Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tl tthcm quan điểm hồ chí minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội và phương hướng vận dụng trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.95 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh đã ý thức được rõ
ràng giá trị của chủ nghĩa xã hội về mặt
lý luận là quan trọng, nhưng vấn đề
quan trọng hơn là tìm ra con đường để
thực hiện những giá trị này. Do vậy,
mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và
mục tiêu phấn đấu của Người là một, đó
là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc
cho nhân dân; đó là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hồn tồn tự do, đồng bào ta ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Đó cũng chính là mục tiêu tổng quát
theo cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về
chủ nghĩa xã hội. Thơng qua q trình đề ra các mục tiêu đó, Chủ nghĩa xã
hội được thể hiện rõ rệt đóng vai trị trong việc thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích
thiết yếu của người lao động theo các nấc thang từ thấp đến cao, tạo ra tính
hấp dẫn, năng động của chế độ xã hội mới. Bên cạnh đó, ta càng thấy được
Nét độc đáo trong phong cách tư duy biện chứng Hồ Chí Minh là chỗ bên
cạnh việc chỉ ra các nguồn động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội, Người
còn lưu ý, cảnh báo và ngăn ngừa các yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn năng
lượng vốn có của chủ nghĩa xã hội, làm cho chủ nghĩa xã hội trở nên trì trệ,
xơ cứng, khơng có sức hấp dẫn, đó là tham ơ, lãng phí, quan liêu... mà Người
gọi đó là “giặc nội xâm”. Do vậy, ta cùng đi tìm hiểu quan điểm mục tiêu của
Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội và những phương
hướng vận dụng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.


1



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ MỤC TIÊU,
ĐỘNG LỰC CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ MỤC TIÊU CỦA CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI:
Vào những năm hai mươi thế kỷ XX, Hồ Chí Minh xác
định mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội là đảm bảo cho mọi
người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình
đẳng, bác ái, đồn kết, ấm no, việc làm cho mọi người và
niềm vui, hồ bình, hạnh phúc cho mọi người. Nghĩa là, chủ
nghĩa xã hội hướng tới bảo đảm các giá trị làm người chân
chính trong q trình phát triển các quan hệ xã hội mang
đúng bản chất người cao quý.
Vào những năm năm mươi, sáu mươi, khi miền Bắc trực
tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người xác định rõ mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội là thoả mãn các nhu cầu sinh tồn và
phát triển của con người: chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm
làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi
người có cơng ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh
phúc; hoặc ở mức độ khái quát cao hơn: mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống
của nhân dân, cả đời sống vật chất và cả đời sống tinh thần.
Đây là cách diễn đạt Người thường dùng nhất.
Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và
mục tiêu phấn đấu của Người là một, đó là độc lập, tự do cho
dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
2



bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đó
cũng chính là mục tiêu tổng quát theo cách diễn đạt của Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cũng chính là khát vọng,
mong muốn cháy bỏng mà Hồ Chí Minh hy sinh cả cuộc đời
mình để phấn đấu vươn tới: xây dựng một nước Việt Nam hồ
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của thế giới.
Theo Hồ Chí Minh, hiểu mục đích của chủ nghĩa xã hội
nghĩa là nắm bắt nội dung cốt lõi con đường lựa chọn và bản
chất thực tế xã hội mà chúng ta phấn đấu xây dựng. Tiếp cận
chủ nghĩa xã hội về phương diện mục đích là một nét đặc sắc,
thể hiện phong cách và năng lực tư duy lý luận khái quát của
Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có nhiều cách đề cập mục đích của
chủ nghĩa xã hội. Có khi Người trả lời một cách trực tiếp: "Mục
đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản và dễ
hiểu là:
 Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động".
 Hay "mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng
nâng cao mức sống của nhân dân".
 Hoặc Người diễn giải mục đích tổng quát này thành các
tiêu chí cụ thể: "Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ
ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm
đau có thuốc, già khơng lao động được thì nghỉ, những phong
tục tập qn khơng tốt dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội

3



ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày
càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội".
 Nhiều khi Người nói một cách gián tiếp, khơng nhắc
đến chủ nghĩa xã hội, nhưng xét về bản chất, đó cũng chính là
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội theo quan niệm của Người. Kết
thúc bản Tài liệu tuyệt đối bí mật (sau gọi là Di chúc), Hồ Chí
Minh viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tơi là: Tồn Đảng,
tồn dân, toàn quân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một
nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu
mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế
giới”.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã xác định các mục tiêu cụ
thể của chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
a.

