Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tl cnxhkh sự hình thành và các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.42 KB, 24 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm 40 của thế kỷ 19, dưới sự tác động của
Cách mạng Công nghiệp, Chủ nghĩa tư bản đã có sự phát triển
quan trọng làm bộc lộ bản chất và những mâu thuẫn nội tại
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển
quan trọng ở đây đó là chủ nghĩa tư bản hình thành chưa đầy
1 thế kỉ nhưng nó đã tạo ra một khối lượng lực lượng sản xuất
khổng lồ bằng tất cả các xã hội trước cộng lại. Chính sự phát
triển rất nhanh của lực lượng sản xuất đã tác động tới phương
thức sản xuất dẫn tới mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
mang tính Xã hội hóa ngày càng cao với quan hệ sản xuất
dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.Bằng
chứng thể hiện một cách rõ nhất mâu thuẫn này chính là các
cuộc khủng hoảng kinh tế mang tính chu kì (1825, 1836,
1847, 1857) cho thấy mâu thuẫn ngày càng nhanh hơn, gay
gắt hơn. Các cuộc khủng hoảng là minh chứng cho sự mất cân
bằng cung và cầu trên thị trường. Khi cung lớn hơn cầu thì
dẫn tới khủng hồng thừa, sau khủng hoảng thừa thì người ta
lại hạn chế sản xuất, thu hẹp quy mô sản xuất dẫn tới cung
nhỏ hơn cầu và dẫn tới khủng hoảng thiếu. Cùng với sự phát
triển của Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra giai cấp vô sản, là những
người trực tiếp vận hành trong các dây chuyền sản xuất và
cũng là người đại diện cho lực lượng sản xuất. Đến thời điểm
này, giai cấp công nhân đã có sự phát triển về số lượng và
chất lượng. Cùng với sự phát triển của giai cấp công nhân
cũng đã hình thành nên những mâu thuẫn của giai cấp công
nhân với giai cấp tư sản. Mâu thuẫn này không chỉ thể hiện
một cách đơn thuần như trước mà đã biểu hiện một cách gay


gắt và những mâu thuẫn này là những mâu thuẫn đối kháng


khơng thể điều hịa được, thể hiện thơng qua 3 phịng trào
đấu tranh, khởi nghĩa trên quy mơ lớn của giai cấp công nhân
ở Pháp (1831, 1834), Đức (1844) và ở Anh (1836-1848).
Đặt ra yêu cầu cho các nhà khoa học nghiên cứu thực
tiễn để khái quát thành lý luận. Từ đó, Mác và Ăngghen trên
cơ sở nghiên cứu thực tiễn về kinh tế, sự phát triển của phong
trào công nhân đã tạo ra những điều kiện khách quan để cho
ra đời Chủ nghĩa xã hội khoa học.

1


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: SỰ HÌNH THÀNH CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
KHOA HỌC
1.

Khái niệm:

- Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học (hay chủ
nghĩa cộng sản khoa học) là chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung
với tính cách là sự luận tồn diện (triết học, kinh tế chính trị
và xã hội – chính trị) về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư
bản và thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản, là sự biểu
hiện khoa học những lợi ích cơ bản và những nhiệm vụ đấu
tranh của giai cấp cơng nhân. Điều ấy nói lên sự thống nhất,
tính hồn chỉnh về mặt cấu trúc của chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa xã hội khoa học là một
trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa
xã hội khoa học là bộ phận thể hiện tập trung nhất tính chính

trị - thực tiễn sinh động của chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học về các quy luật
xã hội – chính trị, là học thuyết về những điều kiện, con đường
giải phóng giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động, về cuộc
đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, về cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa, về các quy luật, biện pháp đấu tranh
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh
đạo của chính đảng mácxít nhằm thưc hiện thắng lợi sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân.
2.

Vị trí, chức năng của chủ nghĩa xã hội khoa

học:

2


a.

