Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Tl xhhct nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên học viện báo chí và tuyên truyền ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.56 KB, 32 trang )

LỜI CẢM ƠN

Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy Đỗ Đức Long đã giúp đỡ và
hướng dẫn chúng em tận tình trong suốt thời gian học mơn Xã hội học Chính
trị, tạo cho chúng em những tiền đề, những kiến thức để tiếp cận vấn đề, phân
tích giải quyết vấn đề.
Do kinh nghiệm và kiến thức còn hạn chế, trong q trình hồn thành
bài tiểu luận và bài cá nhân khơng tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận
được ý kiến đóng góp từ thầy/ cơ trong khoa để bài tiểu luận của chúng em
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!


MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết
Trong giáo dục hệ đại học chính quy, bất kể ngành học hay chuyên
môn nào đều trang bị cho sinh viên kiến thức công tác giáo dục chính trị - tư
tưởng. Cơng tác chính trị - tư tưởng trong các nhà trường là một bộ phận cấu
thành của quá trình tổ chức và dạy học, đay là bước khởi đầu cũng như nền
móng để hình thành nhân cách, phẩm chất tốt đẹp cho sinh viên theo mục tiêu
giáo dục đó là “ Đào tạo co người Việt Nam phát triển tồn diện,có đạo đức,
tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách,phẩm chất
và năng lực của công dân,đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc”. Trong đó, tư tưởng về giáo dục ln có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc đối với sự nghiệp giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Về
phương pháp giáo dục, Hồ Chí Minh không để lại cho chúng ta một tác phẩm
chuyên khảo, một hệ thống lý luận hoàn chỉnh nào về phương pháp giáo dục,
nhưng qua những việc làm thiết thực như: Những bài viết ngắn gọn, súc tích,
những lời nói, quan điểm giáo dục của Người đã hàm chứa các phương pháp
giáo dục mẫu mực. Trong quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng Việt Nam nói


chung cũng như các vấn đề liên quan đến giáo dục nói riêng, Người ln xác
định nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn làm nguyên tắc cơ bản
cho việc xây dựng các phương pháp về giáo dục. Nguyên tắc này được Người
sử dụng xuyên suốt trong việc giáo dục cán bộ, đảng viên, thanh thiếu niên,
cơng nhân, nơng dân, bộ đội, trí thức, học sinh, sinh viên. . . trong suốt tiến
trình của cuộc cách mạng. Việc là cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho
sinh viên là việc vô cùng cần thiết, nhất là đối với sinh viên Học viện Báo chí
và Tun truyền – xun suốt q trình học tập cần có sự kết hợp giữa tư
tưởng chính trị, kiến thức xã hội. Vì vậy việc này càng trở nên quan trọng hơn
bao giờ hết. Tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện được thơng qua cơng
1


tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho sinh viên. Cơng tác này địi hỏi phải tiến
hành liên tục, thường xuyên và trở thành một trong những nội dung không thể
thiếu được trong các mặt của giáo dục của nhà trường nói chung và trường đại
học nói riêng nhằm tạo được sự liên kết và đặt nền móng quan trọng. Nhà
nước ta cũng rất tích cực trong việc đẩy mạnh nâng cao chất lượng công tác
giáo dục tư tưởng – chính trị thơng qua các hoạt động tun truyền qua nhiều
hình thức như : tổ chức thành cơng nhiều hội thi, cuộc thi như: Hội thi kể
chuyện về những điển hình tiên tiến học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh gắn với cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI); Cuộc thi Báo cáo viên giỏi; Cuộc thi nét đẹp
văn hóa cơng sở gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh… triển khai nhiều hội nghị học tập, quán triệt các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chuyên đề về
tư tưởng và tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh… Qua đó, góp
phần tuyên truyền sâu rộng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước nói chung đến với đông đảo cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp Nhân dân đồng thời nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng ở bộ phận giới trẻ hiện nay.

Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng có ý nghĩa quyết định đến việc xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, làm
cơ sở để nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của
Đảng và hiệu lực hiệu quả quản lý của Nhà nước. Vì vậy, để thực hiện có hiệu
quả cơng tác tác giáo dục chính trị, tư tưởng cần làm công tác chuẩn bị từ sớm
nhằm “ Mưa dầm thấm đất” từ thế hệ trẻ hiện nay là các học sinh, sinh viên.
Vận dụng, đổi mới và nâng cao chất lượng tổ chức quán triệt, học tập các chỉ
thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo hướng thiết thực, hiệu
quả, phù hợp với từng đối tượng; đa dạng hố hình thức giáo dục lý luận
chính trị trong Đảng và trong xã hội; tập trung tuyên truyền sâu rộng đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; coi trọng công
2


tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, giảng viên
kiêm chức; xây dựng đội ngũ giáo viên có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức và trí tuệ ngang tầm nhiệm vụ nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Việc nâng kiến thức chính trị - tư tưởng là trách nhiệm, nghĩa vụ mà
mỗi sinh viên phải trang bị. Việc cống hiến cho đất nước và xã hội là trách
nhiệm mà mỗi sinh viên cần nhận thức và phấn đấu hết mình để nâng cao
trình độ chun mơn của bản thân để hồn thành nhiệm vụ cống hiến cho xã
hội. Ngày nay, bộ phân giới trẻ có thái độ thờ ơ khơng coi trọng việc nâng cao
kiến thức chính trị - tư tưởng đây là một vấn đề rất đáng quan ngại. Sinh viên
là thế hệ mới tiếp nhận nền tri thức phong phú, trong người mang sứ mệnh
giúp đất nước phát triển nhưng khơng có nền móng về tư tưởng chính trị sẽ
dẫn đến quan điểm sai lệch điều này thật sự đáng quan ngại. Điều kiện tiên
quyết đó là sinh viên phải nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao
chất lượng cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng,tích cực rèn luyện học tập,. .
để trở thành một con người ưu tú. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng
đó, tơi đã tiến hành lựa chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục

chính trị - tư tưởng cho sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền ngày nay
”. Với mục tiêu làm làm rõ khái niệm Cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng,
hiệu quả của cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng và trên đó đánh vào nhận
thức của bộ phận sinh viên hiện nay để họ có thể nhận ra ý nghĩa quan trọng
của công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, trên cơ sở đó tìm ra giải phát phù
hợp để nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên
Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

3


NỘI DUNG
I. Cở sở lý luận
1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích và hệ thống hóa những vẫn đề lý luận và thực tiễn
trong nâng cao chất lượng giáo dục chính trị - tư tưởng cho sinh viên việc
Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở đó đề
xuất một số quan điểm và giải pháp để nâng cao chất lượng công tác giáo dục
chính trị - tư tưởng cho sinh viên nói chung và sinh viên Học viện Báo chí và
Tun truyền nói riêng.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát,đánh giá thực trạng chất lượng cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên trong khuôn khổ Học viện Báo chí và Tun truyền.
- Hệ thống hóa, phân tích những vấn đề lý luận về chất lượng công tác
giáo dục chính trị - tư tưởng cho sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác
giáo dục chính trị - tư tưởng cho sinh viên nói chung và sinh viên Học viện
Báo chí và Tuyên truyền nói riêng.
3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
3. 1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng Chất lượng công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho sinh

viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền ngày nay
3. 2. Khách thể nghiên cứu
- Sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền ngày nay.
- Giảng viên phụ trách quản lý cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng
trong Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

4


- Hoạt động quản lý cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong Học
viện Báo chí và Tuyên truyền.
3. 3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: đề tài nghiên cứu trên khn khổ Học viện Báo
chí và Tuyên truyền
- Phạm vi thời gian : Tháng 1/2022 – tháng 3/2022.
4. Câu hỏi nghiên cứu
5. Giả thuyết nghiên cứu
Chất lượng cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho sinh viên Học
viện Báo chí và Tuyên truyền đã thực hiện tương đối tốt ở một số mặt nhưng
vẫn còn hạn chế. Khảo sát đúng thực trạng chất lượng cơng tác giáo dục chính
trị - tư tưởng, đề xuất được những giải pháp quản lý công tác giáo dục chính
trị - tư tưởng cho sinh viên ở Học viện Báo chí và Tun truyền.
6. Thiết kế bộ cơng cụ nghiên cứu (bảng phỏng vấn sâu)
BẢNG PHỎNG VẤN SÂU
Chào anh/chị!
Tôi là sinh viên khoa Xã hội học – Trường Học viện Báo chí và Tuyên
truyền. Nhằm phục vụ cho nghiên cứu “Nâng cao chất lượng cơng tác giáo
dục chính trị - tư tưởng cho sinh viên Học viện Báo chí và Tun truyền
ngày nay” tơi rất mong nhận được sự giúp đỡ của anh/chị. Rất mong anh/ chị
bớt chút thời gian tiếp nhận phỏng vấn sâu này.

Chúng tôi xin cam đoan, mọi thông tin mà anh/ chị cung cấp chỉ phục
vụ cho nghiên cứu và học tập. Sự trợ giúp thơng tin từ anh/ chị sẽ góp phần
thành cơng cho nghiên cứu này.
Xin chân thành cảm ơn!

5


A. THƠNG TIN CHUNG
B. Thực trạng chất lượng cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng của
sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
C. Nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho
sinh viên Học viện Báo chí va Tun truyền.
- Anh/chị có đề xuất, kiến nghị nào để nâng cao chất lượng cơng tác
giáo dục chính trị -tư tưởng cho sinh viên Học viện Báo chí và truyên
truyền?
Chân thành cảm ơn sự trợ giúp thông tin từ Anh/chị!

7. Thao tác khái niệm:
7. 1. Khái niệm Giáo dục :
Được hiểu từ 2 góc độ : vừa là hiện tượng xã hội, vừa là một hoạt động
của con người nhằm trang bị cho con người những tri thức về khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội và nhân văn. Giáo dục chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi
đặc điểm kinh tế xã hội của từng địa phương.
Giáo dục là q trình có mục đích xuất phát từ những yêu cầu của xã
hội, từ mong muốn của các nhà giáo dục dẫn dắt thế hệ trẻ vươn tới tri thức và
những chuẩn mực văn hóa, đạo đức, xã hội phù hợp với truyền thống dân tộc
và thời đại. Giáo dục như vậy đồng nghĩa với định hướng xã hội.
Giáo dục gắn liền với tự giáo dục, Giáo dục chỉ có hiệu quả khi mỗi
con người tự ý thức được mục dích cuộc sống và tích cực hoạt động vì cuộc

sống của bản thân mình, mọi tác động giáo dục được tiếp nhận theo nhu cầu
và ý thức của từng cá nhân.
Giáo dục là quá trình phức tạp và lâu dài được thực hiện trong suốt cả
cuộc đời con người, bắt đầu từ lúc ra đời và chỉ kết thúc khi con người mất đi.
Giáo dục gắn liền với dạy học, nhưng giáo dục và dạy học không đồng nhất.