Mục tiêu chính trị:

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, độ chính trị phải do nhân dân lao động làm chủ.
Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước có hai chức
năng: dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của
nhân dân. Hai chức năng đó khơng tách rời nhau, mà luôn
luôn đi đôi với nhau. Một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải
phát huy quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của nhân dân:
mặt khác. tại yêu cầu phải chuyên chính với thiểu số phản
động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ xã hội
chủ nghĩa.
Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Hồ Chí Minh

chỉ rõ con đường và biện pháp thực hiện các hình thức dân
4


chủ trực tiếp, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội của quần chúng , củng cố các hình thức dân
chủ đại diện, tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của các
cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, xử lý và phân định
rõ chức năng của chúng.
b.

Mục tiêu kinh tế:

Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội
chỉ được bảo đảm và đứng vững trên cơ sở một nền kinh tế
vững mạnh.


Nền kinh tế đó là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với

công - nông nghiệp hiện đại khoa học - kỹ thuật tiên tiến,
cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được bỏ dần, đời sống vật
chất của nhân dân ngày càng được cải thiện.
 Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát triển
tồn diện các ngành, trong đó những ngành chủ yếu là công
nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó "cơng nghiệp
và nơng nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà".
 Kết hợp các loại lợi ích kinh tế là vấn đề được Hồ Chí
Minh rất quan tâm. Người đặc biệt nhấn mạnh: chế độ khoán
là một trong những hình thức của sự kết hợp lợi ích kinh tế.

c.Mục tiêu văn hố-xã hội:
Theo Hồ Chí Minh, văn hóa là một mục tiêu cơ bản của
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh
hoạt tinh thần của xã hội đó là xóa nạn mù chữ, xây dựng
phát triển giáo dục, nâng cao dân trí xây dựng, phát triển văn
hóa nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới, thực hành vệ sinh

5


phịng bệnh, giải tri lành mạnh, bài trừ mê tín dị đoan, khắc
phục phong tục tập quán lạc hậu.
 Về bản chất của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Người khẳng định: "phải xã hội chu nghĩa về nội dung".
Để có một nền văn hóa như thế ta phải phát huy vốn cũ quý
báu của dân tộc, đồng thời học tập văn hóa tiên tiến của thế
giới.
 Phương châm xây dựng nền văn hóa mới là: dân tộc,
khoa học, đại chúng. Hồ Chí Minh nhắc nhở phải làm cho
phong trào văn hóa có bề rộng, đồng thời phải có bề sâu.
Trong khi đáp ứng mặt giải trí thì không được xem nhẹ nâng
cao tri thức của quần chúng, đồng thời Người luôn luôn nhắc
nhở phải làm cho văn hóa gắn liền với lao động sản xuất.
Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng
xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người. Bởi lẽ, mục tiêu cao
nhất, động lực quyết định nhất công cuộc xây dựng chính là
con người.
 Trong lý luận xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, Hồ
Chí Minh quan tâm trước hết mặt tư tưởng. Người cho rằng:
Muốn có con người xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xã hội

chủ nghĩa, tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở mỗi con người là kết
quả của việc học tập, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác Lênin, nâng cao lòng yêu nước, u chủ nghĩa xã hội.
 Hồ Chí Minh ln ln nhấn mạnh đến trau dồi, rèn
luyện đạo đức cách mạng: đồng thời Người cũng rất quan tâm
đến mặt tài năng, luôn tạo điều kiện để mỗi người rèn luyện
tài năng, đem tài năng cống hiến cho xã hội . Tuy vậy, Hồ Chí
6


Minh luôn gắn tài năng với đạo đức. Theo Người. "có tài mà
khơng có đức là hỏng": dĩ nhiên, đức phải đi đơi với tài, nếu
khơng có tài thi khơng thể làm việc được.
Như vậy, Người luôn gắn phẩm chất chính trị với
trình độ học vấn, chun mơn, nghiệp vụ, trong đó
"chính trị là tinh thần, chun mơn là thể xác" Hai mặt
đó gắn bó thống nhất trong một con người. Do vậy, tất
cả mọi người đều phải luôn luôn trau dồi đạo đức và tài
năng, vừa có đức vừa có tài, vừa "hồng" vừa "chun".
Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, phát triển và
ngày càng hoàn thiện dần cùng với sự phát triển tư duy lý
luận về chủ nghĩa xã hội nói chung.
2.

QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘNG LỰC CỦA

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI:
Các động lực của chủ nghĩa xã hội
 Theo Hồ Chí Minh, những động lực biểu hiện ở các
phương diện: vật chất và tinh thần; nội sinh và ngoại sinh,

động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, là nhân
dân lao động. Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến lợi ích
chính đáng, thiết thân của họ; đồng thời chăm lo bồi dưỡng
sức dân. Đó là lợi ích của nhân dân và từng cá nhân.
 Nói con người là động lực của chủ nghĩa xã hội, hơn
nữa là động lực quan trọng nhất. Hồ Chí Minh đã nhận thấy ở
động lực này có sự kết hợp giữa cá nhân với xã hội. Người cho
rằng, khơng có chế độ xã hội nào coi trọng lợi ích chính đáng
của cá nhân con người bằng chế độ xã hội chủ nghĩa. Truyền
7


thống yêu nước của dân tộc, sự đoàn kết cộng đồng, sức lao
động sáng tạo của nhân dân, đó là sức mạnh tổng hợp tạo
nên động lực quan trọng của chủ nghĩa xã hội
 Nhà nước đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện chức năng quản lý xã
hội, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi.
Người đặc biệt quan tâm đến hiệu lực của tổ chức, bộ máy,
tính nghiêm minh của kỷ luật, pháp luật, sự trong sạch, liêm
khiết của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ Trung ương tới
địa phương.
 Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển
kinh tế, sản xuất, kinh doanh, làm cho mọi người, mọi nhà trở
nên giàu có, ích quốc lợi dân, gắn liền kinh tế với kỹ thuật,
kinh tế với xã hội.
 Cùng với động lực kinh tế. Hồ Chí Minh cũng quan tâm
tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần
không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội.
 Ngồi các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh, phải

kết hợp được với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc
tế, chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế
của giai cấp công nhân, phải sử dụng tốt những thành quả
khoa học - kỹ thuật thế giới...
Tất cả những nhân tố động lực nêu trên là những nguồn
lực tiềm tàng của sự phát triển. Làm thế nào để những khả
năng, năng lực tiềm tàng đó trở thành sức mạnh và khơng
ngừng phát triển. Hồ Chí Minh nhận thấy sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của
8


chủ nghĩa xã hội. Đây là hạt nhân trong hệ động lực của chủ
nghĩa xã hội.

9


CHƯƠNG 2: PHƯƠNG HƯỚNG VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG VÀ
BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY

Đảng đề ra, cần quán triệt, tập trung thực hiện một số
vấn đề sau:
 Một là, nắm vững tư tưởng chủ đạo của Đại hội, xác
định tâm thế giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và
BVTQ. Nếu so với chủ đề của Đại hội XII, cho thấy: Tuy cùng
có 5 thành tố, nhưng nội dung các thành tố nêu trong chủ đề
của Đại hội XIII đã có sự kế thừa, bổ sung, phát triển hơn.
BVTQ được xác định và đặt trong mối liên hệ mật thiết với 4
thành tố khác, nhưng được bổ sung, gắn với “xây dựng” để

trở thành một thành tố hoàn chỉnh: “xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định”… Rõ
ràng, tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt của Đại hội đã chủ trương
gắn kết chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược với nhau; cả hai đều
phải phấn đấu thực hiện cho được độ “vững chắc”, “giữ vững”
được “mơi trường hịa bình, ổn định” cho đất nước đạt đến
mục tiêu mang tầm nhìn và định hướng chiến lược: “phấn đấu
10


đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa”… Nhận thức rõ tư tưởng này,
bất kỳ chủ thể lãnh đạo, quản lý nào của đất nước ta cũng
phải quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện đồng thời, cụ
thể có hiệu quả cả nhiệm vụ xây dựng và BVTQ theo chức
năng, nhiệm vụ của ngành, lĩnh vực mà mình đảm nhiệm.
 Hai là, coi trọng gắn kết chặt chẽ giữa mọi nhiệm vụ
phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh. Trong
khi thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, các chủ thể
quản lý nhà nước này cần quán triệt và tổ chức thực hiện chủ
trương phát triển kinh tế gắn với quốc phòng, an ninh mà Đại
hội xác định. Cụ thể: Khi cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước
phải theo hướng tập trung vào những doanh nghiệp then
chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh. Khi đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải coi trọng phát triển
cơng nghiệp quốc phịng, an ninh kết hợp phục vụ dân sinh.
Trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển phải kết
hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ
quyền biển, đảo, tài ngun, mơi trường biển; phịng, chống
thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, thích ứng với biến đổi khí hậu,

nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo; nâng cao hiệu
lực, hiệu quả thực thi pháp luật trên biển, bảo vệ chủ quyền
biển, đảo. Trong khi hoàn thiện, đồng bộ thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), phải coi trọng xử
lý tốt những bất cập của cơ chế thị trường, bảo đảm phúc lợi
và an sinh xã hội, quốc phịng, an ninh và bảo vệ mơi trường
sinh thái.

11


 Ba là, phát huy mạnh mẽ vai trò của giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ đối với sự nghiệp quốc phòng, an
ninh, BVTQ. Các chủ thể trên lĩnh vực này cần tập trung quán
triệt và tổ chức thực hiện tốt những phương hướng, nhiệm vụ
mà Đại hội XIII đã xác định, đó là: Chú trọng hơn giáo dục đạo
đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất
là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền
thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các
tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ… khơi dậy khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Có chiến lược phát triển khoa
học và cơng nghệ phù hợp với xu thế chung của thế giới và
điều kiện đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và BVTQ trong
giai đoạn mới, thích ứng với Cách mạng cơng nghiệp lần thứ
tư. Tập trung cơ cấu lại các chương trình nghiên cứu khoa học
và công nghệ theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm,
lấy phục vụ hiệu quả sự nghiệp xây dựng, BVTQ làm mục tiêu.
Ưu tiên chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công
nghệ vào các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, con người,

quốc phòng, an ninh trọng yếu. Gắn hợp tác quốc tế về khoa
học và công nghệ với mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội,
quốc phòng và an ninh.
 Bốn là, xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con
người, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp
xây dựng và BVTQ. Để đưa Nghị quyết Đại hội XIII vào cuộc
sống, các tổ chức đảng, chính quyền nhà nước, các đồn thể
chính trị, xã hội từ trung ương đến cơ sở, cần ra sức quán triệt
và tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, nhiệm vụ quan trọng
12


như: Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc,
ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là
thanh niên; tạo động lực cho thanh niên xung kích phát huy
vai trị trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ. Kịp thời tôn vinh,
khen thưởng những doanh nhân có nhiều đóng góp xứng đáng
cho sự nghiệp xây dựng và BVTQ. Động viên cựu chiến binh,
công an hưu trí phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ
Hồ” và Công an nhân dân Việt Nam cách mạng trong xây
dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN,
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Vận động, đoàn kết, tập
hợp các tổ chức tơn giáo, chức sắc, tín đồ đóng góp tích cực
cho cơng cuộc xây dựng và BVTQ. Có chính sách thu hút
nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngồi đóng góp tích cực
cho sự nghiệp xây dựng và BVTQ. Tăng cường vai trị nịng cốt
chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị-xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập
hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu
nước. Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn

kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây
dựng và BVTQ.
 Năm là, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ
của nhân dân, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp xây
dựng và BVTQ.
Trong khi thực hiện các nhiệm vụ này trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội để xây dựng và phát triển đất nước, các
tổ chức chính trị, xã hội, đồn thể của đất nước, cần lưu ý tới
thực hiện nhiệm vụ BVTQ mà Đại hội XIII đã xác định. Cụ thể:
13


