Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường.doc.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.45 KB, 55 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ch ơng i
hoạt động kinh doanh Bảo hiểm trong nền kinh tế
thị trờng và sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật
đối với hoạt động kinh doanh Bảo hiểm.
I. hoạt động kinh doanh Bảo hiểm trong nền kinh tế thị trờng.
1. Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động kinh
doanh bảo hiểm trên thế giới và ở Việt nam.
1.1. Trên thế giới.
Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xa trong lịch sử nền văn minh nhân loại mà
thậm chí cho đến bây giờ ngời ta vẫn cha xác định đợc bảo hiểm xuất hiện từ khi
nào. Chúng ta có thể dễ dàng tìm đợc phế tích của những ngôi nhà tác phẩm nghệ
thuật hoặc những dấu tích còn sót lại của những nền văn minh xa kia. Tuy nhiên việc
tái lập một cách chính xác cách thức mà các thị dân đầu tiên đã sử dụng để tổ chức
các hoạt động dịch vụ trong nền kinh tế lại là một điều khó khăn hơn nhiều. Trong
một số những dấu tích vật chất gây ấn tợng của văn minh thời Tiền sử, thời Cổ đại,
thời Trung cổ và thời Cận đại có các kho lúa nơi mọi ngời dự trữ lơng thực để sử
dụng trong trờng hợp khẩn cấp. Câu chuyện trong kinh thánh Joeph giải thích giấc
mơ của vua Ai Cập là một ví dụ minh hoạ nguyên tắc mà ngời ta đã áp dụng để tổ
chức dịch vụ nói trên. Kinh nghiệm cho thấy rằng đôi khi cũng xảy ra mất mùa hoặc
quân xâm lợc ngăn cản ngời dân của một thành phố thu hoạch ở vùng nông thôn
xung quanh. Mặc dù mỗi hộ gia đình có thể tự dự phòng cho những trờng hợp xấu
nói trên nhng các thị dân đã sớm nhận ra rằng việc dự trữ chung hoặc theo từng cộng
đồng có hiệu quả hơn. Mỗi ngời có khả năng sẽ phải đóng góp vào một khoản thuế
nhỏ trong những năm đợc mùa, khi giá lơng thực xuống thấp. Ngời ta thực hiện việc
mua lơng thực có thể dự trữ đợc chủ yếu là lúa mỳ. Nông dân thấy hài lòng do họ có
thể bán đợc nhiều hơn( với giá cao hơn) so với khi cơ quan thuế không thực hiện việc
mua lơng thực trên thị trờng. Gặp khi mất mùa hoặc khi thành phố bị vây hãm, cơ
quan thuế sẽ xuất ra lơng thực dự trữ để nuôi sống c dân thành phố. Vì vậy, ý tởng về
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


việc lập một quỹ chung (trong trờng hợp này là quỹ lơng thực) đã xuất hiện trong
tiềm thức con ngời. ý tởng này tỏ ra rất phù hợp với yêu cầu khách quan của đời
sống của con ngời vốn thờng xuyên bị rủi ro đe doạ.
Vào cuối thế kỷ XV, khi Châu Âu thực hiện những chuyến đi khai phá tới Châu
á và Châu Mĩ, mở đờng cho cái gọi là cuộc cách mạng thơng mại xảy ra trớc
cuộc cách mạng công nghiệp nổi tiêng, ý tởng về rủi ro và thành lập một quỹ
chung đã xuất hiện cùng một lúc. Nếu một đội tàu nhỏ tìm cách đi từ Châu Âu tới
Inđônêxia để mua bán hàng hoá và trở về với nhiều loại hàng hoá hấp dẫn, song lại
có một số tàu không hoàn thành chuyến trở về. Một số tàu có thể bị chìm do bão tố,
cạn kiệt nguồn cung cấp (hoặc đội thuỷ thủ bị chết vì bệnh tật), lạc đờng, bị chìm do
quá tải. Những ngời tham gia vào chuyến đi mạo hiểm đó đã cảm thấy sự cần thiết
phải cùng nhau chia sẻ rủi ro để tránh tình trạng một số nhà đàu t bị mất trắng khoản
đầu t của mình do hoàn cảnh ngẫu nhiên đã khiến cho con tàu của họ bị mất tích. Vì
thế họ đã tìm ra hai cách nhằm đáp ứng nhu cầu này:
Cách thứ nhất, là thành lập một liên doanh có góp vốn cổ phần theo đó một
nhóm đầu t cùng đầu t vào một đội thuyền chở hàng chung, cùng chia sẻ rủi ro khi
xảy ra tổn thất và phân chia lợi nhuận mà liên doanh thu đợc.
Cách thứ hai, là bảo hiểm một hệ thống mà theo đó chủ tàu hay chủ hàng (có
thể là một cá nhân hay một công ty) đề nghị trả một số tiền mặt cho ngời khác nếu
những ngời này đồng ý sẽ bồi thờng cho các chủ hàng thuộc con tàu khi con tàu đã
nêu tên không hoàn thành một chuyến đi cụ thể nào đó.
Theo cách này, thay cho việc phát triển trong cạnh tranh, việc chung vốn và bảo
hiểm đã bổ xung cho nhau. Một số cá nhân hay công ty thu phí bảo hiểm bằng tiền
mặt để đổi lấy một cam kết sẽ bồi thờng cho chủ tàu trong trờng hợp tàu bị mất tích.
Những bảo hiểm này đã tạo lập một quỹ chung mà họ cam kết sử dụng để thanh
toán cho ngời đợc bảo hiểm khi xảy ra tổn thất.
Một số nhà kinh doanh bảo hiểm nhanh chóng nhận ra rằng rất nhiều thành viên
cộng đồng không muốn mình nhận bảo hiểm cho những rủi ro lớn nh vậy theo nh
kiểu khai thác bảo hiểm của Lioyds. Vì vậy, khái niệm góp vốn chung đã đợc đè cập
đến song trong một bối cảnh khác, ngời ta kêu gọi mọi ngời mua cổ phần của các

công ty bảo hiểm. Công ty bảo hiểm sẽ thuê các chuyên gia để lựa chọn các rủi ro có
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thể bảo hiểm và bồi thờng cho ngời đợc bảo hiểm bằng số tiền trích ra từ quỹ chung
mà công ty đã đem ra đầu t khi rủi ro xảy ra. Quỹ này đợc xây dựng trên cơ sở tiền
mà công ty thu đợc sau khi bán các cổ phần cho các cổ đông cộng với thu nhập nhờ
đầu t quỹ và phí bảo hiểm do ngời đợc bảo hiểm nộp. Chỉ cần khai thác viên chuyên
nghiệp tính toán một cách đầy đủ và chính xác trong việc lựa chọn rủi ro và số phí
bảo hiểm phải đóng cho mỗi loại rủi ro, cụ thể thì quỹ này luôn luôn có khả năng để
bồi thờng tổn thất cho ngời đợc bảo hiểm nếu xảy ra rủi ro và trả lãi cho các cổ đông
ở mức đủ để họ hài lòng với việc đầu t của mình.
Vào thời gian đầu, lĩnh vực hoạt động chủ yếu của công ty bảo hiểm là bảo
hiểm hoả hoạn. Tại những thành phố đông đúc của thế kỷ XVII, hầu hết nhà cửa đều
dựng bằng gỗ, ngời ta dùng lửa để sởi, đun nấu và dùng để chiếu sáng. Vì vậy rủi ro
nhà bắt lửa là rất cao. Trong cộng đồng làng xã trớc khi diễn ra quá trình đô thị hoá,
khi một nhà bị cháy rụi, tất cả những nhà hàng xóm sẽ hợp sức với nhau để giúp xây
dựng lại ngôi nhà. Ngợc lại ở thành phố, do hàng xóm của gia đình có nhà bị cháy
đều có những nghề nghiệp chuyên môn riêng( nh thợ dệt, thợ may, th ký...) họ không
có khả năng cũng nh thời gian để giúp hàng xóm xây lại ngôi nhà trong trờng hợp
xảy ra hoả hoạn. Thay vào đó, họ đóng phí bảo hiểm cho một công ty bảo hiểm để
nhận đợc hai cam kết: cung cấp dịch vụ cứu hoả (nh dập lửa, ngăn không cho lan
sang nhà khác, và hạn chế mức thấp nhất do vụ cháy gây ra) và bồi thờng bằng tiền
mặt cho ngời đợc bảo hiểm để tạo điều kiện cho họ thuê mớn những thợ chuyên môn
cần thiết (nh thợ xây, thợ mộc...), sửa chữa lại h hỏng (hoặc xây lại ngôi nhà trong tr-
ờng hợp xảy ra hoả hoạn nghiêm trọng).
Cùng với bảo hiểm hoả hoạn, các quỹ bảo hiểm nhân thọ cũng xuất hiện. Một
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ không phải là một hợp đồng bồi thờng. Mục đích của
nó là cung cấp một khoản tiền cụ thể khi xảy ra những trờng hợp đợc nêu trong hợp
đồng bảo hiểm. Không ai có thể biết chắc chắn tuổi thọ của một ngời sẽ là bao nhiêu.
Chỉ một phần c dân trên thế giớ qua đời mỗi năm. Vào giữa thế kỷ XVII, ngời ta đã

