảy sinh những địi hỏi cao hơn về mẫu mã, bao bì, hình thức của hàng hoá tiêu
dùng.
Trong giai đoạn mới bước vào cơ chế thị trường, những thay đổi trong hệ
thống nhu cầu của người dân nêu trên , đặc biệt là sự phát triển nhanh của nhu
5


cầu tinh thần và mong muốn thoả mãn ngay những nhu cầu hiện có trong điều
kiện khả năng kinh tế của phần đơng các hộ cư dân vẫn cịn hạn chế. Rất nhiều
người vẫn còn phải lo lắng nhiều cho bữa ăn, cho việc học hành của con cái.

Nền kinh tế tuy đã phát triển xong còn chịu ảnh hưởng nhiều của thời kì bao cấp.
Người tiêu dùng vẫn bị hạn chế bởi những thói quen trì trệ bảo thủ của thời kì này.
Cùng với việc mở rộng giao lưu kinh tế giữa các vùng miền và bỏ việc ngăn
sông cấm chợ thì ở Hà Nội nói riêng, Việt Nam nói chung đã hình thành một hệ
thống chợ lớn nhỏ hay các cửa hàng mậu dịch, chuyên doanh phục vụ cho nhu
cầu tieu dùng cho người dân.Việc đi mua sắm tại hệ thống đó đã dần trở thành
thói quen với người tiêu dùng.
So với thời kì bao cấp thì hàng hoá đã phong phú và đa dạng hơn rất nhiều
đáp ứng nhu cầu mua sắm của người dân. Hàng hoá được phân phối tại hệ thống
các chợ, các cửa hàng mậu dịch một cách tập trung rồi từ đó được đưa tới tay
người tiêu dùng. Ngoài ra các cửa hàng bán bn, bán lẻ, cửa hàng tư nhân cũng
hình thành và phát triển mạnh tạo nên sự đa dạng trong phương thức kinh doanh
ở Việt Nam.
2. Giai đoạn năm 1995 đến nay
Đây là giai đoạn nền kinh tế thị trường phát triển mạnh và mở rộng ở Hà
Nội, mức sống của người dân tăng, nhu cầu mua sắm của đại đa số tầng lớp
nhân dân ngày càng cao.
Nhu cầu về thơng tin và hưởng thụ văn hố phát triển rất mạnh, địi hỏi
nhiều loại hình sản phẩm thoả mãn chúng. Cuộc sống ngày càng được hiện đại
hoá bằng các sản phẩm điện tử như ti vi, đầu video, máy giặt, máy lạnh.
Nhu cầu tinh thần phát triẻn mạnh, nhu cầu về việc giảm nhẹ những khó
nhọc về sức lực trong cuộc sơng của người dân phát triển nhanh. Vì vậy mức
tiêu thụ những sản phẩm hiện đại như máy giặt, tủ lạnh, xe máy, điều hoà nhiệt
độ… tăng rõ rệt. Sự phát triển nhu cầu này là động lực của sự phát triển nhanh
chóng của các ngành dịch vụ đáp ứng trực tiếp nhu cầu của con người như
khách sạn, nhà hàng ăn uống, chế biến thực phẩm, giặt là…

6



Người ta ngày càng đòi hỏi những kiểu loại sản phẩm đa dạng có chất
lượng, mẫu mã, tính năng phù hợp với đời sống tâm lý riêng tư của từng nhóm
nhỏ, từng cá nhân.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và nhu cầu mua sắm ngày càng cao
của người tiêu dùng Hà Nội thì một phương thức kinh doanh bán lẻ hiện đại đã
ra đời và phát triển, đó là hệ thống siêu thị. Từ những siêu thị đơn lẻ đầu tiên
xuất hiện vào nảm 1995 thì ngày nay, Hà Nội đã có một hệ thống siêu thị phát
triển khá đầy đủ(có siêu thị nhỏ, siêu thị, đại siêu thị).siêu thị đã trở nên quen
thuộc với người dân. Siêu thị tập trung các chủng loại hàng hoá đa dạng và
phong phú đáp ứng mọi nhu cầu mua sắm của người dân. Các tiêu chuẩn về chất
lượng, mẫu mã, giá cả sản phẩm.v..v. của người tiêu dùng được siêu thị nắm bắt
và khai thác triệt để đây là một loại hình kinh doanh mới du nhập vào Việt Nam
và Hà Nội. Tuy nhiên, giá cả hàng hoá ở đây khơng phải bất cứ người dân Hà
Nội nào cũng có thể chấp nhận mua,giá cả ở đây thương cao hơn từ 5-10% so
với chợ,cửa hàng truyền thống. Những người tiêu dùng Hà Nội có thu nhập
trung bình khá trở lên thì dễ dàng thích nghi với những ưu điểm của siêu thị so
với các hệ thống kinh doanh truyền thống và ưa chuộng siêu thị hơn .
Tuy nhiên từ năm 2000 cho đến nay cùng với sự phát triển kinh tế mạnh mẽ
của đất nước,cuộc sống người dân Hà Nội ngày càng đầy đủ hơn.một xu hướng nổi
lên khá rõ trong tâm lý ngưới tiêu dùng là xu hướng tự nhiên hoá.Họ muốn gấn gũi
với tự nhiên, ưa dùng tất cả những gì được lấy từ tự nhiên khơng qua quá trình
nhân tạo.Người ta quan tâm hơn đến chất lượng cuộc sống nhất la cuộc sống tinh
thần.
Một xu hướng khác nưa là xu hướng cá nhân hố, mơi cá nhân đang có
những khả năng để chuyển từ thế giới cộng đống sang thế giới của riêng
mình.Họ có xu hướng trở thành chính mình,khẳng định đặc điểm riêng của mình
về nhu cầu, về thị hiếu,về hứng thú trước một khối lượng đơng đảo về người
khác. Mặt khác các q trình xã hội hố đang diễn ra hết sức sơi động chưa từng
thấy tạo nên sự đa dạng trong nhu cầu của cá nhân người tiêu dùng.Họ có thể
sống trong các tồ nhà cao tầng,nhin bề ngoài là hoàn toàn giống nhau nhưng