6


Giáo dục và dạy học có cùng mục đich là hinfht hành và phát triển nhân cách,
nhưng chức năng trội của giáo dục là bồi dưỡng ý thức, thái độ và hành vi
cuộc sống, còn dạy học là bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng hoạt động sáng
tạo. Dạy học là q trình điều khiển được, cịn q trình giáo dục rất phức tạp
và khó kiểm sốt.
7. 2. Khái niệm Cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng:
Hiện nay, các thuật ngữ: “cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng”, “cơng
tác giáo dục chính trị tư tưởng”, “cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng”,
“cơng tác giáo dục chính trị”, “giáo dục chính trị- tư tưởng” được sử dụng
phổ biến trong các văn kiện của Đảng và nhiều tài liệu, sách, báo trong nước
và nước ngồi. Đó là một thuật ngữ được nhiều môn khoa học sử dụng như:
xây dựng Đảng, chính | trị học, giáo dục học, tâm lý học quân sự. . . Tuỳ theo
tính chất, đặc điểm, mục đích, u cầu nghiên cứu mà có cách tiếp cận khác
nhau.
Trước những năm 1990, một số lượng lớn các cơng trình, tài liệu về
cơng tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô được được dịch sang tiếng
Việt, như: “Phương pháp luận công tác tư tưởng” của D. A. Vơn-cơ-gơ-nốp
[1900, “Hình thành niềm tin cho thế hệ trẻ” của V. A. Xu-khon-lin-xki [1950,
“Hoạt động tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô” của XIXu-rơ-ni-tren-cô. . .
Nhiều công trình sử dụng thuật ngữ giáo dục chính trị - tư tưởng để chỉ hoạt
động truyền bá nội dung về chính trị, nhưng chưa luận bàn về khái niệm.

Cuốn “Từ điển bách khoa quân sự Xô - Viết” (tiếng Nga) đã đưa ra một định
nghĩa: “Giáo dục chính trị - tư tưởng trong các lực lượng vũ trang là hệ thống
các biện pháp nhằm hình thành cho sĩ quan và chiến sĩ có đủ trình độ tư tưởng
và sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ chiến đấu để giành chiến thắng trong
chiến tranh. Cuốn “Đảng lãnh đạo quân đội của quân đội Liên Xô, Cu-ba,
CHDC Đức, Triều Tiên” khẳng định, một trong những nhiệm vụ hàng đầu
của tổ chức Đảng và cơ quan chính trị các cấp trong quân đội các nước
7


XHCN đều phải giáo dục CNMLN, đường lối quan điểm của Đảng, “làm cho
các chiến sĩ trong công tác của họ tin tưởng tuyệt đối Đảng, vào những nghị
quyết của Đảng và trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, giáo dục bản chất
cách mạng của người lính xã hội chủ nghĩa, ý thức giai cấp, ý thức dân tộc và
tinh thần chiến đấu độc lập” [47, tr. 42].
Những năm gần đây, nước ta đã xuất hiện nhiều công trình của các tác
giả Trung Quốc hoặc của các tác gia Việt Nam nghiên cứu về công tác tư
tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc. . . Theo bản dịch tiếng Việt, các nhà
nghiên cứu Trung Quốc chỉ sử dụng một thuật ngữ duy nhất là cơng tác giáo
dục chính trị tư tưởng. Mặc dù chưa đưa ra khái niệm, nhưng các tác giả đã
chỉ ra những đặc trưng cơ bản của cơng tác này. Trong cuốn giáo trình “Cơng
tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới” của Cục cán bộ, Ban Tuyên huấn
Trung ương, Đảng Cộng sản Trung Quốc, các tác giả coi giáo dục niềm tin
vào lý tưởng là nội dung cốt lõi, giáo dục lý luận cơ bản, đường lối cơ bản,
chương lĩnh cơ bản của Đảng, cai nghĩa yêu nước, chủ nghĩa tập thể, chi
nghĩa xã hội là nội dung hàng đầu của công tác chính trị tư tưởng [14, tr.
226270]. Giáo trình “Cơng tác chính trị của Qn giải phóng nhân dân Trung
Quốc” dùng trong các học viện, nhà trường trong thời kỳ mới, của Nxb. Đại
học Quốc phịng Qn giải phóng nhân dân Trung Quốc, năm 1986 coi công
tác giáo dục tư tưởng là một hoạt động quan trọng của cơng tác chính trị trong

quân đội với ba nội dung cơ bản là: giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác và “bốn
nguyên tắc” cơ bản, giáo dục những vấn đề cơ bản xây dựng hiện đại hoá
CNXH Trung Quốc và xây dựng hiện đại hố, chính quy hố qn đội cách
mạng, giáo dục chính trị tư tưởng thường xun. Trong đó, nội dung giáo dục
chính trị tư tưởng thường xuyên gồm: giáo dục nhiệm vụ và tình thế, phẩm
chất đạo đức, truyền thống, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, pháp chế và dân chủ XHCN, kỷ luật tổ chức. . .