thành lập các công ty, tổ chức tơng hỗ để cung cấp dịch vụ bảo hiểm nhân thọ cho
công chúng. Các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ không phải lúc nào cũng dựa trên
nguyên tắc bồi thờng, bởi vì xét về khía cạnh vật chất, cuộc sống con ngời là vô giá
và rõ ràng không phải một tổ chức nào cũng có thể cung cấp cho một giá trị tơng đ-
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ơng với việc mất đi sinh mạng. Chính vì lý do này mà các hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ đều dựa trên một số tiền cụ thể. Một ngời sau khi đợc bảo hiểm nhân thọ (hoặc
ngời có lợi ích hợp pháp nh vợ, chồng) phải nộp một phần thu nhập của mình cho
một công ty bảo hiểm để sau này ngời thừa kế của họ sẽ nhận đợc một khoản tiền khi
ngời đợc bảo hiểm qua đời. Hoặc khi hợp đồng bảo hiểm đến hạn sau một số năm đã
định (với điều kiện ngời đợc bảo hiểm vẫn còn sống). Bảo hiểm nhân thọ là một hình
thức tiết kiệm có lợi cho ngời đợc bảo hiểm, ngời phụ thuộc vào họ và các tổ chức
kinh doanh của họ.
Từ những loại bảo hiểm ban đầu nh bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm hảo hoạn và
bảo hiểm nhân thọ giờ đây trên thế giới đã có thêm rất nhiều loại bảo hiểm khác nữa.
Những công ty bảo hiểm xuất hiện đầu tiên trên thế giới đó là:
Năm 1424, Công ty bảo hiểm đầu tiên của vận tải biển và đờng bộ đợc thành
lập ở GiênOa.
Năm 1667, Công ty bảo hiểm hoả hoạn ra đời ở Anh.
Năm 1762, Công ty bảo hiểm nhân thọ ra đời đầu tiên tại Luân Đôn.
1.2. ở Việt nam.
1.2.1.Dới thời phong kiến đến năm 1945.
Các triều đại phong kiến tập quyền Việt Nam đều giành cho mình những quyền
sở hữu tối cao về t liệu sản xuất. Chính vì vậy bảo hiểm hoàn toàn mang tính chất xã
hội và phục vụ cho mục đích thống trị của triều đình vua chúa phong kiến. Nó tồn tại
dới các hình thức phát chẩn, cứu tế mang tính bình quân. Bảo hiểm không tồn tại
khái niệm đóng góp và bồi thờng mà chỉ có khái niệm Cho và Nhận. Phạm
vi hoạt động bảo hiểm diễn ra ở phạm vi cục bộ, tức là chỉ ở địa phơng hay xảy ra
thiên tai, địch hoạ. Tuy nhiên hầu hết các địa phơng đều tồn tại quĩ dự phòng do các

quan lại và các phú gia hảo tâm đóng góp. Thực chất của quỹ này chỉ là Lấy của ng-
ời giàu chia cho ngời nghèo. Bảo hiểm cha đủ khả năng duy trì đời sống và hoạt
động bình thờng.
Dới thời Pháp thuộc, do kinh tế cha phát triển nên bảo hiểm cũng cha thực sự
đáng kể. Hầu hết hoạt động bảo hiểm chỉ dừng lại ở chế độ bảo hiểm xã hội cho
công, viên chức bảo hiểm thơng mại có ít nhng hoàn toàn do ngời Pháp nắm giữ.
1.2.2. Từ năm 1945 đến năm 1994.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Khi giành đợc độc lập năm 1945, nhà nớc ta đã phát triển tài chính Xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, hoạt động bảo hiểm với t cách là một dịch vụ tài chính mới phát
triển đợc 30 năm nay. Ngày 15/01/1965 Công ty Bảo hiểm Việt nam (gọi tắt là
(BAOVIET) ra đời theo Quyết định số 179/CP ngày 17/12/1964 của Thủ tớng Chính
phủ. Sự ra đời của BAOVIET đánh dấu một bớc phát triển trong lịch sử của ngành tài
chính Việt Nam. Tuy nhiên bảo hiểm Việt Nam lúc này cũng hoàn toàn mang tính
bao cấp, không hề tồn tại khái niêm Hạch toán kinh doanh nh ở các nớc T bản chủ
nghĩa. Ban đầu chỉ có 5 nghiệp vụ: bảo hiểm hàng Xuất nhập khẩu, bảo hiểm thân
tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu và tái bảo hiểm.
Sự có mặt của một công ty duy nhất với cơ chế độc quyền trong Kinh doanh bảo
hiểm đã duy trì trong một thời gian dài. Cho đến tháng 12 năm 1993, việc ban hành
Nghị định 100/CP về Kinh doanh Bảo hiểm của Chính phủ đã đánh dấu một bớc
ngoặt trong quá trình phát triển hoạt động kinh doanh Bảo hiểmở nớc ta.
Độc quyền về cơ bản đã chấm dứt với sự ra đời của hàng loạt các Doanh nghiệp
bảo hiểm, đó là:
- Công ty bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh ( Bảo Minh).
- Công ty bảo hiểm Nhà Rồng ( Bảo Long).
- Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex ( PJICO).
- Công ty bảo hiểm Dầu khí Việt nam ( PVIC).
- Công ty liên doanh môi giới bảo hiểm Inchcape ( INCHIBROK).
- Công ty liên doanh bảo hiểm - Việt nam Internationnal asurance Company