bên trong thì lại có sự khác biệt về nội thất,màu sơn,các tiện nghi:giường tủ, bàn
7


ghế….Tuỳ từng thị hiếu của mỗi cá nhân người ta có thể lựa chọn các loại vải
với sự phong phú nhiều màu sắc về chất liệu,thẩm mỹ để may sắm cho mình
những bộ đồ u thích.Người ta có thể tự lựa chọn các phương thức giải trí,các
phương tiện đi lai,phương tiện nghe nhìn,nội dung nghe,….theo sở nguỵên của
mỗi người.
Hệ thống siêu thị phát triển rộng khắp tại Hà Nội với các chủng loại hàng hoá
phong phú đa dạng,dich vụ cung ứng ngày càng nhiều,chất lượng và giá cả hàng
hoá ngày càng phù hợp với nhu cầu ngườ tiêu dùng .Đặc biệt nó được khai thác
tính cá nhân hố của người tiêu dùng trong việc tự do lựa chọn,mua sắm hàng hoá
do vậy người tiêu dùng rất ưa chuộng đi mua sắm tại các siêu thị .Nhìn chung
người tiêu dùng ngày nay đã chuyển sang mua sắm tại các siêu thị nhiều và
thường xuyên hơn.
II.NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI MUA VÀ SỰ
THAY ĐỔI XU HƯỚNG MUA SẮM CỦA NGƯỜI TIÊU DUNG HÀ NỘI
1.Vài nét về đặc điểm của người tiêu dùng Hà Nội.
So với người tiêu dùng ở nơng thơn thì người tiêu dùng Hà Nội có những
điểm khác biệt.Những điểm khác biệt đó trước hết bắt nguồn từ những điều kiên
kinh tế xã hội khác nhau trong cuộc sống của người dân .
So với nơng thơng thì người tiêu dùng Hà Nội có nền kinh tế phát triển hơn,
nền sản xuất hàng hoá đã phát triển cao. Với các ngành công nghiệp khác nhau
Hà Nội là đầu mối sản xuất nhập khẩu, tiêu thụ dủ loại hàng hoá tiêu dùng. Sự
đang dạng của hàng hoá tiêu dùng một mặt làm cho mức độ phát triển nhu cầu
của người dân Hà Nội cao hơn so với nhu cầu của người dân ở nông thôn cả về
chiều sâu lẫn chiều rộng. Mặt khác nó cũng đem lại cho họ khả năng lựa chọn
hàng hoá làm đối tượng thoả mãn cùng một loại nhu cầu đa dạn hơn, phong phú
hơn.

Cùng với những yếu tố kinh tế thì những điều kiện văn hoá xã hội càng làm
sâu sắc hơn những điểm khác biệt trên giữa người tiêu dùng ở Hà Nội và ở nông
thôn. Hà Nội không chỉ là đầu mối kinh tế mà còn là đầu mối giao lưu văn hố
của cả nước. Người dân Hà Nội có điều kiện thuận lợi hơn nhiều so với người
8


dân nông thôn trong việc trao đổi, tiếp xúc với đời sống văn hố, tinh thần
khơng chỉ của các vùng đất khác nhau trong nước mà cả của với nước ngồi.
Trong tình hình như vậy người tiêu dùng Hà Nội dễ dàng hấp thụ được những
cái mới, cái khác của cộng đồng xung quanh. Đó là một yếu quan trọng thúc đẩy
sự phát triển hệ thống nhu cầu của người dân Hà Nội.
Tồn tại một sự khác biệt nữa, có ý nghĩa to lớn đối với các nhà kinh doanh,
đó là sự phát triển kinh tế xã hội ở thủ đo Hà Nội, đặc biệt là những biến động
có tính bước ngoặt trong sự phát triển thường diễn ra nhanh và mạnh mẽ. Do đó
tác động tới nhậnh thức và nhu cầu của con người mạnh hơn, nhanh hơn. Điều
này làm cho người tiêu dùng Hà Nội thường có tính năng động hơn so với người
tiêu dùng nông thôn.
2. Những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua và sự thay đổi hành vi
mua sắm của người tiêu dùng Hà Nội
Quá trình thay đổi của người tiêu dùng Hà Nội trong phương thức mua sắm
chuyển từ hệ thống kinh doanh truyền thống (chợ, cửa hàng bán buôn, bán lẻ,
cửa hàng chuyên doanh, mậu dịch…) sang phương thức kinh doanh hiên đại
siêu thị là một quá trình phức tạp. Quá trình này chịu ảnh hưởng của bốn yếu tố
quan trọng: văn hố, xã hội, cá nhân, tâm lí.
2.1. Văn hố-xã hội
Nét văn hoá nổi trội của người tiêu dùng Hà Nội là văn hố đơ thị năng
động, cởi mở, lịch thiệp và có yêu cầu đa dạng về chủng loại hàng háng và chất
lương hàng hoá.
Đặc điểm văn hoá xã hội ở thành thị đã ảnh hưởng đến nhận thức hành vi

