PHẦN I: MỞ ĐẦU
Đất nước ta trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội phải xây dựng một
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất phù hợp.
Trong thời đại ngày nay khơng có nền kinh tế nào chịu sự điều tiết của cơ
chế thị trường mà khơng có sự quản lý của Nhà nước ở những mức độ và phạm
vi khác nhau. Bởi vì bên cạnh những mặt tích cực của kinh tế thị trường như:
năng suất lao động tăng nhanh công nghệ sản xuất không ngừng được cải tiến,
hàng hoá sản xuất ra nhiều, thu nhập quốc dân tăng…. thì cơ chế thị trường cũng
nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực cần giải quyết như: lạm phát, thất nghiệp, khủng
hoảng, tệ nạn, xã hội… Do vậy Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế để đảm bảo
cho sự phát triển kinh tế có hiệu quả, cơng bằng ổn định. Đặc biệt nền kinh tế
nước ta đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa càng không thể thiếu
sự quản lý của Nhà nước.
Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Nhà nước đóng vai trị định hướng,
xây dựng và hồn hiện thể chế kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng,
minh bạch và lành mạnh; sử dụng các cơng cụ, chính sách và các nguồn lực của
Nhà nước để định hướng và điều tiến nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh
và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng
chính sách phát triển”.
PHẦN II: VAI TRỊ VÀ CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRONG QUẢN LÝ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1. Khái niệm kinh tế thị trường
1
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác
động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng
hoá, dịch vụ trên thị trường. Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế
hàng hoá dưới sự tác động khách quan của các quy luật kinh tế vốn có. Cơ chế
thị trường chính là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó những người tiêu
dùng và các sản xuất nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để giải
quyết những vấn đề trung tâm của sản xuất xã hội.
2. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm
thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Thứ nhất, đó là mơ hình kinh tế thị trường hỗn hợp, vừa vận hành theo cơ
chế thị trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước.
Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế
nhà nước; thực hiện sự điều tiết ở tầm vĩ mô, “định hướng, xây dựng và hoàn
thiện thể chế kinh tế; tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch” bảo đảm
cho thị trường phát triển lành mạnh, tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường,
tương thích với thơng lệ của các nước; “sử dụng các cơng cụ, chính sách và các
nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản
2
xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường, thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội trong
từng bước, từng chính sách phát triển”.
Thơng qua những chính sách kinh tế, những biện pháp tài chính cần thiết,
nhà nước phát huy cao độ những mặt tích cực, những ưu thế của nền kinh tế thị
trường, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, tạo điều kiện
cho thị trường phát triển mạnh mẽ hơn và lành mạnh hơn, bảo vệ lợi ích hợp
pháp của nhân dân.
Thứ hai, là mơ hình kinh tế thị trường với đa dạng các hình thức sở hữu
và đa dạng các thành phần kinh tế; đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
Kinh tế thị trường ở Việt Nam “có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế”. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế quốc dân, “cùng bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển”,
trong đó “kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực
quan trọng của nền kinh tế”.
Nhà nước coi trọng và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển
tự do, bình đẳng, “thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các
doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế”. Trong đó,
kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền
kinh tế, ở lĩnh vực an ninh quốc phòng, ở các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết...
mà các thành phần kinh tế khác khơng có điều kiện hoặc khơng muốn đầu tư.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dựa trên
chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất cơ bản, “đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu”, thực hiện “công khai, minh bạch
việc quản lý, sử dụng đất công; tăng cường giám sát, quản lý chặt chẽ, nâng cao
hiệu quả sử dụng đất giao cho các cộng đồng và doanh nghiệp”, phục vụ cho
3
mục đích chung của tồn dân tộc và của nhân dân, bảo đảm quyền quản lý, thu
lợi của Nhà nước đối với tài sản cơng và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận, sử
dụng tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế.
Thứ ba, việc phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam được thực hiện trên nguyên tắc “chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu
quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân
phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta với đa dạng hình thức sở hữu, đa dạng
thành phần kinh tế, đa dạng phương thức sản xuất kinh doanh… do đó cần đa
dạng các hình thức phân phối. Trong nền kinh tế đó, lao động trở thành cơ sở
quyết định địa vị và phúc lợi vật chất của mỗi người.
Vai trị của Chính phủ là hạn chế phân hóa xã hội sâu sắc… bằng cách
thực hiện tái phân phối lại thu nhập xã hội. Đây chính là nét ưu việt của chế độ
phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thứ tư, là nền kinh tế thị trường do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý, điều tiết vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Kinh tế thị trường ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, được định hướng cao về mặt xã hội, có mục đích đảm bảo tối
đa lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước; tôn
trọng và tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế tự do phát triển đồng thời thực
hiện các biện pháp hữu hiệu để hạn chế những khuyết tật của tính tự phát thị
trường.
4
3. Vai trò và chức năng của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Một là, xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng cho kinh tế vận động và
phát triển thuận lợi. Hệ thống kết cấu hạ tầng có ý nghĩa sống cịn với nền kinh
tế, bao gồm nhiều loại như: hệ thống giao thông, đường bộ, đường sắt, đường
không, sân bay, bến cảng, điện, nước, kết cấu hạ tầng văn hóa, xã hội, kết cấu hạ
tầng thông tin...
Hai là, xây dựng môi trường văn hóa xã hội phù hợp với nền kinh tế thị
trường, xã hội ngày càng tôn trọng và tôn vinh nghề kinh doanh và người kinh
doanh.