( VIA).
- Công ty cổ phần bảo hiểm Bu điện ( FTI).
- Công ty liên doanh bảo hiểm United Inurace của Việt Nam (UIC).
Nhiều tổ chức bảo hiểm nớc ngoài đã thành lập văn phòng đại diện tại Việt
Nam. Mạng lới bảo hiểm, cộng tác viên đã hình thành rộng khắp cả nớc. Nhiều
nghiệp vụ mới của bảo hiểm đã đợc triển khai nh là bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm
trách nhiệm sản phẩm, bảo hiểm nhân thọ... Hệ thống văn bản pháp lý về bảo hiểm
đang đợc chú ý và hoàn thiện. Mọi nỗ lực đã mang lại sự tăng trởng không ngừng
của thị trờng bảo hiểm.
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sự phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam là một xu thế tất
yếu trong điều kiện kinh tế thị trờng. Kinh tế thị trờng đã tạo ra môi trờng thuận lợi
cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm, Sự phong phú về các nguồn hành hoá, dịch vụ,
tốc độ tăng trởng cao về kinh tế, mức thu nhập dồi dào của nhiều tầng lớp dân c. Tính
phức tạp, đa dạng của các loại hình rủi ro là yếu tố khách quan tác động đến việc
hình thành và tăng nhanh các nhu cầu về bảo hiểm trong xã hội.
Gắn liền với các loại thị trờng khác, đặc biệt là thị trờng tài chính (mà trớc hết
là thị trờng vốn), thị trờng bảo hiểm hình thành nh một mắt xích không thể thiếu
trong cơ chế thị trờng.
Thị trờng bảo hiểm là nơi diễn ra các giao dịch mua bán các loại sản phẩm bảo
hiểm, nơi ngời bảo hiểm và khách hàng tác động qua lại để xác định giá cả cũng nh
số lợng sản phẩm bảo hiểm. Thị trờng bảo hiểm tất yếu chịu sự chi phối của các qui
luật kinh tế thị trờng. Môi trờng cạnh tranh đã tạo lên một thị trờng linh hoạt có khả
năng đáp ứng đợc sự đa dạng của nhu cầu bảo hiểm, thúc đẩy sự tăng nhanh khối l-
ợng chủng loại và chất lợng sẩn phẩm bảo hiểm.
Mặt khác, cơ chế cạnh tranh cũng làm nảy sinh hàng loạt các vấn đề phức tạp.
Thị trờng nếu không đợc tổ chức, quản lý, giám sát đúng đắn có thể dẫn tới tình
trạng hỗn loạn, gây hậu quả xấu cho nền kinh tế xã hội. Vậy nên các tổ chức kinh
doanh bảo hiểm cần có chiến lợc phát triển, phải tổ chức quản lý nh thế nào? Nhà n-

ớc cần thực hiện vai trò quản lý đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm ra sao? Thị
trờng bảo hiểm mở cửa một quốc gia cần những gì để đứng vững trong cạnh tranh
trên trờng Quốc tế? Những vấn đề này sẽ đợc giải trình ở phần tiếp theo.
2. Khái niệm, vai trò, đặc trng của hoạt động kinh doanh
bảo hiểm.
2.1. Khái niệm.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là việc doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro
trên cơ sở ngời đợc bảo hiểm đóng một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để doanh
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nghiệp bảo hiểm bồi thờng hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện thuộc trách
nhiệm bồi thờng hay trả tiền bảo hiểm.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm bao gồm cả hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm
và hoạt động trung gian bảo hiểm.
2.2. Vai trò của hoạt động kinh doanh Bảo hiểm.
Ngày nay, ở hầu hết các quốc gia trên Thế giới, bảo hiểm đã trở thành một
ngành kinh doanh thu hút sự tham gia đông đảo của các doanh nghiệp, các tổ chức và
dân c. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn
có ý nghĩa cả về mặt xã hội. Những lợi ích kinh tế và công dụng xã hội của hoạt
động kinh doanh bảo hiểm thể hiện trên các mặt chủ yêu sau:
2.2.1. Bảo hiểm góp phần bảo vệ tài sản, ổn định cuộc sống con ngời mang lại sự
an toàn trong xã hội.
Hoạt động bảo hiểm trớc hết là nhằm khắc phục hậu quả của rủi ro. Hậu quả
của rủi ro có nhiều dạng và nói chung đều liện quan đến khía cạnh tài chính phát
sinh các khoản chi phí, chi tiêu bất thờng mà thông thờng ngời mua bảo hiểm phải tự
gánh chịu.
Sự có mặt của các tổ chức bảo hiểm là để cung cấp dịch vụ đặc biệt cho khách
hàng đáp ứng nhu cầu đảm bảo về mặt vật chất, tài chính trớc rủi ro đối với họ. Thực
tế việc bồi thờng, trả tiền bảo hiểm của bên bảo hiểm đã giúp các tổ chức bảo toàn
vốn liếng tài sản, các cá nhân, các gia đình khắc phục khói khăn không rơi vào tình

trạng kiệt quệ về vật chất và tinh thần.
Hơn nữa, nghề bảo hiểm còn đòi hỏi các tổ chức bảo hiểm có trách nhiệm
nghiên cứu rủi ro , thống kê những tai nạn, những tổn thất, xác định nguyên nhân và
đề ra các biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và giảm thiểu các rủi ro.
Thực tế khi xây dựng các quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm cũng nh trong
quá trình triển khai nghiệp vụ( kể từ khi đánh giá rủi ro, kí kết hợp đồng, quản lý hợp
đồng cho đến lúc giám định tổn thất, giải quyết bồi thờng), các tổ chức bảo hiểm
luôn chú ý đến việc tăng cờng áp dụng các biện pháp phòng tránh cần thiết để bảo vệ
đối tợng bảo hiểm, góp phần đảm bảo an toàn cho tính mạng, sức khoẻ con ngời, của
cải vật chất của xã hội và đặc biệt là để giảm chi phí do phải bồi thờng bảo hiểm cho
khách hàng.
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2.2.2. Bảo hiểm thúc đẩy hoạt động tiết kiệm, tập chung vốn, góp phần đáp ứng
các nhu cầu về vốn trong xã hội.
Sự tồn tại của thị trờng bảo hiểm với nhiều loại hình bảo hiểm (đặc biệt là bảo
hiểm nhân thọ) đã tạo một hình thức tiết kiệm linh hoạt, tác động đến t duy của mỗi
cá nhân, chủ hộ gia đình, chủ doanh nghiệp. Họ phải suy nghĩ tính toán và dần dà sẽ
có một ý thức, thói quen về việc giành ra một khoản thu nhập để có một tơng lai an
toàn hơn cho chính mình.
Tiết kiệm của những ngời tham gia bảo hiểm liên quan chặt chẽ đến việc tập
chung vốn của các tổ chức bảo hiểm. Với những đặc điểm về phạm vi hoạt động, sự
phong phú trong các loại hình nghiệp vụ, khả năng tập chung vốn của các tổ chức
bảo hiểm rất dồi dào. Qua hoạt động bảo hiểm mà một lợng tiền lớn nằm phân tán,
dải dác trong dân c đã đợc tập chung về một tụ điểm tài chính, đặc biệt đó là hình
thành quỹ bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm.
Với đặc điểm trong kinh doanh bảo hiểm Phí nộp trớc, việc bồi thờng, trả tiền
bảo hiểm chỉ đợc thực hiện sau đó một thời gian, cho nên lợng vốn mà các tổ chức
bảo hiểm đã gom góp đợc phần lớn là có thời gian tạm thời nhàn rỗi. Vì thế, mọi tổ
chức bảo hiểm phải tính toán, đầu t linh hoạt số vốn đó để sinh lời đóng góp phần giá