thái độ của khách hàng trong việc lựa chọn, quyết định lựa chọn sản phẩm và địa
điểm mua sắm .
Người tiêu dùng thành thị ln có u cầu cao hơn so với người thơn q về
chất lượng hàng hố,về các dịch vụ khách hàng đầy đủ và chất lượng hơn,về thái
độ phục vụ…
Kết quả thăm dò dư luận mới đây của người tiêu dùng Hà Nội trong việc lựa
chọn địa điểm mua sắm cho thấy 47,28% người tiêu dùng muốn đi mua sắm ở
9


các siêu thị vì sự nhanh gọn, thuận tiện và không sợ hàng kém chất lượng:
15,16% muốn mua sắm ở chợ gần nhà;10,68% thích mua sắm ở hội chợ vì sự
đông vui: 10,07% muốn mua sắm trên mạng,qua điện thoại hoặc nhờ mua sắm
giúp…
Trong xu thế mua sắm hiện đại người tiêu dùng đa số vào siêu thị để mua
sắm vì họ cho rằng vào siêu thị họ có thể mua được nhiều thứ trong cùng một
địa điểm nên sẽ tiết kiệm thời gian công sức và giá cả hàng hố tuy có cao hơn
bên nồi một chút nhưng chất lượng đảm bảo. Người tiêu dùng sẵn sàng trả gía
cao hơn cho những sản phẩm có chất lượng tốt hơn và lại được lựa chọn ở nơi
sạch sẽ, thoáng mát, được người bán giới thiệu, hướng dẫn tận tình …
2.2 Cá nhân-tâm lí
Tốc độ đơ thị hố nhanh và lối sống công nghiệp trở nên phổ biến.
Siêu thị là loại hình kinh donh bán lẻ hiện đại gắn liền với q trìng đơ thị hố
phù hợp với lối sống văn minh, công nghiệp bao trùm lên thành phố Hà Nội. Là
một quốc qia đang phát triển và đang tiến hành cơng nghiệp hố hiện đại hố
trên mọi lĩnh vực, Việt Nam đang và sẽ xây dựng hàng loạt đô thị lớn để thích
ứng với trình độ phát triển chung của thế giới. Xu hướng này đang diễn ra mạnh
mẽ và ảnh hưởng sâu sắc đến lối sống, thói quen tiêu dùng của đại bộ phận cư
dân Hà Nội…
Hiện nay thu nhập người dân Hà Nội ngày càng được nâng cao và

không ngừng tăng lên, đây là một thuận lợi căn bản cho phát triển siêu thị.
Trên thực tế, tâm lý người tiêu dùng khi mua sắm chỉ là phục vụ nhu
cầu tiêu dùng hàng ngày với khối lượng nhỏ. Nhưng nếp sống công nghiệp và số
lượng phụ nữ đi làm ở các công trường, nhà máy, nhiệm sở ngày càng nhỉều nên
tập quán mua sắm của người Hà Nội đang dần thay đổi. Họ khơng có nhiều thời
gian đi các chợ để lựa chọn các loại mặt hàng mình ưa thích ,thay vào đó là việc
mua sắm với khối lượng lớn đủ cho tiêu dùng hàng tuần hoặc 10 gày của bản
than và gia đình .mặt khác,do mức sống tăng cao, đa số các gia đình đèu có tủ
lạnh đẻ cất giữ,bảo quản thực phẩm phục vụ trong tiêu dùng hàng ngày …Sự ra
đời và phát triển của hệ thống siêu thị tại Hà Nội phù hợp với sự thay đổi trong
thói quen mua sắm và tập quán tiêu dùng .
10


Mặt khác, siêu thị có những ưu điểm so với các loại hình kinh doanh
truyền thống khác nhờ sự tiện lợi và phương thức bán hàng tự phục vụ văn
minh,lịch sự và mới mẻ,lại đảm bảo chất lượng,vệ sinh an toàn thực phẩm,…nên
hấp dẫn,thu hút người tiêu dùng Hà Nội tới mua sắm
Nói chung, đa số khách hàng vào siêu thị là để múa sắm vì học ho
rằng vào siêu thị họ có thể “mua được mọi thứ trong một mái nhà” nên sẽ tiết
kiệm thời gian, công sức và gía cả hàng hố tuy có cao hơn bên ngồi một chút
nhưng chất lượng đảm bảo.
III.TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC SIÊU THỊ TẠI HÀ NỘI .
1. Khái niệm siêu thị
“Siêu thị” là từ được dịch ra từ các thuật ngữ nước ngoài - “supermarket”
(tiếng Anh) hay “supermarché” (tiếng pháp), trong đó “super” nghĩa là “siêu” và
“market” là “chợ”. Siêu thị ra đời lần đầu tiên vào năm 1930 tại Mỹ và những
ưu thế nổi trội của mình đã làm nên cuộc cách mạng trong lĩnh vực phân phối
bán lẻ của thế giới hiện đại. Hiện nay, siêu thị được định nghĩa theo nhiều cách
khác nhau tuỳ theo từng nước:



Tại Hoa Kỳ, siêu thị được định nghĩa “là cửa hàng tự phục vụ tương

đối lớn có mức chi phí thấp, tỉ suất lợi nhuận không cao và khối lượng hàng hoá
bán ra lớn, đảm bảo thoả mãn đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng về thực
phẩm, bột giặt, các chất tẩy rửa và những mặt hàng chăm sóc nhà cửa”, song cịn
có một khái niệm đơn giản “siêu thị là cửa hàng tự phục vụ bày bán nhiều mặt
hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng phổ biến của người dân như thực phẩm, đồ
uống, dụng cụ gia đình và các loại vật dụng cần thiết khác”.


Tại Anh người ta định nghĩa siêu thị là cửa hàng bách hoá bán thực

phẩm, đồ uống và các loại hàng hoá khác. Siêu thị thường đặt tại thành phố hoặc
dọc đường cao tốc hoặc trong khu bn bán có diện tích khoảng 4000 đến 25000
bộ vuông.


Tại Pháp siêu thị được định nghĩa là cửa hàng bán lẻ theo phương thức

tự phục vụ có diện tích từ 400 mét vng đến 2500 mét vng chủ yếu bán hàng
thực phẩm và vật dung gia đình.
11


Tóm lại, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về siêu thị nhưng người ta vẫn
thấy rõ nội hàm của siêu thị là : (1) dạng cửa hàng bán lẻ, (2) áp dụng phương
thức tự phục vụ,(3) hàng hoá tiêu dùng phổ biến



Trong qui chế của bộ thương mại định nghĩa “siêu thị là loại cửa hàng

hiện đại; kinh doanh tổng hợp hoặc chuyên doanh; có cơ cấu chủng loại hàng
hoá phong phú, đa dạng, đảm bảo chất lượng; đáp ứng các tiêu chuẩn về diện
tích kinh doanh, trang bị kĩ thuật và trình độ quản lý, tổ chức kinh doanh; có
phương thức phục vụ văn minh thuận tiện nhằm thoả mãn nhu cầu mua sắm
hàng hoá của khách hàng”.
2. Tiêu chí phân biệt siêu thị với các loại hình kinh doanh thương mại
khác
2.1. Những đặc trưng cơ bản của kinh doanh siêu thị
2.1.1. Phương thức phục vụ
Siêu thị sáng tạo và áp dụng phương thức tự phục vụ, được ứng dụng trong
nhiều loại củă hang bán lẻ khác và là phương thức kinh doanh chủ yếu của xã
hội văn minh cơng nghiệp hố...
Tuy nhiên, hiện nay cùng với sự phát triển của hệ thống bán lẻ, người ta
thường nhầm lẫn giữa phương thức tự chọn và tự phục vụ.


Tự chọn: Khách hàng sau khi chọn mua được hàng sẽ đến chỗ người

bán để trả tiền, trong quá trình mua có sự giúp đỡ, hướng dẫn của người bán.


Tự phục vụ: Khách hàng xem xét và chọn mua hàng, bỏ vào rỏ hoặc

xe đẩy và thanh tốn tại quầy tính tiền đặt gần lối ra vào. Người bán vắng bóng
trong q trình mua hàng.
Ngồi ra phương thức thanh tốn tại các siêu thị rất thuận tiện. Hàng hoá
gắn mã vạch mã số được đem ra quầy tính tiền, dùng máy quét Scanner để đọc

giá, tính tiền bằng máy và tự động in hố đơn. Hình ảnh các quầy tính tiền tự
động luôn là biểu tượng cho các cửa hàng tự phục vụ. Đây chính là tính chất
“siêu” của siêu thị, đem đến cảm giác thoải mái, hài lòng, tự tin, tạo sự thoải mái
cao nhất cho người mua sắm.
12


2.1.2. Nghệ thuật trưng bầy hàng hố
Ngồi việc sáng tạo ra phương thức bán hàng tự phục vụ, đóng góp của siêu
thị cho hệ thống bán lẻ còn là nghệ thuật trưng bầy hàng hoá. Các siêu thị cũng
là người đầu tiên nghĩ đến tầm quan trọng của nghệ thuật này và nghiên cứu
cách thức vận động của người tiêu dùng. Với những đặc trưng vốn có của mình
siêu thị có thể áp dụng nghệ thuật trưng bày hàng hố hiện đại nhằm khuyến
khích người tiêu dùng mua hàng hố nhiều hơn.
Do siêu thị thường có mặt bằng rộng khơng gian đủ lớn nên có khả năng bố
trí, trưng bầy hàng hoá hiệu quả hơn. Tại các siêu thị do được bố trí khơng gian
một cách khoa học nên có thể chia không gian thành những khu vực hay các
gian hàng. Ví dụ: khu hàng tạp phẩm, khu vực quần áo, nông sản, thực phẩm,
rau quả, tươi sống… Tạo nên sự thuận tiện cho khách hàng mua hàng hoá một
cách hiệu quả.
Thơng qua việc sắp xếp bố trí hàng hố, khơng gian, ánh sáng… phù hợp
với đặc tính của sản phẩm sẽ tạo ra sự thu hút khách hàng một cách hịêu quả
trong khi một số hình thức phân phối khác sẽ khó thực hiện được điều này. Cách
trưng bầy sản phẩm hiện đại, khoa học của các siêu thị giúp khách hàng hình
dung được hàng hố, quan sát tốt hàng hoá tạo ra sự thuận tiện trong việc xem
xét, so sánh dẫn đến hành động mua hàng.
2.2 Nhận dạng siêu thị qua hình thức bên ngồi
2.2.1 Diện tích mặt bằng
Trong hệ thống siêu thị thế giới, căn cứ vào diện tích mặt bằng bán hàng để
chia ra ba loại siêu thị nhỏ, siêu thị và đại siêu thị. Các nước thường qui định