8


Như vậy, các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi tuy tên gọi khác nhau
nhưng đều khẳng định công tác tư tưởng có một hoạt động hướng vào xây
dựng niềm tin, lý tưởng chính trị với nội dung truyền bá chủ yếu là tri thức về
lĩnh vực chính trị theo nghĩa rộng nhất của từ này.
Ở trong nước, các công trình, tài liệu về cơng tác tư tưởng có số lượng
khá lớn, nội dung đa dạng, hình thức phong phú. Mỗi tác giả, mỗi cơng trình,
tài liệu, bài viết về cơng tác tư tưởng tuy có cách tiếp cận, phạm vi, mức độ,
lĩnh vực nghiên cứu khác nhau nhưng ít nhiều đều đề cập đến hoạt động
truyền bá nội dung chính trị. Nhìn chung, các tác giả sử dụng đồng thời các
thuật ngữ nêu trên, trong đó thuật ngữ cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng có
xu hướng được sử dụng phổ biến hơn. Thuật ngữ công tác giáo dục chính trị
chủ yếu được sử dụng trong quân đội. Tuy tên gọi khác nhau, nhưng nhìn
chung nội hàm của chúng là tương đối giống nhau.
Trong các văn kiện của Đảng, tên gọi hoạt động này cũng chưa thống
nhất. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X[43, tr. 61] và
lần thứ XI [45, tr. 161] đều dùng thuật ngữ cơng tác giáo dục chính trị tư
tưởng. Tuy nhiên, văn kiện Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, khoá XI lại sử dụng thuật ngữ cơng tác giáo dục chính trị, tư
tưởng [xem 46, tr. 35]. Trong cuốn “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư

tưởng cho cán bộ, đảng viên cơ sở”, tác giả Vũ Ngọc Am đưa ra định nghĩa:
cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng là “q trình tổ chức giáo dục, truyền bá
hệ tư tưởng của giai cấp công nhân đến với quần chúng nhân dân, thực chất là
quá trình truyền bá, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
cương lĩnh, đường lối, quan điểm và những chai trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân” [1, tr. 22].
Tiếp cận dưới góc độ khoa học chun ngành, giáo trình “Ngun lý
cơng tác tư tưởng, tập 1, do tác giả Lương Khắc Hiếu chủ biên, các nhà khoa
học thuộc Học viện Báo chí và Tuyên truyền - Trung tâm đào tạo và nghiên
9


cứu về khoa học công tác tư tưởng coi giáo dục chính trị - tư tưởng là một
hoạt động của công tác tư tưởng và chỉ rõ sự khác biệt giữa giáo dục chính trị
- tư tưởng với các hoạt động giáo dục tư tưởng khác chính là ở nội dung của
nó. Tương ứng với lĩnh vực hoạt động thực tiễn nào có tư tưởng về lĩnh vực
ấy, vì vậy nội dung giáo dục tư tưởng rất rộng, bao gồm: giáo dục thế giới
quan khoa học, giáo dục chính trị - tư tưởng, giáo dục đạo đức, giáo dục kinh
tế, giáo dục lao động. . . Trong đó, giáo dục chính trị - tư tưởng là một nội
dung cơ bản và chức năng của nó là: “trang bị cho nhân dân lao động một
hệ thống những kiến thức về lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội. Trên cơ
sở đó hình thành ý thức giác ngộ chính trị, hình thành những quan niệm, quan
điểm đúng đắn về các vấn đề chính trị, mà quan trọng nhất là hiểu rõ và nắm
vững đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, trách nhiệm và nghĩa vụ
công dân” [56, tr. 183]. Mục đích của giáo dục chính trị - tư tưởng là hình
thành văn hố chính trị cho nhân dân lao động. Cấu trúc văn hố chính trị ở
cấp độ cá nhân bao gồm tri thức chính trị, niềm tin chính trị và tính tích cực
chính trị - xã hội. Nội dung giáo dục chính trị - tư tưởng bao hàm: hệ thống tri
thức chính trị mà cốt lõi là CNMLN-TTHCM, đường lối, chính sách của
Đảng, truyền thống chính trị và những giá trị chính trị được đúc kết trong lịch

sử, lý tưởng chính trị của giai cấp, dân tộc, niềm tin vào sự nghiệp cách mạng
do Đảng lãnh đạo, giáo dục bản lĩnh, sự nhạy bén chính trị và đấu tranh khắc
phục sự mơ hồ về chính trị; giáo dục tính tích cực chính trị - xã hội, đấu tranh
chống sự thụ động và thói thờ ở chính trị. Kết quả nghiên cứu này đã phân
biệt khá rõ mục đích, nội dung của giáo dục chính trị - tư tưởng với các hoạt
động khác của công tác tư tưởng.
Trong quân đội, “Từ điển giải thích thuật ngữ quân sự” sử dụng thuật
ngữ giáo dục chính trị - tư tưởng và cho rằng: “giáo dục chính trị - tư tưởng,
quả trình tác động liên tục, có cơ sở khoa học, có định hướng vào đối tượng
giáo dục nhằm bồi dưỡng cho họ khả năng nhận thức chính trị đúng đắn, thái
độ chính trị phù hợp với quan điểm cách mạng, tinh thần kiên định đấu tranh
10