Vị trí của chủ nghĩa xã hội khoa học

- Trước hết, với ý nghĩa là tư tưởng, là lý luận, thì chủ
nghĩa xã hội khoa học nằm trong quá trình phát triển chung
của các sản phẩm tư tưởng, lý luận mà nhân loại đã sản sinh
ra. Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong những đỉnh cao
nhất của các khoa học xã hội của nhân loại.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học cũng nằm trong quá trình
phát triển lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa của nhân loại. Chủ
nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa có chọn lọc, phát triển

những giá trị của chủ nghĩa xã hội khơng tưởng, tìm ra những
cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn của tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết hoàn chỉnh,
gồm ba bộ phận hợp thành: triết học Mác – Lênin, kinh tế
chính trị học Mác – Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học. Đây là
hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân
hiện đại trong cuộc đấu tranh thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân.
Cả ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác – Lênin
gắn bó, quan hệ biện chứng với nhau để luận giải một
cách toàn diện sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản và sự
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội là tất yếu như nhau,
nhằm trang bị cho giai cấp cơng nhân và tồn thể nhân
dân lao động thế giới quan khoa học, phương pháp
luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới.
- Triết học Mác – Lênin, với phát kiến vĩ đại đầu tiên là
chủ nghĩa duy vật lịch sử, đã chỉ ra sự thay thế các hình thái

3


kinh tế – xã hội diễn ra trong lịch sử là do sự phát triển của
các phương thức sản xuất kế tiếp nhau quyết định.
- Kinh tế học chính trị Mác – Lênin, với phát kiến là học
thuyết giá trị thặng dư, đã làm rõ bản chất của giai cấp tư sản
trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là bóc lột giá trị thặng dư
mà giai cấp cơng nhân đã tạo ra. Giai cấp tư sản càng đẩy
mạnh phát triển kinh tế càng làm cho mâu thuẫn càng gay
gắt giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội ngày càng cao
với tính chất chật hẹp của chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản

chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn này là nguồn gốc
kinh tế cho sự diệt vong chủ nghĩa tư bản.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học, với tư cách là một trong ba
bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác – Lênin, là học thuyết xã
hội – chính trị, trực tiếp nghiên cứu sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân, những điều kiện, những con đường để giai cấp
cơng nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân.
Chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên nền tảng lý luận
chung và phương pháp luận của triết học và kinh tế chính trị
học mácxít để đưa ra những luận cứ xã hội – chính trị rõ ràng,
trực tiếp nhất để chứng minh, khẳng định sự diệt vong tất yếu
của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã
hội, khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, chỉ ra
những con đường, các hình thức và biện pháp để tiến hành cải
tạo xã hội theo hướng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Như vậy chủ nghĩa xã hội khoa học là sự tiếp tục một cách
lơgích triết học và kinh tế chính trị học mácxít, là sự biểu hiện

4


trực tiếp mục đích và hiệu lực chính trị của chủ nghĩa Mác –
Lênin trong thực tiễn.
Nếu như triết học, kinh tế chính trị học luận giải tính tất
yếu, những nguyên nhân khách quan, những điều kiện để
thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội thì chỉ có
chủ nghĩa xã hội khoa học mới đưa ra được câu trả lời cho câu
hỏi: bằng con đường nào để thực hiện bước chuyển biến đó.
b.


Chức năng, nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội

khoa học
- Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội khoa học trang bị tri thức
khoa học, tri thức lý luận (thế giới quan khoa học), đó là hệ
thống lý luận chính trị – xã hội và phương pháp luận khoa học
mà chủ nghĩa Mác – Lênin để luận giải về quá trình tất yếu
lịch sử dẫn đến sự hình thành, phát triển hình thái kinh tế – xã
hội cộng sản chủ nghĩa, giải phóng xã hội, giải phóng con
người.
- Thứ hai, chủ nghĩa xã hội khoa học giáo dục tư tưởng
chính trị về chủ nghĩa xã hội cho giai cấp công nhân, Đảng
Cộng sản và nhân dân lao động để hình thành nên thế giới
quan, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa.
- Thứ ba, chủ nghĩa xã hội khoa học định hướng chính trị
– xã hội cho hoạt động thực tiễn của Đảng Cộng sản, Nhà
nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa và trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (kim
chỉ nam).
1.