diện tích tối thiểu cho từng dạng siêu thị này.
Qui chế siêu thị, trung tâm thương mại của Việt Nam cũng qui định siêu thị
là hình thức kinh doanh lớn có diện tích tối thiểu là 500 m2 trở lên và nếu là siêu
thị chuyên doanh phải có diện tích ít nhất là 250 m2…Với những qui định như
vậy sẽ hạn chế việc đặt tên siêu thị một cách tuỳ tiện và người ta cũng dễ dàng
thấy được siêu thị là một dạng cửa hàng bán lẻ qui mô lớn.
13


2.2.2. Tập hợp hàng hố
Các siêu thị ở nứơc ngồi phải hội đủ điều kiện về tập hợp hàng hoá theo
các qui định trong phân loại siêu thị về mặt qui mô cho siêu thị nhỏ, siêu thị và
đại siêu thị. Theo cách phân loại trong qui chế về siêu thị và trung tâm thương
mại của Việt Nam, tập hợp hàng hóa tối thiểu là khoảng 4000 mặt hàng…Việc
qui định số lượng mặt hàng tối thiểu bầy bán trong siêu thị cũng giúo cho việc
dễ dàng phân loại và quản lý hệ thống phân phối bán lẻ.
2.2.3 Địa điểm đặt siêu thị.
Siêu thị thường được đặt ở vị trí thuận tiện giao thong, thuận tiện cho đi lại,
mua sắm của khách hàng.Nó có thể được đặt ở khu tập trung dân cư đô thị trong
trung tâm thành phố (đối với siêu thị nho và siêu thị ) hoặc ngoại vi thành phố
(đối với đại siêu thị) nơi có vị trí rộng thuận tiện cho các hoạt động giao thong
đi lại của khách hàng.
2.2.4. Đặc điểm của hàng hoá bầy bán trong siêu thị.
Thơng thường các siêu thị có thể thoả mãn phần lớn nhu cầu của khách hàng
trong một lần đi mua hàng. Do càng ngày người tiêu dùng càng có ít thời gian
hơn cho việc mua sắm nên phần lớn khách hàng mong muốn mua được phần lớn
hàng hoá phục vụ nhu cầu hàng ngày tại một địa điểm và siêu thị là dạng cửa
hàng thích hợp. Như vậy, hàng hoá bầy bán trong siêu thị là hàng tiêu dùng phổ
biến từ lương thực,thực phẩm,chất tẩy rửa,hàng vệ sinh,quần áo,giầy dép các
loại, đến hàng điện tử gia dụng. Đặc điểm của các hàng hoá này là hàng tiêu

chuẩn hoá chất lượng trung bình, giá cả phải chăng và được niêm yết rõ ràng,
bao bì đóng gói đẹp, tiện lợi cho tiêu dùng, có hướng dân chi tiết về cách sử
dụng thời hạn sử dụng…Đối với các siêu thị nhỏ thường có đầy đủ các loại thực
phẩm,rau quả và các chất tẩy rửa,các mặt hàng gia dụng thiết yếu hàng ngàngười
tiêu dùng. Ở qui mơ lớn hơn có thể có them các mặt hàng khác đáp ứng nhu cầu
của khách hàng. Mặt khác,với số lượng mặt hàng lớn siêu thị thị thường bố trí
sao cho người tiêu dùng có thể tiếp cận hàng hoá một cách dễ dàng nhất để kích
thích nhu cầu múa sắm của họ.
2.2.5 Nơi trơng giữ xe.
14


Do số lượng khách hàng đến siêu thị đông nên siêu thị thường có bãi giữ xe
đủ lớn để đáp ứng nhu cầu gửi xe của khách hàng đặc biệt là vào những dịp cao
điểm.Siêu thị có thể có bãi gửi xe ngồi trời hoặc một số siêu thị có bĩa gửi xe
dưới tầng hầm với mục tiêu chung là đảm bảo thuận tiện cho khách hàng.
2.2.6 Biển hiệu nhà phân phối.
Các nhà phân phối xuyên quốc gia thường đặt tên cho các siêu thị, đại
siêu thị của mình bằng một biểu hiện chung ở khắp nơi trên thế giới, hoặc ở một
khuc vực địa lý nhất định. Biển hiệu đó có thể là chính tên nhà phân phối hoặc
tên biển hiệu do nhà phân phối đặt cho tất cả cửa hàng của nhà phân phối như
Big-C, Metro .
3. Khái qt tình hình hoạt đơng của hệ thống siêu thị tại Hà Nội.
3.1. Số lượng siêu thị.
Ở Việt Nam siêu thị lần đầu tiên xuất hiện là Minimart vào tháng 10 năm
1993 chủ yếu phục vụ cho đối tượng khách nước ngồi. Đến cuối năm 1995,
Việt Nam có 10 siêu thị lớn nhỏ nằm ở 6 tỉnh, thành phố trong cả nước. Theo số
liệu thống kê của bộ thương mại, tính đến 30/9/2005, số lượng siêu thị trong cả
nước lên tới 265 siêu thị, nhiều gấp 26,5 lần so với cách đây 10 năm. Hơn nữa
siêu thị đã có ở 32 tỉnh thành dọc theo chiều dài đất nước từ Lạng Sơn tới Cà