Ba là, bảo đảm môi trường an ninh trật tự, kỷ luật, kỷ cương, mọi cá nhân
và tổ chức đều phải tuân thủ pháp luật. Nhà nước phải bảo vệ những doanh
nghiệp và doanh nhân hoạt động đúng pháp luật.
Bốn là, xây dựng và hoàn thiện môi trường thông tin. Nhà nước phải là
trung tâm cung cấp thông tin tin cậy nhất cho các doanh nghiệp một cách thường
xuyên, kịp thời và chính xác...
Năm là, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế thị
trường. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tư cách một nhiệm
vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa
với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhằm xây dựng một
chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để
xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy thì cơng cụ, phương
tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
5
Việt Nam trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Sáu là, các nguồn lực do Nhà nước quản lý được phân bổ theo chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phù hợp cơ chế thị trường. Chính phủ có thể thơng qua hệ
thống luật pháp và thơng qua sự lựa chọn của mình để tác động đến sản xuất.
Đồng thời, thông qua thuế và các khoản chuyển nhượng để tác động đến khâu
phân phối, từ đó tác động đến việc phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế.
Bảy là, Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế
kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch.
Nhà nước xây dựng hệ thống pháp lý để chống lại gian lận bao gồm: hệ
thống có liên quan tới những quyền sở hữu, những điều luật về phá sản và khả
năng thanh tốn, hệ thống tài chính với ngân hàng trung ương và các ngân hàng
thương mại để giữ cho việc cung cấp tiền mặt được thực hiện một cách nghiêm
ngặt. Đồng thời, Nhà nước sử dụng công cụ chiến lược, kế hoạch, luật pháp và
chính sách làm căn cứ cho hoạt động kiểm tra, kiểm soát, đánh giá đối với nền
kinh tế để điều tiết các hành vi ứng xử của các chủ thể trong nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
4. Quan điểm “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” trong Nghị quyết Đại hội XII
Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo
các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh
tế có nhiều hình thức sở hữu nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trị chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế;
6
thị trường đóng vai trị chủ yếu trong phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát
triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất. Các nguồn lực nhà nước
được phân bố theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị
trường. Nhà nước đóng vai trị định hướng và hồn thiện thể chế kinh tế, tạo mơi
trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các cơng cụ, chính
sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng, điều tiết nền kinh tế; thực tiễn
tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Đại hội XII của Đảng đã nêu phương hướng hoàn thiện thể chế, phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong nhiệm kỳ tới và chỉ rõ:
“Đến 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế
thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; đảm bảo đồng bộ giữa thể chế kinh tế và
thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển
kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội,
đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững.”
Tiếp tục hoàn thiện thể chế sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các
loại hình doanh nghiệp:
Thể chế hóa quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền
định đoạt và hưởng lợi từ tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân theo quy
định trong Hiến pháp 2013. Nhà nước bảo về quyền sở hữu hợp pháp của người
dân theo quy định của pháp luật, bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước
đối với tài sản công. Nâng cao năng lực của các thiết chế và hoàn thiện cơ chế
giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản; bảo
vệ quyền tự do kinh doanh mà pháp luật khơng cấm. Hồn thiện thể chế bảo vệ
nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản.
7
Mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo
cơ chế thị trường. Có chính sách thúc đẩy phát triển doanh nghiệp Việt Nam cả
về số lượng và chất lượng, thật sự trở thành nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Doanh nghiệp nhà nước hoạt động thep cơ chế thị trường. Đẩy mạnh cổ
phần hóa, bán vốn tại các doanh nghiệp nhà nước không cần nắm hoặc không
cần giữ cổ phần chi phối, kể cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu
quả. Hồn thiện thể chế định giá đất đai, tài sản hữu hình, tài sản vơ hình (tài sản
trí tuệ, thương hiệu) trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc
thị trường; tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của kinh tế tập
thể, kinh tế hợp tác xã; đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp
dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường.
Hồn thiện cơ chế chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh
kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực
quan trọng của nền kinh tế: nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngồi, chú trọng chuyển giao cơng nghệ, trình độ quản lý tiên tiến, tăng cường
liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong
nước nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp quy mô lớn, chất lượng
cao, gắn với chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường:
Tiếp tục phát triển đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường;
thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; hoàn thiện pháp luật về phí, lệ phí và
rà sốt chuyển đổi chính sách phí lệ phí đối với một dịch vụ công sang áp dụng
giá dịch vụ. Mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá, đảm bảo tính
8
đúng, tính đủ và cơng khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá đối với hàng
hóa, dịch vụ cơng thiết yếu.
Đẩy mạnh nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế:
Chủ động, tích cực hơi nhập quốc tế; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ
kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; kêt hợp
hiệu quả ngoại lực và nội lực để phát triển kinh tế đất nước. Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển. Chủ động,
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế vì lợi ích quốc gia dân tộc; vì một nước Việt
Nam Xã hội Chủ nghĩa giàu mạnh. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Nhà nước có vai trị to lớn trong việc bảo đảm sự ổn định vĩ mô cho phát
triển và tăng trưởng kinh tế, thể hiện sự cân đối, hài hịa các quan hệ nhu cầu, lợi
ích giữa người và người, tạo ra sự đồng thuận xã hội trong hành động vì mục tiêu
phát triển của đất nước. Tính đúng đắn, hợp lý và kịp thời của việc hoạch định và
năng lực tổ chức thực hiện các chính sách phát triển vĩ mơ do Nhà nước đảm
nhiệm là điều kiện tiên quyết để hình thành sự đồng thuận đó. Việc tăng cường
quản lý vĩ mơ sẽ nâng cao hiệu quả tác động của Nhà nước tới sự phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
9