Những điều kiện và tiền đề khách quan dẫn

đến sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học
5


 Điều kiện kinh tế – xã hội:
- Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản

xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển mạnh mẽ gắn liền với sự
ra đời và lớn mạnh của nền công nghiệp lớn. Cùng với sự lớn
mạnh của giai cấp tư sản, giai cấp cơng nhân có sự gia tăng
nhanh chóng về số lượng và sự chuyển đổi về cơ cấu. Tỷ
trọng công nhân công nghiệp đã tăng đáng kể và trở thành bộ
phận hạt nhân của giai cấp. Đây là lực lượng công nhân lao
động trong khu vực sản xuất then chốt có trình độ cơng nghệ
và kỹ thuật hiện đại nhất. –
- Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại sự
thống trị áp bức của giai cấp tư sản, biểu hiện về mặt xã hội
của mâu thuẫn ngày càng quyết liệt giữa lực lượng sản xuất
có tính chất xã hội ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa
trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất.
- Nhiều cuộc khởi nghĩa, nhiều phong trào đấu tranh đã
bắt đầu có tổ chức và trên quy mô rộng khắp. Điều kiện kinh
tế, xã hội ấy địi hỏi phải có lý luận tiên phong dẫn đường,
điều mà chủ nghĩa xã hội khơng tưởng trước đó một vài thập
kỷ đã không thể đảm đương; không chỉ đặt ra yêu cầu đối với
các nhà tư tưởng của giai cấp cơng nhân mà cịn là mảnh đất
hiện thực cho sự sinh thành ra lý luận mới, tiến bộ soi sáng sự
vận động đi lên của lịch sử.
 Tiền đề văn hoá và tư tưởng
- Đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn
trên lĩnh vực khoa học, văn hoá và tư tưởng. Trong khoa học
6


tự nhiên, những phát minh vạch thời đại trong vật lý học và
sinh học đã tạo ra bước phát triển đột phá có tính cách mạng.

- Trong triết học và khoa học xã hội, phải kể đến sự ra
đời của triết học cổ điển Đức với tên tuổi của các nhà triết học
vĩ đại: Hêghen, Phoiơbắc; của kinh tế chính trị học cổ điển
Anh: A. Smít và Đ. Ricácđơ; của

chủ nghĩa xã hội không

tưởng – phê phán: H. Xanh Ximông, S. Phuriê và R. Ôoen.
Những giá trị khoa học, cống hiến mà các ông để lại đã tạo ra
tiền đề cho các nhà tư tưởng, các nhà khoa học thế hệ sau kế
thừa. Vấn đề còn lại là ở chỗ ai là người có đủ khả năng kế
thừa phát triển những di sản ấy và kế thừa, phát triển như thế
nào.
 Vai trị của Các Mác và Phriđrích Ăngghen đối với
sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học
- Mác (1818 – 1883) và Ph. Ăngghen (1820 – 1895)
trưởng thành ở một quốc gia có nền triết học phát triển rực rỡ
với thành tựu nổi bật là chủ nghĩa duy vật của L. Phoiơbắc và
phép biện chứng của V.Ph. Hêghen. Bằng trí tuệ un bác,
các ơng đã tiếp thu với một tinh thần phê phán đối với các giá
trị của nền triết học cổ điển và với kho tàng tư tưởng lý luận
mà các thế hệ trước để lại; sớm đắm mình trong phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động… tất
cả những điều đó đã cho phép các ơng đến với nhau, trở
thành đơi bạn cùng chí hướng, giúp các ơng nhận thức được
bản chất của những sự kiện kinh tế – xã hội, chính trị – xã hội
đang diễn ra trong lịng chế độ tư bản.