trị thặng d cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Dù rằng những tổ chức bảo hiểm đợc
sinh ra không phải nhằm mục đích kinh doanh tiền tệ, nhng trong nền kinh tế thị tr-
ờng tổ chức bảo hiểm chỉ có thể Kinh doanh rủi ro trên cơ sở thực hiện song song
công việc đầu t tài chính.
Thức tế ở nhiều quốc gia phát triển, các tổ chức bảo hiểm hoạt động rất mạnh
trên thị trờng bất động sản, thị trờng chứng khoán đặc biệt là thị trờng vốn. Nh một
loại hình trung gian tài chính, các tổ chức bảo hiểm thu hút vốn, cung ứng vốn, góp
phần đáp ứng các nhu cầu về vốn, thúc đẩy sự tăng nhanh sự luân chuyển vốn, nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.
Bên cạnh những vấn đề đã nêu ở trên, vai trò của bảo hiểm còn thể hiện ở nhiều
mặt khác nh : Tác động đến sự phát triển các ngành kinh tế, khu vực kinh tế đặc biệt(
lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, khu vực kinh tế đối ngoại); góp phần vào sự đảm bảo
xã hội, tăng thu nhập ngân sách Nhà nớc, tăng tích luỹ tiền tệ cho nền kinh tế quốc
dân.
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2.3. Đặc trng củA ngành hoạt động Kinh doanh bảo hiểm.
Đặc trng cơ bản của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là sự kết hợp giữa hoạt
động kinh doanh bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm với các rủi ro đợc bảo hiểm.
Rủi ro đợc bảo hiểm: Chỉ là sự cố dự tính, nếu xảy ra gây thiệt hại hoặc ảnh h-
ởng đến đối tợng bảo hiểm sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thờng hoặc trả tiền bảo hiểm.
Những rủi ro đợc bảo hiểm thờng đợc nêu trong phạm vi bảo hiểm của qui tắc
bảo hiểm.
Phạm vi bảo hiểm: Là phạm vi giới hạn những rủi ro mà theo đó thoả thuận nếu
những rủi ro đó xảy ra ngời bảo hiểm sẽ chiụ trách nhiệm.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm do các doanh nghiệp thực hiện với t cách là ng-
ời bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm lập quỹ bảo hiểm trên cơ sở đóng góp phí
bảo hiểm của ngời tham gia bảo hiểm.
Ngời tham gia bảo hiểm: Là ngời có thân thể, tài sản trách nhiệm dân sự cần đ-
ợc bảo hiểm hoặc là ngời có nghĩa vụ tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp

luật. Ngời tham gia bảo hiểm có thể là pháp nhân hoặc là thế nhân, họ tham gia bảo
hiểm vì lợi ích của bản thân hoặc vì lợi ích của ngời khác. Để đợc hởng quyền lợi bảo
hiểm ngời tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm theo mức thoả thuận
cho bên bảo hiểm.
Phí bảo hiểm: Là giá cả của dịch vụ bảo hiểm. Phí bảo hiểm là khoản tiền mà
ngời tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ nộp cho doanh nghiệp bảo hiểm theo sự thoả
thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở thực hiện nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm, ngời tham gia bảo hiểm( nếu
đồng thời là ngời đợc bảo hiểm) sẽ đợc đền bù khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Sự kiện bảo hiểm: Là sự kiện khách quan, do các bên dự liệu trong hoạt động
bảo hiểm hoặc do pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra trên thực tế thì bên
bảo hiểm Doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho ngời có quyền hởng
quyền lợi bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm có thể là các rủi ro và cũng có thể là sự kiện
khác do các bên thoả thuận
Quỹ bảo hiểm: Đợc doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng để bồi thờng, bù đắp cho
những trờng hợp thuộc diện đợc bảo hiểm. Chính nhờ phơng thức thu phí bảo hiểm
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
của số đông và chỉ chi trả khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra trên thực tế mà tạo ra thu
nhập (lợi tức) cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm thuộc loại hình kinh doanh dịch vụ.
Ngời bảo hiểm không bán một sản phẩm hữu hình mà sản phẩm của công ty
bảo hiểm đợc quan niệm là một sản phẩm vô hình
Ngời sở hữu đơn bảo hiểm đợc cấp một văn bản, đơn bảo hiểm làm bằng chứng
cho việc xác lập một hợp đồng giữa ngời tham gia bảo hiểm và công ty bảo hiểm
cam kết trong hợp đồng là cam kết thanh toán bằng tiền (hoặc hàng hoá trong một số
trờng hợp) theo giá trị tơng đơng với một tổn thất (trong bảo hiểm phi nhân thọ) hoặc
một số tiền cụ thể nào đó (trong bảo hiểm nhân thọ).
Trong quỹ dự trữ hoặc tài sản của công ty bảo hiểm khônng có một khoản dặc
biệt nào mà chỉ đợc dùng để thực hiện trách nhiệm bảo hiểm cho một ngời đợc bảo

hiểm theo đơn bảo hiểm đã cấp.
3. Các hình thức hoạt động Kinh doanh bảo hiểm.
3.1. Kinh doanh bảo hiểm gốc.
Đây là một loại hình kinh doanh truyền thống của các doanh nghiệp bảo hiểm
trên thị trờng, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp ký hợp đồng bảo hiểm với
khách hàng là các tổ chức, cá nhân( không phải là một doanh nghiệp bảo hiểm) và
cam kết trả tiền bảo hiểm trực tiếp cho khách hàng khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
3.2. Kinh doanh tái bảo hiểm.
Kinh doanh Tái bảo hiểm là một loại hình kinh doanh bảo hiểm do các doanh
nghiệp tái bảo hiểm chuyên nghiệp thực hiện đối với khách hàng là các doanh nghiệp
bảo hiểm gốc trên cơ sở ký kết và thực hiện hợp đồng tái bảo hiểm với doanh nghiệp
bảo hiểm gốc.
Có hai hình thức tái bảo hiểm chính:
- Tái bảo hiểm tạm thời.
- Tái bảo hiểm cố định.
Mọi hoạt động tái bảo hiểm là tạm thời. Điều này có nghĩa là mỗi rủi ro mà
công ty bảo hiểm gốc mời chào cho công ty tái bảo hiểm thì công ty tái bảo hiểm đều
có thể quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận. Điều này liên quan rất nhiều đến
việc quản lý nh chúng ta có thể hình dung và do vậy rất tốn kém. Hình thức tái bảo
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hiểm cố định ngày càng trở nên phổ biến. Một thoả thuận sẽ đợc lập giữa công ty bảo
hiểm gốc và công ty tái bảo hiểm cam kết rằng, tất cả những rủi ro đáp ứng một số
tiêu chuẩn đã thoả thuận sẽ đợc chào (tái) cho công ty tái bảo hiểm.
Có hai dạng tái bảo hiểm cố định.
3.2.1. Tái bảo hiểm cố định theo tỉ lệ.
Theo phơng pháp tái bảo hiểm này, công ty bảo hiểm gốc quyết định tỷ lệ rủi ro
giữ lại là bao nhiêu và thảo thuận chuyển nhợng phần còn lại cho các công ty tái bảo
hiểm theo một hợp đồng cố định.
Có hai loại hợp đồng tái bảo hiểm theo tỷ lệ.

a. Tái bảo hiểm cố định số thành:
Theo hợp đồng tái bảo hiểm số thành, một tỷ lệ cố định của bất cứ tổn thất nào
đã xác định trong hợp đồng đợc tái bảo hiểm.
Ví dụ: Một công ty bảo hiểm gốc có thể đồng ý tái bảo hiểm 80%.
Do vậy, nếu số tiền bảo hiểm cho một rủi ro là 1.000.000 VND thì công ty bảo
hiểm gốc giữ lại 200.000 và tái bảo hiểm 800.000 VND.
b. Hợp đồng tái bảo hiểm mức dôi.
Một cách thức khác để tái bảo hiểm tỷ lệ cố định của mọi tổn thất là công ty
bảo hiểm gốc quyết định mỗi rủi ro công ty giữ lại là bao nhiêu. Số này đợc gọi là
mức giữ lại và đợc tính toán trên tổn thất tài chính dự kiến. Đa số các trờng hợp công
ty bảo hiểm phải tính toán khả năng tổn thất tối đa có thể xảy ra và điều này sẽ đợc
thực hiện bằng cách xem xét tất cả những nguy cơ có liên quan đến rủi ro. Công ty
bảo hiểm gốc sau đó có thể thu xếp việc tái bảo hiểm theo các lớp. Mỗi một lớp tơng
đơng với mức giữ lại của công ty bảo hiểm gốc.
3.2.2 Tái bảo hiểm cố định phi tỷ lệ.
Các phơng pháp tái bảo hiểm theo tỷ lệ liên quan dến các tỷ lệ của giá trị chịu
rủi ro. Các phơng pháp tái bảo hiểm phi tỷ lệ nhìn nhận theo cách khác và đợc dựa
trên các tổn thất chứ không phải là số tiền bảo hiểm.
Công ty nhận tái bảo hiểm đồng ý thanh toán một số tiền vợt mức hay quá số
tiền mà công ty bảo hiểm gốc đồng ý thanh toán hoặc giữ lại.
Hợp đồng tái bảo hiểm phi tỷ lệ có hai loại.
a. V ợt mức bồi th ờng .
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Theo phơng pháp này, các bên thảo thuận là công ty nhợng tái bảo hiểm thanh
toán số tiền cố định đầu tiên của các tổn thất phát sinh từ một sự cố và công ty nhận
tái bảo hiểm thanh toán số tiền cố định vợt quá mức giữ lại.
b. V ợt tỷ lệ bồi th ờng .
Phơng pháp tái bảo hiểm này thực hiện việc bảo vệ cho toàn bộ cho các rủi ro
chứ không phải bảo vệ cho các tổn thất đơn lẻ. Khi tỷ lệ tổn thất cho một loại nghiệp