Mau.
Hai siêu thị lần đầu được khai trương ở Hà Nội là siêu thị thuộc trung tâm
thương mại 7-9 Đinh Tiên Hoàng (1/1995) và siêu thị Minimart Hà Nội tại tầng
hai chợ Hôm (3/1995). Từ năm 1996 đến nay nền kinh tế Việt Nam nói chung
Hà Nội nói riêng đã đạt được những thành tựu ấn tượng tăng trưởng kinh tế
nhanh và ổn định. Thu nhập và mức sống của người dân ngày càng được nâng
cao, môi trường xã hội đã tạo rất nhiều thuận lợi cho hệ thống siêu thị ở Hà Nội
hình thành và phát triển. Đặc biệt từ năm 2000 trở lại đây lượng siêu thị mới
tăng lên nhanh chóng. Riêng năm 2004 Hà Nội đã mở thêm 14 siêu thị.
3.2. Qui mô siêu thị.
Theo số liệu của Bộ Thương mại hiện Hà Nội có tới 110 siêu thị chiếm
38% số lượng siêu thị cả nước, nhưng trong đó có 29% khơng đáp ứng tiêu
15


chuẩn phân hạng siêu thị, 59% là siêu thị hạng III, số lượng siêu thị hạng I, II
chỉ chiếm 12% trong tổng số.
Các siêu thị rất nhỏ của Hà Nội có diện tích mặt bằng kinh doanh chưa
đầy 100 m2. Ví dụ siêu thị Hồ Gươm có diện tích 40 m2, siêu thị IMS: 60 m2,
siêu thị Cát Linh 65 m2, siêu thị số 66 Bà Triệu 80 m2. . .Do bị giới hạn về diện
tích bầy bán nên chủng loại hàng hoá trong các siêu thị loại này chỉ đạt mức
2000-3000 mặt hàng, cách bố trí hàng hố đon điệu, hệ thống dịch vụ kèm theo
nghèo nàn…
Trong quá trình phát triển, hệ thống siêu thị của Hà Nội cũng được cải
tiến và nâng cấp, siêu thị chưa đạt tiêu chuẩn phân loại đã cố gắng mở rộng qui
mơ. Ví dụ siêu thị số 60 Ngô Thị Nhậm mở rộng lên 180 m2, Minimart Thái Hà
lên 250 m2…Diện mặt hàng cũng tăng lên khoảng 3500-5000 tên hàng và doanh
số lên tới hàng trăm triệu đồng /ngày.
Những siêu thị cỡ vừa và lớn ở Hà Nội không nhiều, nhất là đối với các
siêu thị kinh doanh tổng hợp: Chỉ có hai siêu thị Fivimart đạt tiêu chuẩn loại II

có diện tích là 3000 m2, 20000 mặt hàng, bãi đỗ xe diện tích 1000 m2. Các
chuỗi siêu thị Intimex, Marko, Citimart chỉ là các siêu thị loại III vì diện tích
khơng đủ 2000 m2…
3.3.Hàng hoá trong siêu thị.
*Về tập hợp hàng hoá
Trừ những siêu thị loại I và IIcó chủng loại hàng hố phong phú vừa
rộng vừa sâu,cịn lại các siêu thị cua Hà Nội (siêu thị thi lọai IIIvà nhất là các
siêu thị không được phân loại )tuy tập hợp hàng hốtương đối phong phú nhưng
xét về chủng loại thi vẫncịn nghèo nàn.
*Về chất lượng hàng hoá
*Về giá cả hàng hoá trong siêu thị
Giá cả hàng hoá trong siêu thị là vấn đề luôn được người tiêu dùng quan
tâm. Kết quả khảo sát sơ bộ cho thấy giá cả hàng hoá trong các siêu thị thì ln
cao hơn so với giá của sản phẩm đó bán tai các chợ truyền thống hoặc các cửa
hàng bách hoá.Về mức độ chênh lệch giá cả cũng rất đa dạng.Nhìn chung mức
16