vì chủ nghĩa xã hội” [16, tr. 259]. Giáo dục chính trị - tư tưởng là một nội
dung cơ bản trong việc đào tạo, rèn luyện quân nhân cách mạng, được tiến
hành một cách thường xuyên, có hệ thống đối với mỗi quân nhân trong suốt
quá trình tại ngũ, bằng huấn luyện chính trị theo các chương trình phù hợp với
từng cấp quân nhân, bằng công tác tuyên truyền và vận động chính trị và bằng
sinh hoạt tập thể trong quân đội.
Trong luận án tiến sĩ Triết học “Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị
- tư tưởng trong quân đội trước yêu cầu mới của cuộc đấu tranh tư tưởng ở
nước ta hiện nay”, tác giả Nguyễn Văn Cần đã đưa ra định nghĩa:
Giáo dục chính trị - tư tưởng trong qn đội là q trình tác động có
mục đích, có tổ chức, có hệ thống của Đảng vào ý thức của cán bộ, chiến sĩ để
truyền bá những tư tưởng chính trị cơ bản, cốt lõi là chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước, làm cho chúng thấm sâu, chiếm vị trí thống trị thiệt đổi trong đời sống
tinh thần, định hướng sauy nghĩ và hành động của cán bộ, chiến sĩ; xây dựng
cho họ thế giới quan, phương pháp luận khoa học, bản lĩnh chính trị vững

vàng, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa; bồi dưỡng cho họ năng lực thực
hiện những tư tưởng chính trị của Đảng trong chiến đấu và mọi hoạt động
chính trị xã hội khác; tập hợp, đồn kết, động viên, cổ vũ họ hành động tích
cực, sáng tạo vì lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, góp
phần củng cố vững chắc trận địa tr trồng ca Đảng trong quân đội [11, tr. 11].
Theo tác giả, giáo dục chính trị - tư tưởng trong quân đội ta là hoạt
động đấu tranh tư tưởng của cấp uỷ, chỉ huy các cấp để xác lập vị trí thống trị
tuyệt đối của CNMLN-TTHCM trong đời sống tinh thần của cán bộ, chiến sĩ;
bồi dưỡng, rèn luyện cho quân nhân thế giới quan khoa học, bản lĩnh chính trị
vững vàng, đạo đức, lối sống cách mạng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.
Trong quân đội, có một cách tiếp cận khác là nghiên cứu công tác tư
tưởng dưới góc độ thực tiễn, gắn với chức trách, nhiệm vụ của người chính
11


uỷ, chính trị viên. “Giáo trình cơng tác đảng, cơng tác chính trị” do TCCT
xuất bản dùng trong các nhà trường quân đội sử dụng thuật ngữ công tác giáo
dục chính trị để chi các hoạt động “truyền bá lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước, nhiệm vụ của quân đội, đơn vị và những giá trị chuẩn mực đạo đức
cách mạng, những kiến thức văn hoá - xã hội, lịch sử truyền thống của Đảng,
của dân tộc, của qn đội, của đơn vị”[166, tr. 314]. Cơng trình này coi giáo
dục chính trị, tư tưởng là một hình thức của cơng tác giáo dục chính trị, bao
gồm các hình thức cụ thể là học tập chính trị, sinh hoạt chính trị tư tưởng và
nghiên cứu chuyên đề của sĩ quan. Như vậy, CTGDCT-TT dưới góc độ khoa
học cơng tác tư tưởng và cơng tác giáo dục chính trị dưới góc độ là một nhiệm
vụ thực tiễn trong quân đội tuy đều là một bộ phận của công tác tư tưởng
nhưng có sự khác nhau về mục đích, nội dung, vị trí, mối quan hệ với cơng
tác tư tưởng.
7. 3. Khái niệm hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng:

Các nhà khoa học Liên Xô dựa vào định đề của VILênin về hiệu quả
cơng tác nói chung là có khả năng thu được kết quả nhiều nhất, vững chắc
nhất mà lại ít tốn sức nhất” [80, tr. 79] để xây dựng khái niệm hiệu quả công
tác tư tường. Cuốn “Hoạt động tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô” đưa ra
khái niệm hiệu quả công tác tư tưởng “. . . là sự tương quan giữa kết quả tác
động tin trường đã đạt được so với những mục tiêu xây dựng giác ngộ cộng
sản cai nghĩa và phân hạnh cộng sản chủ nghĩa của con người” [196, tr. 299].
Như vậy, hiệu quả công tác tư tưởng là sự tương quan giữa kết quả và mục
đích, trong đó mục đích của cơng tác tư tưởng là nhằm xây dựng phẩm chất
chính trị và phẩm chất đạo đức cộng sản chủ nghĩa cho nhân dân. Hiệu quả
của hoạt động tư tưởng chịu ảnh hưởng của nhiều điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan. Những điều kiện khách quan là: lối sống XHCN, chế độ
dân chủ, môi trường xã hội. Nhân tố chủ quan là: trình độ lãnh đạo của Đảng

12


đối với công tác tư tưởng, sự thành thạo chuyên môn của cán bộ làm công tác
tư tưởng, thường xuyên cải tiến hình thức, phương pháp, đảm bảo sự thống
nhất của các biện pháp kinh tế - xã hội, tư tưởng, tổ chức và hành chính. . .
Có thể nói, cơng trình nghiên cứu tiêu biểu nhất về hiệu quả cơng tác tư
tưởng hiện nay đó là cuốn “Ngun lý công tác tư tưởng”, tập 2, do tác giả
Lương Khắc Hiếu chủ biên, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008. Đây là
cơng trình nghiên cứu khá hệ thống và sâu sắc về hiệu quả công tác tư tưởng.
Các tác giả đã đưa ra khái niệm hiệu quả công tác tư tưởng là: sự tương quan
giữa kết quả đạt được do tác động tư tưởng mang lại với mục đích của công
tác tư tưởng được đặt ra và với chi phí để đạt được kết quả đó trong một điều
kiện xã hội nhất định [57, tr. 280-281]. Về phân loại, cơng tác tư tưởng có
hiệu quả chung (tồn xã hội) và hiệu quả cụ thể; hiệu quả lâu dài và hiệu quả
trước mắt, hiệu quả tinh thần và hiệu quả thực tiễn. Cũng đồng tình với quan