vụ bảo hiểm vợt quá con số cụ thể thì công ty tái bảo hiểm đồng ý thanh toán. Tỷ lệ
tổn thất là tỷ lệ khiếu nại theo phần trăm của phí bảo hiểm. Do vậy phí bảo hiểm là
100.000VND một khiếu nại thanh toán là 50.000VND. tỷ lệ tổn thất là 50%.
Khi tỷ lệ này vợt quá một con số nhất định, công ty tái bảo hiểm sẽ không sẵn
sàng bồi thờng toàn bộ tổn thất vợt quá tỷ lệ đã đợc thoả thuận vì điều này sẽ không
khuyến khích công ty bảo hiểm gốc thận trọng trong việc đánh giá rủi ro giải quyết
khiếu nại của họ.
3.3. Kinh doanh môi giới bảo hiểm.
Hoạt động môi giới bảo hiểm là việc cung cấp thông tin, t vấn cho bên mua bảo
hiểm, điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và các công
việc liên quan đến việc đàm phán, thu xếp và thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu
cầu của bên mua bảo hiểm.
Ngời môi giới bảo hiểm có thể là một cá nhân hoặc một công ty bảo hiểm mà
toàn bộ thời gian làm việc của họ là thu xếp để khách mua bảo hiểm ký kết hợp đồng
với các công ty bảo hiểm.
Ngời đợc bảo hiểm có thể nhận đợc sự t vấn độc lập từ một ngời môi giới về
một loạt vấn đề bảo hiểm mà không phải trả phí trực tiếp cho ngời môi giới.
Ví dụ: Một ngời môi giới bảo hiểm sẽ t vấn về các nhu cầu bảo hiểm, các hoạt
động bảo hiểm tốt nhất và những hạn chế chúng, về thị trờng bảo hiểm tốt nhất, các
thủ tục khiếu nại, nghĩa vụ của ngời đợc bảo hiểm theo các điều kiện của đơn bảo
hiểm và ngời môi giới sẽ cập nhật các thông tin theo thời gian bao gồm cả những
thay đổi của thị trờng.
Theo quan điểm của các công ty bảo hiểm, những cuộc đàm phán với ngời môi
giới thờng dễ dàng hơn và nhanh chóng hơn so với việc tiếp xúc trực tiếp với ngời
mua bảo hiểm.
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ở Việt Nam hiên nay mới có một công ty liên doanh môi giới bảo hiểm, đó là
công ty Aon Inchinbrok thành lập năm 1993( vốn điều lệ 250.000 USD). Đây là
công ty liên doanh giữa một bên là Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam (BAOVIET) và

bên nớc ngoài là tập đoàn Môi giới bảo hiểm Aon của Mĩ.
II. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp đối với hoạt động Kinh
doanh bảo hiểm.
1.Những ảnh hởng của hoạt động kinh doanh Bảo hiểm đối
với nhà nớc, nền kinh tế x hội.ã
Trong điều kiện kinh tế nớc ta hiện nay, bảo hiểm đợc coi là giải pháp bồi thờng
vật chất cho những thiệt hại rủi ro cho con ngời, đồng thời là phơng pháp tích tụ vốn
để phân phối lại cho các nhu cầu đầu t vào nền kinh tế đang cần vốn. ở các nớc phát
triển, ngành kinh doanh bảo hiểm đóng góp từ 5% đến 10% GDP của các nớc đó,
đồnh thời là một cônh cụ điều hoà và phân phối vốn khá hiệu quả của nền kinh tế.
Từ khi nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi sang cơ chế thị trờng thì hoạt động
kinh doanh bảo hiểm cũng có bớc phát triển vợt bậc. Mức tăng trởng của ngành kinh
doanh bảo hiểm đã đạt bình quân 40%/ năm trong những năm 1990 - 1995 và từ
1996 - 1999 đạt mức độ tăng trởng 25%/ năm.
Bảo hiểm là một hoạt động kinh tế quan trọng trên cơ sở xây dựng quỹ bảo
hiểm để bồi thờng và trả tiền bảo hiểm cho những tổn thất vì tai nạn, rủi ro về tài sản
hoặc con ngời. Bảo hiểm có nhiều chức năng nh đề phòng, hạn chế tổn thất, bồi th-
ờng thiệt hại, hỗ trợ cho sản xuất xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tập chung vốn
để xây dựng kinh tế. Bảo hiểm là sản phẩm của sự phát triển kinh tế hàng hoá, đồng
thời cũng là biện phát thúc đẩy và đảm bảo cho nền kinh tế hàng hoá phát triển. Tất
cả những nớc và khu vực có nền kinh tế phát triển đều coi trọng hoạt động kinh
doanh bảo hiểm và coi hoạt động kinh doanh bảo hiểm nh một cỗ máy ổn định xã
hội tinh xảo. Trong giai đoạn này, đi đôi với việc phát triển kinh tế thị trờng theo
định hớng Xã Hội Chủ Nghĩa, Nhà nớc cũng cần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh
bảo hiểm để xây dựng quỹ dự trữ bồi thờng tổn thất bất ngờ nhằm đảm bảo cho việc
thực hiện kế hoạch xây dựng kinh tế đất nớc và ổn định cuộc sống nhân dân.
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một loại hình kinh doanh không thể thiếu
trong một nền kinh tế đang phát triển và đang rất cần rất nhiều vốn cũng nh cần có sự

an toàn cao, rủi ro ít nh nớc ta.
1.1. Bảo hiểm có tác dụng đảm bảo sự an toàn và ổn định cho đời sống kinh
tế xã hội ở nớc ta trong giai đoạn chuyển đổi.
ở nớc ta, hàng năm có một số vùng thờng xuyên bị thiên tai đe doạ nhng nhờ có
bảo hiểm mà các Doanh nghiệp , các tổ chức kinh tế xã hội và dân c đã đợc bồi thờng
kịp thời, tránh đợc tình trạng gián đoạn trong sản xuất, kinh doanh, bảo đảm việc xây
dựng kinh tế nớc nhà. Trong năm 1996 Tổng Công ty bảo hiểm Việt nam
( BAOVIET) đã giải quyết bồi thờng hơn 400.00 vụ tổn thất trong đó có một số vụ
tổn thất lớn đã đợc BAOVIET bồi thờng nh :