Đề cao vai trị chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong
tồn bộ q trình xây dựng và BVTQ. Phát huy tính tích cực
chính trị-xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân
tham gia… xây dựng nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân
dân, ngoại giao nhân dân gắn với thế trận quốc phịng tồn
dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân. Tiếp tục
xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại,
cơng bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân, bảo vệ chế
độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Trong xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, cần tập trung đổi mới nội dung, phương thức tuyên
truyền, vận động, sử dụng có hiệu quả các phương tiện thông
tin đại chúng, mạng xã hội theo hướng thiết thực, tăng cường
đồng thuận, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước và chế độ XHCN, phát huy sức mạnh to lớn của khối đại

đoàn kết toàn dân tộc trong phát triển kinh tế-xã hội và bảo
đảm quốc phòng, an ninh. Trong khi triển khai đồng bộ, sáng
tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, cần quan tâm đến các mục
tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh. Trên cơ sở vừa hợp
tác, vừa đấu tranh, tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động đối
ngoại và hội nhập quốc tế vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Chủ động, tích cực tham
gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy
mới về BVTQ. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi
âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào
14


công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất
nước.
 Sáu là, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc XHCN hướng đến phục vụ đắc lực cho sự nghiệp
đổi mới, xây dựng đất nước giàu mạnh. Trong khi đòi hỏi mọi
nhiệm vụ xây dựng đất nước phải gắn kết chặt chẽ với nhiệm
vụ BVTQ, thì đồng thời các nhiệm vụ BVTQ cũng phải hướng
đến thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của xây dựng đất nước.
Ví như: Bên cạnh tập trung các nhiệm vụ bảo vệ các mục tiêu
tối quan trọng là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, thì phải chú ý tới bảo vệ
nền văn hóa và lợi ích quốc gia-dân tộc; giữ vững mơi trường
hịa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con
người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh

để phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
 Vận dụng và phát huy trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
 Kiên định đường lối, chủ trương lãnh đạo của Ðảng Nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam:
Ngày nay, sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của
Ðảng, đất nước ta đã có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín
lớn đối với các nước trong khu vực và trên trường quốc tế. Tuy
nhiên, tình hình thế giới và khu vực vẫn tiềm ẩn nhiều nguy
cơ, thách thức khó dự báo. Thực tế đó địi hỏi tồn Ðảng, toàn
dân và toàn quân ta phải thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả

15


các nghị quyết, chỉ thị của Ðảng, trọng tâm là Nghị quyết T.Ư
8 khóa XI về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới;
Nghị quyết số 24-NQ/TW và Kết luận số 31-KL/TW ngày 16-42018 của Bộ Chính trị khóa XII về Chiến lược Quốc phịng và
Chiến lược Qn sự Việt Nam... Với vai trò nòng cốt trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc, quân đội phải luôn giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ðảng,
sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước; tiếp tục xây
dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, phấn đấu đến năm 2030 một số
quân, binh chủng được xây dựng hiện đại và từ năm 2030,
xây dựng quân đội hiện đại. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ Ðảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
 Phát huy sức mạnh của lực lượng binh chủng hợp
thành, kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng tại chỗ với lực lượng cơ

động, xây dựng thế trận phản công vững chắc
Trong giai đoạn hiện nay, sự biến động của tình hình thế
giới, khu vực đặt ra những yêu cầu mới đối với nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Do vậy, cần coi trọng xây dựng bộ
đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ cân đối,
đồng bộ, có chất lượng tổng hợp, trình độ, sức mạnh và khả
năng phối hợp tác chiến cao. Toàn quân cần tranh thủ đẩy
nhanh lộ trình hiện đại hóa qn đội, đáp ứng u cầu, nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc và đóng góp tích cực cho hịa bình, ổn định
khu vực và thế giới; tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Ðề
án tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới
16