điểm nêu trên, trong cuốn “Cơng tác tư tưởng trong sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hoá”, tác giả Trần Thị Anh Đào cho rằng “hiệu quả công tác tư
tưởng là sự tương quan giữa kết quả mà công tác tư tưởng đạt được so với
mục đích của cơng tác tư tưởng được xác định từ trước trong một điều kiện xã
hội nhất định và với một chi phí nhất định” [36, tr. 38]. Tác giả cho rằng, hiệu
quả tỷ lệ nghịch với mục đích và chi phí nhưng nếu khơng chi phí gì hoặc xác
định mục đích q thấp cũng khơng đạt được hiệu quả như mong muốn.
Trong lĩnh vực quân sự, tuy cách diễn đạt khác nhau nhưng các tác giả
đều đề cập đến vấn đề chi phí khi nói đến hiệu quả. Luận văn thạc sĩ “Nâng
cao hiệu quà giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan-binh sĩ ở đơn vị cơ sở Binh
đoàn Quyết thắng trong giai đoạn hiện nay”, tác giả Trần Anh Kim cũng coi
hiệu quả là sự tương quan giữa ba yếu tố kết quả, mục đích và chi phí nhưng
giải thích rõ hơn kết quả và cách thức đạt được kết quả trong định nghĩa:
“hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị đối với hạ sĩ quan - binh sĩ (HSQ-BS) ở
Binh đoàn Quyết thắng là sự tương quan giữa kết quả đạt được với mục đích

13


giáo dục chính trị cho HSQ - BS, được thể hiện ở số lượng và chất lượng của
hoạt động này, ở trình độ nhận thức chính trị, tư tưởng và năng lực hành động
của HSQ-BS, thông qua tác động của nội dung, hình thức, phương pháp và
lực lượng, phương tiện giáo dục chính trị, với một chi phí nhất định, trong
điều kiện và những đặc điểm, nhiệm vụ cụ thể ở các đơn vị cơ sở Binh đoàn
Quyết thắng” [74, tr. 15]. Trong luận án tiến sĩ triết học “Nâng cao hiệu quả
công tác tư tưởng trong quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, tác giả Trần
Ngọc Tuệ quan niệm hiệu quả công tác tư tưởng là sự so sánh giữa kết quả
với mục đích và chi phí nhưng mở rộng hơn thuật ngữ chi phí, đó là “. . . việc
sử dụng tối ưu mọi khả năng vào thực hiện mục đích trong những điều kiện
nhất định” [182, tr. 23]. Như vậy, chi phí khơng đơn thuần chỉ là tiền bạc mà

cịn có những yếu tố khác. Tương tự các quan niệm nêu trên, tác giả Cao
Xuân Trung cho rằng “hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng là mối tương
quan giữa kết quả đạt được so với mục đích đề ra trên cơ sở đầu tư về mọi
mặt và ảnh hưởng thực tế của nó” [173, tr. 40].
Qua các cơng trình nghiên cứu trên đây có thể thấy, hiệu quả cơng tác
tư tường, giáo dục chính trị - tư tưởng hay cơng tác giáo dục chính trị là một
vấn đề được đông đảo các nhà khoa học trong và ngồi nước quan tâm. Hầu
hết các cơng trình đều cho rằng, hiệu quả là sự tương quan hoặc so sánh giữa
kết quả với mục đích và chi phí (khả năng, đầu tư). Một số cơng trình chi đề
cập đến sự so sánh giữa hai yếu tố kết quả và chi phí hoặc giữa kết quả và
mục đích. Khơng chỉ đưa ra khái niệm, các cơng trình nghiên cứu còn đưa ra
cách phân loại và các yếu tố tác động đến hiệu quả công tác tư tưởng.
7. 4. Khái niệm Quản lí cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng :
Quản lí cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho sinh viên là những
tác động có mục đích, có kế hoạch của nhà quản lý đến tập thể, cán bộ, giảng
viên, sinh viên và những lực lượng giáo dục trong và ngoài trường nhằm huy
động họ tham gia và quan tâm giáo dục chính trị - tư tưởng cho sinh viên để
14


thực hiện có hiệu quả mục tiêu nhiệm vụ giáo dục chính trị - tư tưởng đề ra,
góp phần hình thành và phát triển nhân cách sinh viên một cách tồn diện.
Chủ thể quản lí giáo dục chính trị - tư tưởng cho sinh viên là Hiệu
trưởng, cán bộ phòng cơng tác chính trị và học học sinh sinh viên trong
trường,cán bộ quản lý các khoa,phòng, cán bộ giảng dạy, các tổ chức giáo dục
trong và ngoài trường.
Đối tượng quản lý là sinh viên.
7. 5. Khái niệm sinh viên :
Thuật ngữ : Sinh viên” được bắt nguồn từ tiếng Latinh “ Students” với
nghĩa là người làm việc, học tập, khai thác tri thức. Sinh viên Việt Nam là tất