Vụ việc. Số tiền bồi thờng.
- Vụ tổn thất về khống chế giếng dầu 9.000.000 USD.
của hãng AEDC
- Vụ tổn thất toàn bộ một máy bay lên 1.600.000 USD.
.thẳng.
- Vụ tổn thất hàng Xuất khẩu bột mỳ do 1.500.000 USD.
chở trên tàu bị mất tích.
- Vụ tổn thất cháy nhà máy giầy An Đỉnh 1.000.000 USD.
Hải Phòng
- Bồi thờng về trách nhiệm dân sự chủ tàu 16,5 tỷ đồng VN.
Trờng Sa đối với hu hỏng đờng ống dẫn khí.
Nhằm mục đích chủ động và tích cực đề phòng và hạn chế tổn thất, BAOVIET
đã cùng ngành giao thông vận tải tài trợ cho việc xây dựng một nhánh đờng lánh nạn.
Cho đến nay, đã có gần 20 nhánh đờng lánh nạn đợc xây dựng với sự đóng góp tài
trợ của BAOVIET với số vốn đầu t tới hàng trăm triệu đồng. Nhờ những con đờng
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lánh nạn đó mà hàng chục xe chở khách đã đợc cứu thoát khỏi tai nạn, nhiều sinh
mạng đã đợc cứu thoát khởi lỡi hái của tử thần.
1.2. Hoạt động Kinh doanh bảo hiểm là giải pháp đảm bảo sự an toàn cho các

nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trờng.
Trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, các doanh nghiệp trở thành nhân tố chủ
yếu thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự an toàn trong kinh doanh của các doanh
nghiệp phải do chính doanh nghiệp phải lo liệu và Nhà nớc không thể bao cấp cho
những tổn thất và rủi ro xảy ra cho doanh nghiệp. Vì vậy, chỉ có thể tham gia bảo
hiểm thì doanh nghiệp mới đảm bảo cho những hoạt động sản xuất và kinh doanh
của mình đợc thực hiện thuận lợi.
1.3. Bảo hiểm có lợi cho việc thực hiện bảo toàn vốn vay của Ngân hàng th-
ơng mại một cách thuận lợi, bảo toàn cho việc luân chuyển vốn vay.
Trong thời kỳ đổi mới cơ chế kinh tế ở nớc ta, một phần vốn cần dùng cho
doanh nghiệp đợc cung cấp từ khoản tiền vay của ngân hàng. Nhng khi doanh nghiệp
bị tai nạn rủi ro, việc đó chẳng những ảnh hởng tới khả năng hoàn trả khoản tiền vay
đã hết hạn mà còn yêu cầu ngân hàng tiếp tục cho vay, nhằm đáp ứng đầy đủ số vốn
cần dùng ngay để doanh nghiệp khôi phục sản xuất. Nếu doanh nghiệp bị tai nạn rủi
ro đã kịp thời nhận đợc tiền bồi thờng bảo hiểm, đã nhanh chóng khôi phục sản xuất
và kinh doanh và cũng có thể hoàn trả vốn vay ngân hàng.
2. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt
động Kinh doanh bảo hiểm.
Hiện nay do hoạt động kinh doanh bảo hiểm ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong cuộc sống nên sự can thiệp của Nhà nớc bằng pháp luật đối với hoạt động kinh
doanh này là cần thiết.
Để đáp ứng yêu cầu khách quan của việc phát triển thị trờng bảo hiểm, Nhà nớc
đã ban hành Luật Kinh doanh Bảo hiểm (Luật này đợc Quốc hội thông qua ngày
09/12/2000 ).
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ch ơng ii
mô hình pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm ở Việt nam
trong giai đoạn hiện nay.
I. những qui định pháp lý đối với chủ thể tham gia giao dịch trên

thị trờng bảo hiểm.
1. Qui chế pháp lý của Doanh nghiệp bảo hiểm.
1.1.Khái niệm Doanh nghiệp bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm là pháp nhân đợc thành lập theo những điều kiện và
trình tự do luật định, chuyên hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhằm mục đích tạo ra
thu nhập và lợi nhuận.
1.2. Các đặc điểm của Doanh nghiệp bảo hiểm.
1.2.1. Doanh nghiệp bảo hiểm đợc thành lập theo những điều kiện và trình tự do
luật định.
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Doanh nghiệp bảo hiểm gắn bó chặt chẽ với quốc kế dân sinh, đợc coi là một tổ
chức kinh doanh ngành nghề đặc biệt, giữ một vai trò quan trọng trong đời sống kinh
tế và phải đợc thành lập theo đúng pháp luật.
Điều 63 Luật Kinh doanh Bảo hiểm đã đợc Quốc hội nơc Cộng Hoà XHCN
Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 09/12/200 quy định Điều kiện để
đợc cấp giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm;
Các điều kiện để đợc cấp giấy phép thành lập và hoạt động kinh doanh bảo
hiểm bao gồm:
1, Có số vốn điều lệ đã góp không đợc thấp hơn mức vốn pháp định theo quy
định của Chính phủ.
Mức vốn pháp định của Doanh nghiệp bảo hiểm và tổ chức môi giới bảo hiểm
đợc quy định nh sau: Doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, Công ty liên doanh bảo
hiểm: 20 tỷ đồng Việt nam hoặc 2 triệu đô la Mĩ(Khoản 1 Điều 22 Nghị định
100/CP, ngày 18/12/1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm)
2, Có hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định tại Điều 64
Luật Kinh doanh Bảo hiểm.
3, Có loại hình doanh nghiệp và điều lệ phù hợp với quy định của Luật kinh
doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật.
4, Ngời quản trị, ngời điều hành có năng lực quản lý chuyên môn nghiệp vụ về

bảo hiểm.
1.2.2. Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động nhằm mục đích kinh doanh có lãi.
Việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm thu đợc lợi ích
kinh tế. Mục đích của ngời bỏ tiền vốn ra hoặc những ngời góp vốn cổ phần để thành
lập doanh nghiệp bảo hiểm nhằm thông qua con đờng hoạt động kinh doanh bảo
hiểm của doanh nghiệp để thu lợi nhuận. Việc kinh doanh của doanh nghiệp bảo
hiểm cũng đợc tự chủ trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm những nghiệp vụ cần bảo
hiểm nhằm nâng cao hiệu quả và thực hiện tăng thêm giá trị tài sản, dới sự kiểm soát
vĩ mô của Nhà nớc, theo sự đòi hỏi của thị trờng. Đây cũng là sự khác nhau cơ bản
giữa hình thức doanh nghiệp bảo hiểm với các hình thức tổ chức khác về Bảo hiểm xã
hội, Bảo hiểm y tế của nhà nớc.
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2.3. Nôi dung kinh doanh của Doanh nghiệp bảo hiểm là những nghiệp vụ bảo
hiểm.
Nghiệp vụ bảo hiểm là một loại hoạt động kinh doanh có tính chất giúp đỡ lẫn
nhau dới hình thức công ty sử dụng quỹ bảo hiểm đợc lập ra bằng cách thu phí bảo
hiểm, để bồi thờng hoặc trả tiền bảo hiểm cho ngời đợc bảo hiểm hoặc ngời đợc hởng
quyền lợi bảo hiểm khi xảy ra thiên tai hoặc tai nạn bất ngờ.
1.2.4. Doanh nghiệp bảo hiểm là một pháp nhân có tính chất xã hội và có tính
chất liên hiệp.
Doanh nghiệp bảo hiểm tiếp nhận rủi ro trách nhiệm với khách hàng rất lớn vì
vậy trên thế giới không có loại doanh nghiệp bảo hiểm t nhân, cá nhân. Bởi vì nếu cá
nhân đó gặp tai nạn rủi ro, thì không có ngời giải quyết tiếp các trách hiệm đã nhận,
vì vậy ít nhất doanh nghiệp bảo hiểm phải là một pháp nhân liên hiệp một số cá nhân
để luôn luôn có ngời gánh vác trách nhiệm của doanh nghiệp với khách hàng của họ.
1.2.5. Doanh nghiệp bảo hiểm là pháp nhân có tính cách riêng biệt.
Doanh nghiệp bảo hiểm là tổ chức kinh tế có tài sản, bộ máy tổ chức riêng và tự
chịu trách nhiệm về tài sản, có t cáh là chủ thể dân sự độc lập, đợc hởng quyền lợi
dân sự và có nghĩa vụ dân sự riêng biệt theo pháp luật.