(giai đoạn 2020 - 2025), điều chỉnh tổ chức, biên chế bảo đảm
"tinh, gọn, mạnh". Cùng với đó, tiếp tục phát huy vai trò nòng
cốt của quân đội trong xây dựng nền quốc phịng tồn dân,
thực hiện tốt Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 22-9-2008 của
Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương thành khu vực phịng thủ vững chắc trong
tình hình mới và Kết luận số 64-KL/TW, ngày 30-10-2019 của
Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW.
Ðồng thời, duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, phát
huy tốt vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn
dân vững mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là lực lượng
nòng cốt trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ tính
mạng, tài sản của nhân dân... làm đẹp thêm hình ảnh "Bộ đội
Cụ Hồ". Ðây là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng, nhằm
tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phịng, góp phần thực
hiện thành cơng sự nghiệp đổi mới, xây dựng, bảo vệ vững

chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
 Vận dụng nghệ thuật chiến dịch phản cơng linh hoạt,
sáng tạo, chuyển hóa thế trận đúng thời cơ
Bài học về vận dụng nghệ thuật chiến dịch phản cơng
vẫn cịn ngun giá trị đối với quân đội ta hiện nay. Với tiềm
lực quốc phòng và an ninh được tăng cường; thế trận lòng dân
được chú trọng; thế trận quốc phịng tồn dân và thế trận an
ninh nhân dân được củng cố, quân và dân ta có đủ khả năng
để chủ động triển khai và thực hành những địn phản cơng,
tiến cơng, phát huy nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều
kiện tác chiến hiện đại, làm thất bại mọi mưu đồ gây chiến
tranh xâm lược. Ðể thực hiện điều đó, quân đội phải làm tốt
17


chức năng tham mưu với Ðảng, Nhà nước, chủ động xây dựng
các phương án, đối sách ngăn ngừa, hóa giải nguy cơ chiến
tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất
lượng huấn luyện, giáo dục và đào tạo theo tinh thần Kết luận
số 60-KL/QUTW, ngày 18-1-2019 của Quân ủy T.Ư về tiếp tục
thực hiện Nghị quyết số 765-NQ/QUTW ngày 20-12-2012 về
nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013 - 2020 và
những năm tiếp theo. Thực hiện tốt phương châm huấn luyện
"cơ bản, thiết thực, vững chắc"; đổi mới nội dung, hình thức,
phương pháp huấn luyện, diễn tập, coi trọng huấn luyện đồng
bộ và chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu. Phát huy thành tựu
của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa vào nghiên cứu
phát triển nghệ thuật quân sự, khoa học, công nghệ qn sự,
cơng nghiệp quốc phịng, làm chủ vũ khí, trang bị thế hệ mới,
hiện đại, nâng cao sức mạnh tổng hợp, sẵn sàng bảo vệ vững

chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.
 Phát huy tinh thần đồn kết quốc tế, nhất là sự phối
hợp chiến đấu giữa quân và dân Việt Nam – Lào
Hiện nay, công tác đối ngoại quốc phòng cần nhất quán
chủ trương vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kiên định mục tiêu,
nguyên tắc chiến lược; vận dụng linh hoạt, mềm dẻo về sách
lược theo phương châm "Dĩ bất biến, ứng vạn biến". Toàn
quân cần tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại,
đường lối quốc phòng, quân sự của Ðảng, nhất là Nghị quyết
số 806-NQ/QUTW, ngày 31-12-2013 của Quân ủy T.Ư "Về hội
nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và
những năm tiếp theo". Trong điều kiện đối tượng, đối tác đan
xen, cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác song phương, nâng tầm
18


đối ngoại đa phương theo Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 8-8-2018
của Ban Bí thư T.Ư Ðảng, ưu tiên quan hệ với các nước láng
giềng, các nước trong khu vực ASEAN; cân bằng quan hệ với
các nước lớn, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước có tiềm
năng, gia tăng mức độ đan xen lợi ích chiến lược với các nước.
Tích cực tham gia các cơ chế hợp tác quốc phịng đa phương
trong khn khổ ASEAN và do ASEAN giữ vai trị chủ đạo; tích
cực tham gia hoạt động gìn giữ hịa bình của Liên hợp quốc.
Chủ động tham mưu các phương án đấu tranh ngoại giao hiệu
quả, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

19




×