7



- Kế thừa các giá trị khoa học trong kho tàng tư tưởng
nhân loại, quan sát, phân tích với một tinh thần khoa học
những sự kiện đang diễn ra… đã cho phép các ông từng bước
phát triển học thuyết của mình, đưa các giá trị tư tưởng lý
luận nói chung, tư tưởng xã hội chủ nghĩa nói riêng phát triển
lên một trình độ mới về chất.
- Nhờ hai phát kiến vĩ đại: chủ nghĩa duy vật lịch sử và
học thuyết về giá trị thặng dư, các ông đã luận giải một cách
khoa học sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, (đây được
coi là phát kiến lớn thứ ba của C. Mác và Ph. Ăngghen), khắc
phục một cách triệt để những hạn chế có tính lịch sử của chủ
nghĩa xã hội không tưởng.
 Thời kỳ thứ hai (1848-1871):
Thời kỳ này bao quát những sự kiện của cách mạng dân
chủ tư sản của các nước Tây Âu (1848-1851), việc thành lập
Quốc tế I (1864). Điều nổi bật trong thời kỳ này được đánh
dấu bằng việc xuất bản tập I bộ Tư bản của Mác (1867) khẳng
định thêm một cách vững chắc địa vị kinh tế – xã hội và vai
trò lịch sử của giai cấp công nhân.
 Do địa vị kinh tế - xã hội khách quan, giai cấp công
nhân là giai cấp gắn với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới
chủ nghĩa tư bản. Và, với tính cách như vậy, nó là lực lượng
quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi
giành chính quyền, giai cấp công nhân, đại biểu cho sự tiến
bộ của lịch sử, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội
xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
8



 Giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất công
nghiệp hiện đại, được rèn luyện trong nền sản xuất cơng
nghiệp tiến bộ, đồn kết và tổ chức lại thành một lực lượng xã
hội hùng mạnh. Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, họ
là giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, và xét về
bản chất họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế
độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa.
 Địa vị kinh tế - xã hội khách quan tạo cho họ khả năng
làm việc đó, tức là khả năng đoàn kết thống nhất giai cấp và
khả năng đi đầu trong cuộc đấu tranh.

CHƯƠNG 2: CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

9


a. C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp tục phát triển chủ
nghĩa xã hội khoa học (1848 – 1895)
Sau “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C. Mác và Ph.
Ăngghen tiếp tục bổ sung, phát triển thêm nội dung cơ bản
của chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Thông qua thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp
công nhân và phong trào cộng sản, đặc biệt là cuộc đấu tranh
giai cấp ở Pháp và Đức trong thời kỳ 1848 – 1851, qua theo
dỏi, chỉ đạo và tổng kết kinh nghiệm của Công xã Pari (1871),
hai ông đã viết nhiều tác phẩm và thông qua các tác phẩm,
hai ông đã nêu lên những luận điểm hết sức quan trọng, làm
phong phú thêm chủ nghĩa xã hội khoa học.

- Đó là những luận điểm sau:
+ Giai cấp cơng nhân chỉ có thể chiến thắng giai cấp tư
sản trên cơ sở đập tan bộ máy nhà nước tư sản và kịp thời
trấn áp những hành động phục hồi của chúng.
+ Cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chun chính
vơ sản và bản thân nền chun chính đó cũng chỉ là bước q
độ để tiến lên xây dựng một xã hội khơng có giai cấp.
+ Giai cấp cơng nhân chỉ có thể giành được thắng lợi khi
có được sự lãnh đạo của một chính đảng được vũ trang bằng
lý luận khoa học.
+ Liên minh cơng – nơng là điều kiện cần phải có để đưa
cách mạng đến thắng lợi.
+ Trình bày về tư tưởng cách mạng không ngừng; về
chiến lược, sách lược đấu tranh giai cấp của giai cấp công

10


nhân; về sự lựa chọn các phương pháp và hình thức đấu tranh
trong từng thời kỳ phát triển cách mạng; về các vấn đề xã hội
– chính trị mà cách mạng xã hội chủ nghĩa phải giải quyết;…
b.