Hình thức tổ chức của doanh nghiệp bảo hiểm quyết định điều kiện và trình tự
thành lập, phơng thức tập chung vốn và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp này. Nghị
định 100/CP Kinh doanh bảo hiểm quy định: Doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm
Doanh nghiệp Nhà nớc, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp tơng hỗ, Công ty liên doanh
bảo hiểm, chi nhánh của tổ chức bảo hiểm nớc ngoài, Doanh nghiệp bảo hiểm 100%
vốn nớc ngoài hoạt đọng trên lãnh thổ Việt Nam.
1.3. Thành lập và đăng ký kinh doanh đối với Doanh nghiệp bảo hiểm.
1.3.1. Thành lập Doanh nghiệp bảo hiểm.
Việc thành lập doanh nghiệp bảo hiểm phải đợc thực hiện theo đúng điều kiện
và trình tự do luật định và phải có đủ một số vốn nhất định. ở nớc ta, Chính phủ
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thống nhất quản lý Nhà nớc về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Bộ Tài chính là cơ
quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nớc về hoạt động kinh doanh
bảo hiểm.
Vì vậy khi thành lập doanh nghiệp bảo hiểm, trớc hết phải xin phép Bộ Tài
chính xét duyệt về việc này. Các điều kiện cần thiết để Bộ Tài chính xét duyệt cấp
giấy Chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm( gọi tắt
là giấy chứng nhận) đã đợc quy định trong Luật Kinh doanh bảo hiểm đợc Quốc hội
thông qua ngày 09/12/200 tại Điều 63. Còn Điều 64 quy định cụ thể về Hồ sơ xin
cấp giấy phép thành lập và hoạt động và Điều 60 quy định Nội dung hoạt động
của doanh nghiệp bảo hiểm.
Quản lý chặt chẽ doanh nghiệp bảo hiểm, không cho phép những doanh nghiệp
cha đợc phép đăng ký mà đã kinh doanh bảo hiểm là nguyên tắc chung trong Luật
Kinh doanh bảo hiểm ở nhiều nớc trên thế giới.
Khi thành lập doanh nghiệp bảo hiểm phải có đủ số vốn theo luật định. Điều 22
Nghị định 100/CP quy định mức vốn pháp định của Doanh nghiệp bảo hiểm và tổ
chức môi giới bảo hiểm nh sau:
1- Doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam , công ty liên doanh bảo hiểm: 20tỷ
đồng Việt Nam hoặc 2 triệu đô la Mĩ.

2- Chi nhánh của tổ chức bảo hiểm nớc ngoài, công ty bảo hiểm 100% vốn
nớc ngoài: 5 triệu đô la Mĩ.
3- Tổ chức môi giới bảo hiểm Việt nam, công ty liên doanh môi giới bảo
hiểm: 1 tỷ đồng Việt nam hoặc 100 ngàn đô la Mĩ.
4- Chi nhánh của tổ chức môi giới bảo hiểm nớc ngoài, công ty môi giới
bảo hiểm 100% vốn nớc ngoài: 300 đô la Mĩ.
Vốn đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm là vốn mà doanh nghiệp
đã ghi vào điều lệ tổ chức hoạt động của doanh nghiệp đăng ký. Nguồn vốn này là cơ
sở vật chất để doanh nghiệp kinh doanh, đồng thời cũng là sự bảo lãnh bằng tài sản
của ngời chủ nợ và còn là hạn mức về trách nhiệm đóng góp của ngời góp cổ phần
vào doanh nghiệp.
Tính chất kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm đã quyết định số vốn của
doanh nghiệp bảo hiểm phải cao hơn doanh nghiệp cùng loại, mới có đủ năng lực để
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thực hiện trách nhiệm tài chính đối với khách hàng. Hơn nữa, vốn của doanh nghiệp
bảo hiểm còn khác với các doanh nghiệp ngành nghề khác ở chỗ vốn này phải là vốn
thực nộp bằng tiền. Các cổ đông của các doanh nghiệp ngành nghề khác có thể góp
vốn bằng tiền cũng có thể góp vốn bằng hiện vật, quyền sở hữu công nghiệp, quyền
sở hữu đất đai... Còn đối với những ngời góp vốn hoặc ngời góp cổ phần vào doanh
nghiệp bảo hiểm, phần vốn góp thực nộp bằng tiền mặt trong đó phải đạt đủ mức vốn
pháp định.
1.3.2. Đăng ký kinh doanh của Doanh nghiệp bảo hiểm.
Về nguyên tắc, sau khi đợc cấp giấy phép thành lập, Doanh nghiệp bảo hiểm
phải tiến hành đăng ký kinh doanh theo luật định.
1.3. Cơ cấu tổ chức, quản trị và điều hành Doanh nghiệp bảo hiểm.
1.4.1. Cơ cấu tổ chức.
Các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên sự góp vốn của nhiều ngời cùng làm
việc với nhau, vì vậy để hoạt động đạt đợc mục tiêu chung, cần phải phân cho mỗi
ngời một vai trò nhất định. Tổ chức là sự liên kết những cá nhân, những quá trình,

những hoạt động trong hệ thống nhằm thực hiện mục tiêu đề ra trên các nguyên tắc
và quy tắc quản trị quy định.
Cơ cấu tổ chức là hình thức tồn tại của tổ chức, biểu thị việc sắp xếp các bộ
phận đợc chuyên môn hoá với những trách nhiệm, quyền hạn nhất định, có mối liên
hệ mật thiết với nhau và đợc bố trí theo những cấp, những khâu khác nhau nhằm thực
hiện các chức năng quản lý.
Cơ cấu tổ chức quản lý tốt sẽ đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp có hiệu
quả và đối phó với mọi biến động của thị trờng.
Nguyên tắc hình thành cơ cấu tổ chức: cơ cấu tổ chức phải đi theo và đáp ứng
nhu cầu của chiến lợc kinh doanh, tính tối u, tính linh hoạt, tính tin cậy và tính kinh
tế.
Các nhân tố tác động đến cơ cấu tổ chức là chiến lợc của doanh nghiệp bảo
hiểm, nhiệm vụ của doanh nghiệp, công nghệ, môi trờng kinh doanh và mối quan hệ
phụ thuộc giữa số lợng ngời bị quản lý và khả năng kiểm tra của ngời lãnh đạo.
Để thiết kế cơ cấu tổ chức một cách hoàn chỉnh và có hiệu quả, thì phải xem xét
kĩ lỡng các điều kiện liên quan môi trờng, chiến lợc công nghệ... của doanh nghiệp.
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Vì vậy cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp bảo hiểm không có tính cứng nhắc, mà có
thể thay đổi tuỳ thuộc vào các điều kiện ảnh hởng.
Hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm đợc tổ chức theo:
Văn phòng chính: có trách nhiệm xác định chính sách tổng thể và điều hành
các hoạt động của doanh nghiệp.
Các văn phòng chi nhánh: có trách nhiệm kinh doanh dịch vụ đối với khách
hàng và thanh toán dàn xếp các khoản bồi thờng.
Do tính phân bố rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp nên rất khó miêu tả
mẫu chuẩn cơ cấu tổ chức. Nhng nhìn chung, các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động
theo nguyên tắc:
a. Văn phòng chính.
Văn phòng chính thờng đặt tại Thủ đô hoặc một trong các thành phố chính