cả công dân Việt Nam đang học tập và nghiên cứu tại các trường Đại học,Cao
đẳng,hay Trung cấp chuyên nghiệp, các viện đào tạo hệ Đại học và Cao đẳng
trong nước. Ở đó, họ được truyền đạt kiến thức bài bản về một ngành nghề,
chuẩn bị cho công việc sau này của họ, Họ được xã hội công nhân qua những
bằng cấp đạt được trong quá trình học. Quá trình học của họ theo phương
pháp chính quy,tức là họ phải trải qua bậc học tiểu học, trung học cơ sở, trung
học phổ thơng.
Trong nhóm đối tượng thanh niên, sinh viên là bộ phận nhạy cảm mà
đất nước đặt vào họ hy vọng trở thành lực lượng có tri thức khoa học,kỹ
thuật,quản lý kinh tế,xã hội và các mặt khác nhau của đời sống. Họ là đối
tượng đang trong quá trình xã hội hóa,được trang bị kiến thức tồn diện,được
đào tạo cơ bản về chuyên môn nghề nghiệp,sống trong môi trường nhiều
thông tin,giao tiếp ở các trung tâm văn hóa lớn, các thị trấn,thành phố, họ
nhạy cảm với các vấn đề của xã hội. Đây là nhóm đối tượng rất dễ bị tác
động,ảnh hưởng bởi cái mới. Nếu chia theo độ tuổi thì phần lớn họ thuộc độ
tuổi từ 18 - 23 tuổi. Độ tuổi tiếp tục trưởng thành về thể chất,tinh thần,hăng
hái,dũng cảm muốn đi vào cuộc sống xã hội,xác định việc làm, trau dồi nghề
nghiệp.
15


Trong phạm vi nghiên cứu, khách thể nghiên cứu được xác định là sinh
viên đang theo học hệ Đại học chính quy tại Học viện Báo chí và Tuyên
truyền. Bao gồm sinh viên khối nghiệp vụ và lý luận.
8. Tổng quan tài liệu nghiên cứu :
8. 1. Tổng quan tài liệu:
Nền giáo dục của Việt Nam với mục tiêu nuôi dưỡng và giáo dục con
người có lịng u nước, ln luôn rõ nghĩa vụ của công dân đối với đất nước,
xây dựng đất nước phát triển. Mục tiêu này của nền giáo dục lấy nền tảng là
công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho học sinh, sinh viên.

Cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng ở sinh viên là việc vơ cùng cần
thiết và quan trọng, đóng vai trò là nòng cốt và là hạt nhân để quyết định ý chí
và quyết tâm của sinh viên với sứ mạng xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Để làm
tốt nâng cao nhiệm vụ giáo dục của nước ta, thực hiện đầy đủ mục tiêu giáo
dục, phát huy bản sắc dân tộc, việc cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng đối
với sinh viên có vai trị rất cần thiết và đặc biệt chú trọng.
Dưới góc độ nghiên cứu về cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho
sinh viên có rất nhiều đề tài nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước. Nhiều
nhà nghiên cứu phương Tây cũng quan tâm đến tiêu chí và phương pháp đánh
giá hiệu quả tun truyền chính trị. Trong đó, tiêu chí đánh giá chi yếu dựa
vào sự hiểu biết, thái độ và hành vi của đối tượng. Trong một công trình
nghiên cứu về lý thuyết tuyên truyền “Propaganda”, tác giả đã chỉ ra 4
phương pháp (measure the effects of the propaganda) để đo hiệu quả tuyên
truyền, bao gồm: nghiên cứu thực nghiệm có kiểm sốt (controlled
experiment), phân tích dữ liệu thống kê (content analysis), quan sát thực tiễn
(practicipant observers) và phỏng vấn nhóm nhắc lại (panel interview –
repeated interview).

16


Trong tuyển tập “Một số vấn đề về công tác tư trông”, tác giả Đào Duy
Tùng cho rằng: tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả công tác tư tường là ở nhận thức
và hành động nhưng không phải mọi hành động tích cực của con người đều là
kết quả của giáo dục. Ở bình diện xã hội đó là kết quả hình thành đường lối
chính trị, mức độ qn triệt, truyền bá đường lối, mức độ chi phối của hệ tư
tưởng, bầu khơng khí tâm lý xã hội lành mạnh; kết quả xây dựng con người
mới XHCN. Nghiên cứu “Quản lý công tác giáo dục đạo đức cho SV cao
đẳng và đại học (từ thực tiễn Trường cao đẳng Giao thông vận tải III” (Luận
văn thạc sĩ QLGD Đặng Thị Ngọc Yến - 2003). “Thực trạng định hướng giá

trị đạo đức của sinh viên Sư phạm TP. Hồ Chí Minh” (Luận văn thạc sĩ Tâm
lý học chuyên ngành Tâm lý học, Hoàng Anh). “Quan điểm về đạo đức và lối
sống của sinh viên trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh” (Võ
Xn Đàn, Đồn Văn Điều, Võ Thị Ngọc Châu - 2003). “Tìm hiểu định
hướng giá trị đạo đức và các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị đạo đức
của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh” (Luận văn tốt nghiệp, Hồ Đắc Hải
Miên) là nghiên cứu dưới góc độ về cơng tác GD đạo đức cho sinh viên.
Bàn về hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng, tác giả Vũ Ngọc
Am khẳng định đánh giá hiệu quả là một vấn đề rất khó, phải cân nhắc, xem
xét toàn diện. Cần phân biệt kết quả và hiệu quả, mặc dù hiệu quả của công
tác giáo dục chính trị tư tưởng trước hết là kết quả, phải lấy kết quả để tính
hiệu quả, nhưng hiệu quả lại không đồng nhất với kết quả. Bên cạnh những
nghiên cứu về GDCTTT & ĐĐ cho SV nêu ở trên, cịn có những nghiên cứu
tiêu biểu sau: “Cơng tác GD đạo đức cho học sinh- sinh viên” (Nguyễn Thị
Nguyệt, bộ mơn kinh tế chính trị, học viên hành chính quốc gia - 2005), tác
giả với quan điểm hiện chứng kết hợp giáo dục đạo đức với chính trị tư tưởng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả nêu rõ “Hồ Chí Minh rất quan tâm đến
vấn đề giáo dục đạo đức, coi đạo đức là cái gốc của người cán bộ cách mạng,
là phẩm chất đầu tiên của con người. Toàn bộ sự nghiệp cách mạng của HCM
gắn liền với quá trình tư tưởng đạo đức cách mạng mà Người là tấm gương
17