chênh lệch phổ biến giữa các siêu thị với các chợ truyền thống là khoảng 1025%,với các dạng cửa hàng khác là 10-15%.
Giữa các loại siêu thị cũng có sự chênh lệch đáng kể về giá cả. Đối với
các mặt hàng tiêu dùng phổ biến, việc quảng cáo mạnh và phân phối rộng khắp
như các loại sữa hộp, sữa tươi, mì ăn liền, bột giặt…Giá bán tại các siêu thị
tương đối sát với giá bên ngồi. Các hàng hố ít thông dụng nhất là sản phẩm
nhập ngoại như là rượu ngoại, bánh kẹo ngoại, mỹ phẩm, quần áo nhập ngoại,…
Mức giá bán tại các siêu thị thường cao hơn nhiều so với các loại cửa hàng khác.
3.4 Trưng bày hàng hoá trong siêu thị.
Việc sắp xếp, trưng bày hàng hoá siêu thị được coi là một trong những
yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng.
Trưng bày hàng hoá trong siêu thị phải phù hợp với quá trình vận động
của người mua hàng từ khi bước chân vào cho đến khi ra khỏi siêu thị. Chính vì

những địi hỏi khắt khe về trưng bày hàng hoá trong siêu thị để đảm bảo sự văn
minh tiện lợi mà tiêu chí tập hợp hàng hoá của siêu thị được gắn liền với tiêu chỉ
diện tích kinh doanh để chỉ quy mơ của siêu thị.
Ở Hà Nội, do các siêu thị ra đời phát triển một cách tự phát, thiếu quy
hoạch, đội ngũ nhân viên chưa được đào tạo một cách bài bản nên tính nghệ
thuật trưng bày hàng hố chưa cao, chưa thật hấp dẫn khách hàng. Một số siêu
thị ở Hà Nội có danh mục hàng hố phong phú nhưng do quá chú trọng tới số
lượng mà bố trí, thiết kế các quầy hàng, các giá đỡ quá sát nhau làm cho việc di
chuyển của cả khách hàng và nhân viên đều khó khăn.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây có nhiều siêu thị lớn đã được mở tại
Hà Nội, đặc biệt có sự tham gia của yếu tố nước ngồi đã đem đến nghệ thuật
sắp xếp, trưng bày hàng hoá theo chuẩn mực quốc tế.
4. Thực trạng về các siêu thị tại Hà Nơị.
4.1.Ưu điểm của siêu thị
Có thể thấy siêu thị có nhiều ưu điểm so với các loại hình bán lẻ truyền
thống trong hệ thống phân phối. Các siêu thị đang thu hẹp khoảng cách đối với
các loại chợ truyền (đối thủ cạnh tranh chính của các siêu thị ):
17




Siêu thị thường được tổ chức với quy mô lớn, phương thức kinh doanh

văn minh, hiện đại và hàng hoá, dịch vụ phong phú đem lại nhiều lợi ích cho
khách hàng và nhà sản xuất:
Do siêu thị có quy mơ lớn lại được tổ chức theo hình thức tự phục vụ nên
có khả năng giảm chi phí bán hàng, tao ra nhièu tiện ích cho khách hàng và nhà
sản xuất đưa được hàng hoá đến người tiêu dùng dễ dàng, tiết kiệm được chi phí
phân phối, bảo quản. Do đó siêu thị làm tăng lợi ích của xã hội và người tiêu

dùng. Đây chính là một ưu thế cạnh tranh nổi trội của siêu thị so với các hình
thức thương mại truyền thống. Đối với người mua, phương thức tự phục vụ đã
thể hiện tính cách mạng và tính vượt trội của mình so với các phương thức bán
hàng truyền thống. Tự phục vụ giúp người mua hoàn toàn thoải mái, tự tin, tiện
nghi khi được tự do lựa chọn, ngắm nghiá, sờ mó hàng hố mà khơng cảm thấy
cản trở từ phía người bán.
Do áp dụng phương thức tự phục vụ, giá cả trong siêu thị được niêm yết
rõ ràng để người mua không phải tốn công mặc cả, tiết kiệm thời gian và hàng
hoá bày bán trong siêu thị thường là hàng hoá tiêu dùng phổ biến.
Mối quan hệ giữa nhà sản xuất, nhà nhập khẩu và doanh nghiệp phân phối
được siết chặt, nhờ đó tạo một sự đồng bộ trong nghiên cứu thị trường, xây dựng
sản phẩm có tính chiến lược tiếp thị tốt trước khi tung ra thị trường.
Một số siêu thị lựa chọn cung cấp các loại hàng hoá cho chất lượng, giá cả
phải chăng,phục vụ ân cần cùng với nhiều chương trình khuyến mại, tăng thêm
tiện ích và sịch vụ, đã để ấn tượng tốt với khách hàng.


Hình thức kinh doanh của siêu thị có tính chun mơn hố cao khơng

những giúp khả năng cạnh tranh về giá cả của siêu thị mà còn giúp tăng hiệu lực
quản lý nhà nước đối với khâu lưu thơng phân phối:
Một trong những yếu tố có tính nghiệp vụ chuyên nghiệp trong hoạt động
của siêu thị là tổ chức nguồn hàng để “mua tận gốc” và “bán tận ngọn”. Đây là
điều kiện quan trọng để giảm tri phí bán hàng, là cơ sở kinh tế để có giá bán
cạnh tranh.