(còn gọi là tổng công ty).
Cao nhất là Ban giám đốc, những ngời không nhất thiết phải đợc đào tạo chuyên
môn bảo hiểm, nhng phải là những ngời giỏi trong công nghiệp hoặc thơng mại. Họ
sử dụng kiến thức chuyên môn của mình để đa ra các quyết định chung nhất có liên
quan đến các vấn đề trong hoạt động của công ty và quyết định về đầu t các quỹ theo
quy định kinh doanh bảo hiểm.
Trởng ban điều hành công ty bảo hiểm thờng gọi là Tổng giám đốc và có trách
nhiệm đối với hoạt động của công ty. Thờng có một vài Phó Tổng giám đốc giúp việc
cho Tổng giám đốc.
21
TổNG GIáM ĐốC
Chi
nhánh
Tổ
chức
ban giám đốc
Đầu
t
Tai nạn
và cháy
Hàng
hải
Nhân
thọ
Kế
toán
Tổng
hợp
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong một công ty bảo hiểm nói chung thờng có Giám đốc(hoặc trởng phòng)

phụ trách bảo hiểm hoả hoạn, Giám đốc( trởng phòng) phụ trách bảo hiểm tai nạn và
bộ phận khai thác hàng hải chịu trách nhiệm trong phạm vi khai thác thuộc công việc
của mỗi bộ phận khai thác và quản lý bồi thờng.
b. Văn phòng chi nhánh( còn gọi là công ty hay chi nhánh công ty)
Tổ chức tại văn phòng chi nhánh thờng khác với văn phòng chính: Đây là đơn vị
trực tiếp giao dịch với bên ngoài thông qua các nhân viên và các đại diện.
...

Giám đốc văn phòng chi nhánh có trách nhiệm đối với hoạt động của công ty
trong phạm vi địa lý mà chi nhánh kiểm soát. Giúp việc cho Giám đốc có thể là một
vài Phó giám đốc.
Công việc tại văn phòng chi nhánh đợc chia thành các phòng dới sự kiểm soát
của các giám sát( hoặc trởng phòng).
Mặt khác, do đặc trng của ngành bảo hiểm nên các nhà bảo hiểm mở rất nhiều
chi nhánh và các cấp bên dới các chi nhánh, có thể gọi là văn phòng khu vực( hoặc
văn phòng đại diện) dù cho việc phát triển các chi nhánh thỉnh thoảng bị chỉ trích là
lãng phí.
Nh vậy một công ty bảo hiểm có thể khái quát mô hình cơ cấu tổ chức nh sau:

...

22
giám đốc chi nhánh
Nhân viên
đại lý và
quản lý
viên
Thanh tra
viên
Nhân viên

hành chính
Nhân
viên đầu
t
Nhân sự
Văn phòng chính
Văn phòng chi
nhánh A
Văn phòng chi
nhánh B
Văn phòng chi
nhánh C
Văn phòng
khu vực A
Văn phòng
khu vực B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
... ...

Tuy nhiên, nh ta đã biết, cơ cấu tổ chức của một công ty bảo hiểm phụ thuộc rất
nhiều yếu tố và có thể thay đổi. Vì vậy, thông thờng các công ty bảo hiểm thờng có
các cơ cấu tổ chức đợc phân chia theo 3 nhóm theo chức năng, theo sản phẩm và theo
lãnh thổ. Công ty bảo hiểm có thể sử dụng một trong ba cách tổ chức này hoặc kết
hợp các cách cho phù hợp với công ty mình.
Cách thứ 1 : Tổ chức theo chức năng.
Nếu một công ty đợc tổ chức theo chức năng, thì các phòng, ban chính của công
ty sẽ đợc tổ chức theo công việc mà bộ phận đó tiến hành thực hiện. Tên phòng, ban
nhìn chung đợc sử dụng để miêu tả một loạt công việc rõ rệt, một bớc thiết yếu của
một quả trình hoặc một khía cạnh nào đó của công việc quản lý, điều hành với một
trình độ kỹ thuật đặc biệt mà nó đòi hỏi. Các chức năng chính của công ty bảo hiểm

nhân thọ là marketing, thẩm định và phân loại rủi ro, dịch vụ khách hàng, giải quyết
khiếu nại, đầu t, kế toán, hệ thống thông tin, luật và nhân lực.
sơ đồ tổ chức theo chức năng.
Cách thứ 2 : Tổ chức theo sản phẩm.
Nếu một công ty đợc tổ chức theo sản phẩm, thì công việc của nó đợc tổ chức
theo loại hình bảo hiểm của công ty. Mỗi loại hình bảo hiểm đợc quản lý bởi một
phòng của công ty. Kết quả là phòng bảo hiểm nhân thọ chịu trách nhiệm marketing,
23
Giám đốc điều hành
Ban kế toán Hệ thống thông tin
Phòng cán bộ Phòng chuyên giá
bảo hiểm
Marketing
tiếp thị
Thẩm
định và
đánh giá
rủi ro
Định giá
bảo hiểm
Actuarial
Đầu t
Dịch vụ
khách
hàng
Giải
quyết
khiếu
nại
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

khai thác và các hoạt động dịch vụ của mình. Tuy nhiên, chức năng đầu t và các chức
năng khác do bộ phận quản lý trung tâm đảm nhiệm. Tổ chức theo sản phẩm có xu h-
ớng dẫn tới việc phân cấp mạnh mẽ hơn, và các nhân viên đợc phép ra nhiều quyết
định hơn, nhng nhân viên này chính là những ngời có quan hệ trực tiếp và sâu sắc đối
với một loại sản phẩm đặc biệt nào đó.

sơ đồ tổ chức theo sản phẩm
24
Giám đốc điều hành
Ban kế toán Hệ thống thông tin
Phòng nhân lực Phòng chuyên môn
định giá bảo hiểm
Bảo hiểm
theo nhóm
Đầu t Bảo hiểm
cá nhân
Marketing
tiếp thị
Dịch vụ
khách
hàng
Thẩm
định và
đánh giá
rủi ro
Định giá
bảo hiểm
Giải
quyết
khiếu nại

Marketing Dịch vụ
khách
hàng
Khai
thác
Định giá
bảo hiểm
Giải
quyết
khiếu nại
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Cách thứ 3: Tổ chức theo lãnh thổ.
Nếu một công ty đợc tổ chức theo lãnh thổ, thì các bộ phận chủ yếu của nó đợc
xác định theo khu vực địa lý, mà tại đó nó hoạt động. Một công ty kinh doanh tại
Việt Nam, có thể có các bộ phận Bắc, bộ phân Nam, tức là hoạt động của nó là trong
phạm vi các tỉnh của đất nớc. Trong mỗi bộ phận hoạt động theo lãnh thổ, thì hoạt
động của nó có thể chia nhỏ theo loại sản phẩm hoặc chức năng.
Giám đốc điều hành của mỗi văn phòng khu vực sẽ báo cáo lên Tổng Giám đốc
của công ty. Hoạt động của văn phòng khu vực bao gồm khai thác phát hành đơn bảo
hiểm, thu phí bảo hiểm, giải quyết khiếu nại, dịch vụ cho khách hàng, giám sát và hỗ
trợ cho các hoạt động marketing của vùng.

sơ đồ tổ chức theo l nh thổ.ã
25
Giám đốc điều hành
Các văn phòng khu
vực
Trụ sở chính của
Tập đoàn
Phòng kế

toán
Hệ thống
thông tin
Luật
Phòng
nhân lực
Đầu t
Định giá
bảo hiểm
Ban
kế toán
Hệ thống
thông tin
Định giá
bảo hiểm
Phòng
nhân lực
Bảo hiểm cá
nhân
Bảo hiểm
theo nhóm

×