V.I. Lênin phát triển và vận dụng sáng tạo chủ

nghĩa xã hội khoa học trong hồn cảnh lịch sử mới
Vlađimia Ilích Lênin (1870 – 1924) là người kế tục một
cách xuất sắc sự nghiệp vĩ đại của C. Mác và Ph. Ăngghen.
Ông vừa bảo vệ sự trong sáng, vừa phát triển toàn diện và
làm giàu thêm lý luận chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử

mới, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa. Ơng là người mácxít đầu tiên vận dụng một cách sáng
tạo những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực
tiễn đấu tranh xây dựng chính quyền cách mạng của giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động, cải tạo xã hội cũ và bắt đầu
xây dựng một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa hiện thực.
Ông là lãnh tụ của giai cấp công nhân Nga và quốc tế, người
sáng lập Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước Xôviết.
Sự phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa xã hội
khoa học của V.I.Lênin được chia thành hai thời kỳ cơ bản:
- Trước Cách mạng Tháng Mười Nga: Trên cơ sở những
di sản lý luận của C. Mác và Ăngghen, V.I. Lênin đã xây dựng
một hệ thống lý luận mang tính nguyên tắc cho các đảng
mácxít kiểu mới của giai cấp cơng nhân. Đó là những lý luận
về chun chính vơ sản; về chính đảng kiểu mới; về liên minh
cơng – nông; về sự chuyển biến cách mạng dân chủ tư sản
kiểu mới lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.

11


- Sau Cách mạng Tháng Mười Nga: Với yêu cầu của công
cuộc xây dựng chế độ mới, I. Lênin phân tích và làm rõ nội
dung, bản chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; về
mối quan hệ giữa phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc với
phong trào đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân; về
những vấn đề mang tính quy luật của sự nghiệp cải tạo xã hội
chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội; về vai trò của quần
chúng,…
- Do cống hiến to lớn của V.I. Lênin đối với sự phát triển

lý luận của chủ nghĩa Mác, mà chủ nghĩa Mác đã phát triển
thành chủ nghĩa Mác – Lênin.
c.Sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa
học từ sau khi V.I. Lênin từ trần
 Đảng Cộng sản Liên Xô và các Đảng Cộng sản khác
trên thế giới
- Hơn 80 năm đã trôi qua kể từ sau khi V.I. Lênin từ trần,
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã trải qua
nhiều thử thách to lớn. Các Đảng Cộng sản đã bảo vệ, phát
triển sáng tạo những nguyên lý, những luận điểm có tính
ngun tắc của chủ nghĩa xã hội khoa học trong hoàn cảnh
lịch sử mới và điều kiện cụ thể của mỗi nước.
-

Dựa vào sự tổng kết, kinh nghiệm của nước mình, các

Đảng Cộng sản đã đóng góp vào các vấn đề cấp bách của thời
đại, vạch ra những vấn đề mang tính quy luật của cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, cũng như các vấn đề của quá trình cách mạng thế giới.

12


- Trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận của
chủ nghĩa xã hội khoa học nên một sự thật không thể phủ
nhận là Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em trong hệ
thống xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu to lớn
trên nhiều mặt của đời sống xã hội. Trong đó thắng lợi vĩ đại
nhất là đã đưa nhân loại thốt khỏi thảm họa phát xít, là tiền

đề quan trọng nhất dẫn đến sự tan rã của chủ nghĩa thực dân
cũ và mới, là sự hình thành và phát triển, lớn mạnh của hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới, trở thành lực lượng nịng cốt
trong cuộc đấu tranh vì các mục tiêu của thời đại ngày nay
trong suốt mấy thập kỷ qua.
- Tuy nhiên, từ những năm 80 về sau, nhiều Đảng mắc
phải nhiều sai lầm, khuyết điểm, trong đó có vấn đề nhận
thức. Đó là sự chậm trễ phát triển lý luận; lý luận không theo
kịp thực tiễn, lạc hậu nhưng lại chỉ đạo thực tiễn,…Trong cải
tổ, các đảng cũng lại phạm tiếp sai lầm trong nhận thức. Đó là
từ bỏ chủ nghĩa xã hội khoa học, thực hiện đa nguyên chính
trị và sự tồn tại đa đảng đối lập,… đã làm cho chủ nghĩa xã
hội hiện thực ở một số nước sụp đổ, tạo thế bất lợi cho phong
trào cộng sản. Những tổn thất đó hồn tồn không phải là do
sai lầm của chủ nghĩa xã hội khoa học.
 Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam với
sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học Đảng
Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện cũng đã vận dụng sáng tạo các nguyên lý của chủ
nghĩa xã hội khoa học, những bài học kinh nghiệm của các
đảng anh em, của chính bản thân cách mạng Việt Nam vào
hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
13