18


Siêu thị giúp tăng cường hiệu lực và hiệu quả nhà nước trong việc điều

tiết và bình ổn thị trường trong nước, là cơng cụ thực thi cơ chế, chính sách kinh
tế vĩ mô của nhà nước.
Siêu thị hoạt động tốt giúp người tiêu dùng tiếp cận với hàng hoá dễ dàng
hơn và tạo ra nhiều sự lựa chọn hơn đối với người tiêu dùng. Rất nhiều siêu thị
có đội ngũ nhân viên chun nghiệp họ đóng vai trị là người hướng dẫn, tư vấn
khách hàng trong tiêu dùng hàng hoá một cách hiệu quả, đặc biệt là các đối
tượng có ít hiểu biết về hàng hố như nam giới, trẻ em. người già…


Siêu thị góp phần rất lớn trong việc tạo ra và củng cố các kênh phân

phối liên kết dọc, không những đảm bảo phục vụ được nhiều đối tượng hơn mà
cịn góp phần hình thành và phát triển mạng lưới phân phối hiện đại ở Việt Nam:
Siêu thị đã tạo ra một phong cách mua bán mới, một nét văn minh trong
thương hiên đại: sòng phẳng, rõ ràng và tin cậy lẫn nhau. Với hệ thống phân
phối truyền thống (nhất là các chợ truyền thống) không thể tạo ra mối liên kết
chặt chẽ giữa nhà cung cấp – nhà phân phối – khách hàng theo cách thức mà
siêu thị tiến hành. Chính vì vậy, có thể nói siêu thị giúp hình thành lên hệ thống
phân phối liên kết dọc bền vững và hiệu quả hơn rất nhiều so với các hình thức
bán lẻ trưyền thống khác.
Với phong cách kinh doanh hiện đại, các hàng hoá qua siêu thị có thể tăng
giá trị khi cung cấp ra thị trường. Các chợ bình thường với hệ ống kinh doanh
lỏng lẻo, khơng có những quy định chặt chẽ để ràng buộc trách nhiệm giữa
người mua và người bán không thể tạo ra sức sống mạnh mẽ cho hàng hoá.
Ngày nay hệ thống siêu thị nằm trong tay các hãng phân phối lớn áp dụng
các phương thức kinh doanh và quản lý hiện đại, bán hàng tự động hoá, áp dụng
những cơng nghệ tiên tiến như thiết bị tính tiền, hệ thống máy tính quản lý kho
hàng, hệ thơng dữ liệu khách hàng… Và mở hoạt động cả sang lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh dịch vụ ăn uống, vui trơi giải trí, để đa dạng hố hoạt động
kinh doanh. Đây là điều mà các chợ truyền thống không thể làm đựơc.

Siêu thị thường có hàng hố phong phú trong mơt khơng gian sạch đẹp
được thiết kế đáp ứng thẩm mỹ của người tiêu dùng. Trong khi một số chợ
truyền thống không đảm bảo các yếu tố về vệ sinh môi trường, không gian mua
19


bán không đảm bảo yêu cầu vệ sinh. Phần lớn các siêu thị lớn tuân thủ khá
nghiêm ngặt các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh quốc tế.
Giá cả và khuyến mãi là những yếu tố đưa đến thành công cho siêu thị,
những siêu thị được tổ chức tốt có thể thực hiện các hoạt động khuyến mại có
quy mơ lớn trong khi các chợ khong thể thực hiện được.
4.2 Nhược điểm của siêu thị.


Bán hàng theo phương thức tự phục vụ có nghĩa là khơng có sự tiếp

xúc trực tiếp giữa người mua và bán điều này làm cho người mua khi cần một
lời khuyên để quyết định chọn hàng nào đó thì sẽ gặp khó khăn hơn so với các
phương thức khác. Mặt khác cũng do đặc điểm tự phục vụ mà hàng hoá trong
siêu thị phải là hàng tiêu chuẩn hoá, dễ cân đong đo đếm, dễ nhận biết chất
lượng và do vậy, những hàng hoá đặc biệt cần sự chăm sóc đặc biệt của người
bán đối với khách hàng thì siêu thị tỏ ra khơng thích hợp.


Xuất phát từ đặc điểm tập hợp hàng hoá của siêu thị là hàng tiêu dùng

phổ biến đối tượng khách hàng chủ yếu là người tiêu dùng có mức thu nhập từ
thấp đến trung bình. Các siêu thị trên thế giới thường khơng đạt tới hàng hố
phẩm cấp cao, hàng hiệu (haute gamme) và phân đoạn khách hàng thu nhập cao.



Tuy hiện nay các siêu thị đã cố gắng cải thiện thời gian mở cửa nhưng

nhìn chung các siêu thị trên thế giới có thời gian mở của cố định, điều này cũng
gây ra những khó khăn cho việc mua sắm của khách hàng họ cần linh hoạt hơn
về mặt thời gian, các cửa hàng độc lập thường đáp ứng tốt hơn yêu cầu này của
khách hàng.


Nhược điểm khác của siêu thị so với các cửa hàng chuyên doanh là

siêu thị thường có tập hợp hàng hố rộng nhưng khơng sâu. Nhưng đối với các
cửa hàng bn bán họ có tới hàng trăm loại nhãn khác nhau, đáp ứng tốt hơn
yêu cầu của khách hàng so với siêu thị.


Một nhược điểm nữa của siêu thị so với các loại chợ truyền thống la

siêu thị mang hơi thở của nhịp sống công nghiẹp và. hiện đại, các siêu thị đều
giống nhau ở phương thức tự phục vụ có khi tạo ra sự nhàm chán đối với người
mua. Còn các chợ truyền thống hầu hết được hình thành từ các lễ hội văn hoá từ
20



×