tiêu biểu, là mẫu mực của đạo đức ấy” Tác giả coi nhiệm vụ GDCTTT & ĐĐ
là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong mối quan hệ biện chứng với công tác
đào tạo chuyên môn cho SV, đáp ứng quá trình xây dựng con người “vừa
hồng, vừa chuyên” trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
đặc biệt là đối với sinh viên các trường sư phạm, GDCTTT & ĐĐ còn mang ý
nghĩa cực kỳ quan trọng. Tác giả nêu những bất cập trong giáo dục hiện nay
trong nền kinh tế thị trường, và những biện pháp tăng cường GDCT & ĐĐ

cho học sinh - sinh viên trong môi trường trường học và xã hội.
8. 2. Giá trị của các cơng trình nghiên cứu :
Từ tìm hiểu và tổng quan các cơng trình nghiên cứu liên quan, tơi xin
đưa ra những đánh giá khái quát như sau :
- Từ nhiều khía cạnh khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đưa ra các khái
niệm từ nghĩa bao quát chung nhất cho đến ý nghĩa thu nhỏ phạm vi về giáo
dục, Lý luận chính trị - tư tưởng, giáo dục lý luận chính trị tư tưởng cho sinh
viên. Qua những phân tích và khái qt vấn đề có thể đúc kết những nội dung
cơ bản nhất nhưng cũng rõ rang về khái niệm giáo dục, giáo dục lý luận chish
trị - tư tưởng cho sinh viên.
Các nhà nghiên cứu cho rằng giáo dục lý luận tư tưởng cho sinh viên ở
các trường đại học đều chịu tác động trực tiếp của yếu tối nội tại trong hệ
thống giáo dục, cụ thể là hệ thống giáo dục lý luận chính trị - tư tưởng. Họ
không khẳng định qua quan sát hay phỏng đoán trực quan mà dựa trên khảo
sát, các số liệu thực tế, khảo sát thực trạng vấn đề để tìm ra hạn chế bất cập
của nó.
- Để xác định được mục tiêu nghiên cứu, nhà nghiên cứu tiến hành thao
tác khái niệm và dựa trên đó để vạch ra những tiêu chí rõ rang về chất lượng –
giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên các trường đjai học. Các kết quả được
chri ra chính là thành tựu có giá trị thực tiễn áp dục trong ngành giáo dục ní
chung và nâng ca chất lượng giáo dục lý luận chính trị - tư tưởng nói riêng.
18


Vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục lý luậ chính trị khơng hề xa lạ đối
với các cơ quan bann ngành, các lãnh đạo hay đảng viên nhưng lại còn khá xa
lạ đối với lớp trẻ, cụ thể là sinh viên các trường đại học hiện nay. Có khá ít
cơng trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề nâng cao tư duy lý luận chính trị ở
sinh viên. Thực trạng đưa ra và các giải pháp chưa thực sự có hiệu quả ở các
trường đại học vì vậy đây có thể coi là một vấn đề cấp thiết và quan trọng cần

được đề xuất, phân tích và đưa vào thực tế nhằm cải thiện thực trạng chất
lượng giáo dục lý luận chính trị - tư tưởng ở sinh viên hiện nay.
8. 3. Những vẫn đề hạn chế trong các nghiên cứu cùng đề tài :
Khái quát chung lại các cơng trình nghiên cứu, có thể thấy do các nhà
nghiên cứu phân tích vấn đề ở các góc độ khác nhau nên kết quả nghiên cứu
đều có những khoảng trống và chưa có sự thống thất. Trên góc độ khoa học,
những thành tựu khoa học đó đã hồn thành được nhiệm vụ và mục tiêu
nghiên cứu của mình nhưng khi tổng hợp lại chưa thực sự nhất qn. Cơng
trình nghiên cứu cần tiếp tục làm rõ các vấn đề như sau :
- Việc khái quát, tổng hợp và phân tích vấn đề chất lượng giáo dục lý
luận chính trị - tư tưởng cho sinh viên các trường đại học.
- Điều kiện khách quan, chủ quan, yếu tố chủ quan – khách quan tác
động đến vấn đề nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng
của sinh viên.
- Vấn đề đặt ra cho ngành giáo dục trong việc nâng cao chất lượng
cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng và các giải pháp áp dụng vào thực tiễn.
- Quan điểm, phương hướng của nhà nước trong việc tạo điều kiện
thuận lợi nhằm tác động tích cực đến việc nâng cao chất lượng cơng tác giáo
dục chính trị - tư tưởng cho sinh viên các trường đại học

19



×