tưởng Hồ Chí Minh đã và đang thực sự là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng nước ta trước kia,
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa hiện nay.
 Những đóng góp, bổ sung và phát triển cũng như sự

vận dụng sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng ta có thể tóm tắt trên một số vấn đề cơ bản
sau:
- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một
tính quy luật của cách mạng Việt Nam, trong điều kiện thời
đại hiện nay.
-

Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi

mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trung tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị, đảm bảo giữ vững sự ổn định
chính trị, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để đổi mới và
phát triển kinh tế, xã hội
- Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tăng cường vai trò quản lý của Nhà
nước. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng,
phát triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội.
Đây được xem như một nội dung cơ bản, thể hiện sự ưu việt
của xã hội xã hội chủ nghĩa. Xây dựng phát triển kinh tế phải
đi đơi với giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đi đơi với
bảo vệ môi trường sinh thái
- Mở rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
phát huy sức mạnh của mọi giai cấp và tầng lớp nhân dân,
mọi thành phần dân tộc và tôn giáo, mọi công dân Việt Nam ở
14


trong nước hay ở nước ngoài, tạo cơ sở xã hội rộng lớn và
thống nhất cho sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới

- Tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của
nhân dân thế giới, khai thác mọi khả năng có thể hợp tác
nhằm mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại
- Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam – nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm
thắng lợi của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và q
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khâu then chốt để đảm
bảo tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là phải coi trọng
công tác xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng
viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

15


CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA CỦA VIỆC VẬN DỤNG CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI KHOA HỌC

 Về mặt lý luận:
Trong tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp
như: sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và
các nước Đông Âu, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội thực hiện âm
mưu “diễn biến hịa bình”, khơng ít người nghi ngờ hoặc phủ
nhận vai trò của chủ nghĩa xã hội khoa học đối với cải tạo
thực tiễn; vì vậy, việc nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học
có ý nghĩa lý luận to lớn là:
- Chủ nghĩa xã hội khoa học trang bị những nhận thức
chính trị – xã hội cho Đảng Cộng sản, Nhà nước, cho giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động trong q trình bảo vệ và

xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Học thuyết
Mác không dừng lại ở chỗ giải thích thế giới mà cịn nhằm cải
16


tạo thế giới. Học thuyết về cải tạo thế giới mà chủ nghĩa Mác
– Lênin thể hiện rõ và trực tiếp nhất là chủ nghĩa xã hội khoa
học.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học là vũ khí sắc bén trong cuộc
đấu tranh chống các học thuyết phản động, phi mácxít.
 Về mặt thực tiễn:
Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong những cơ sở lý
luận và phương pháp luận của nhiều khoa học xã hội chuyên
ngành, đồng thời là cơ sở lý luận giúp cho các Đảng Cộng sản
và công nhân quốc tế: xác định con đường đi, định hướng
hành động đúng đắn cho đường lối chiến lược, sách lược,
chính sách phù hợp với quy luật phát triển khách quan. Do đó,
muốn xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội phải vận dụng
trung thành và phát triển sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học.
Với mục tiêu đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý trung, cao
cấp cho hệ thống chính trị, cán bộ lãnh đạo chủ chốt của các
đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước, bài
giảng không nên quá sa đà vào những kiến thức hàn lâm kinh
điển, mà cần lồng ghép những vấn đề, tình huống thực tiễn
nóng hổi khi phân tích những điểm mới về dân chủ XHCN
trong các văn kiện Đại hội XIII. Qua đó giúp học viên liên hệ
thực tế, đánh giá khách quan quá trình thực hiện dân chủ ở
địa phương, đơn vị, bộ ngành và trên phạm vi cả nước; phân
tích, đánh giá, chia sẻ những đề xuất, kiến nghị phù hợp để
phát huy điểm mạnh, khắc phục những khó khăn, bất cập

trong thực thi dân chủ; phê phán, đấu tranh chống lại những

17


quan điểm, hành vi sai trái, lệch lạc về dân chủ, dân chủ
XHCN...
Đặc biệt, giảng viên cần giúp học viên nhận thức được
nội dung, ý nghĩa của mối quan hệ mới được bổ sung tại Đại
hội XIII - mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường
pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội; khẳng định dân chủ, kỷ
cương, pháp chế XHCN không chỉ là những vấn đề quan trọng
trong các đặc trưng của CNXH, các phương hướng xây dựng,
phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH mà còn là
vấn đề cơ bản, cốt lõi phản ánh quy luật vận động khách
quan biện chứng của cách mạng Việt Nam thời kỳ quá độ
lên CNXH. Hơn thế nữa, qua đó, giúp học viên nhận thức rõ,
những nhận thức mới về dân chủ XHCN là sự kiên định, vận
dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân chủ XHCN, sự tổng kết, đúc rút kinh nghiệm
lịch sử cách mạng Việt Nam, nhất là từ kinh nghiệm thực tiễn
đổi mới đất nước và sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những giá
trị tinh hoa, tiến bộ về dân chủ trong lịch sử nhân loại, nhất là
các giá trị văn minh chính trị, dân chủ của thế giới đương đại.
Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học cịn có ý
nghĩa lý luận là: trang bị những nhận thức chính trị – xã hội
(như đối tượng, chức năng, nhiệm vụ và phương pháp của chủ
nghĩa xã hội khoa học đã nêu trên) cho đảng cộng sản, nhà
nước và nhân dân lao động trong quá trình bảo vệ và xây
dựng chủ nghĩa xã hội… Vì thế, các nhà kinh điển Mác-Lênin

có lý khi xác định rằng, chủ nghĩa xã hội khoa học là vũ khí lý
luận của giai cấp cơng nhân hiện đại và đảng của nó để thực
hiện q trình giải phóng nhân loại và giải phóng bản thân
18


mình. Cũng như triết học và kinh tế chính trị học Mác- Lênin,
chủ nghĩa xã hội khoa học không chỉ giải thích thế giới mà căn
bản là ở chỗ cải tạo thế giới (cả tự nhiên, xã hội và bản thân
con người) theo hướng tiến bộ, văn minh.
Đội ngũ trí thức và thế hệ trẻ nước ta hiện nay là những
lực lượng xã hội có trí tuệ, có nhiều khả năng và tâm huyết
trong quá trình cải tạo và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam. Nếu chỉ thuần tuý chú trọng về khoa học và công
nghệ, phi chính trị, hoặc mơ hồ về chính trị và vi phạm pháp
luật, họ càng khơng thể góp tài góp sức xây dựng Tổ quốc của
mình.
Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học chính là
việc được trang bị trực tiếp nhất về ý thức chính trị – xã hội,
lập trường tư tưởng chính trị và bản lĩnh cho mỗi cán bộ, đảng
viên và mọi công dân Việt Nam góp phần thực hiện thắng lợi
sự nghiệp đổi mới, định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng đề
ra.
Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học cũng làm
cho ta có căn cứ nhận thức khoa học để ln cảnh giác,
phân tích đúng và đấu tranh chống lại những nhận thức sai
lệch, những tuyên truyền chống phá của chủ nghĩa đế quốc
và bọn phản động đối với Đảng ta, Nhà nước, chế độ ta;
chống chủ nghĩa xã hội, đi ngược lại xu thế và lợi ích của nhân
dân, dân tộc và nhân loại tiến bộ.

Về mặt thực tiễn, bất kỳ một lý thuyết khoa học nào, đặc
biệt là các khoa học xã hội, bao giờ cũng có khoảng cách nhất
định so với thực tiễn, nhất là những dự báo khoa học có tính

19



×