Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.5 KB, 11 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là một chỉnh thể các thể chế pháp lý và
các thiết chế của nhà nước có liên quan đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước của các
cơ quan nhà nước, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, cùng vận hành nhằm ngăn ngừa,
loại bỏ những hành vi vi phạm của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, bảo đảm
cho quyền lực nhà nước được tổ chức và thực hiện theo đúng Hiến pháp và pháp luật.
Trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước
đã được hiến định và bổ sung thêm cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, Khoản 3
Điều 2 Hiếp pháp 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Qua đó đã tạo nền tảng pháp lý cho cơ chế kiểm soát
quyền lực bên trong bộ máy nhà nước dựa trên việc phân công mạch lạc nhiệm vụ,
quyền hạn của các quyền để tạo cơ sở cho cơ chế kiểm soát quyền lực.
PHẦN II: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ KIỂM SỐT
QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm về chính trị, quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước:
- Chính trị là hoạt động của các chủ thể quyền lực (các giai cấp, các nhóm, các
cá nhân..v.v.) nhằm giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước; là
sự tham gia của người dân vào công việc của nhà nước, của xã hội. Các yếu tố cấu
thành một nền chính trị bao gồm: (1) Hệ tư tưởng chính trị; (2) Thể chế chính trị; (3)
Hệ thống chính trị.
- Quyền lực chính trị là năng lực của một chủ thể trong việc áp đặt mục tiêu
chính trị của mình đối với tồn xã hội. Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai
cấp (hay liên minh giai cấp), của một lực lượng xã hội. Bản chất của quyền lực chính
trị là quan hệ sức mạnh giữa các giai cấp trong việc giành, giữ, thực thi quyền lực nhà
nước hoặc gây áp lực đối với quyền lực nhà nước.
- Quyền lực nhà nước là quyền lực chung của cộng đồng, được tổ chức thành
nhà nước nằm trong tay một giai cấp, lực lượng nhất định trong xã hội. Khi nói đến
quyền lực nhà nước là nói đến khả năng, năng lực của nhà nước để nhà nước áp đặt ý
1



chí (ý chí này vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã hội) của mình lên các chủ thể
trong xã hội trên phạm vi lãnh thổ quốc gia nhằm thực hiện các chức năng vốn có của
nhà nước. Quyền lực nhà nước mang tính pháp lý và được bảo đảm thực hiện bằng hệ
thống các công cụ bạo lực của nhà nước.
Bất kỳ quyền lực nhà nước nào cũng mang tính chính trị, cũng là quyền lực
chính trị, nhưng khơng phải mọi quyền lực chính trị đều là quyền lực nhà nước – nghĩa
là có loại quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền (nắm quyền lực nhà nước) và
quyền lực chính trị của giai cấp chưa cầm quyền (chưa nắm quyền lực nhà nước).
2. Khái niệm về kiểm soát quyền lực nhà nước
Kiểm soát quyền lực nhà nước là hoạt động có chủ đích của nhà nước và xã hội,
với tổng thể những phương tiện tổ chức và pháp lý thơng qua các hình thức kiểm sốt
bên trong, kiểm sốt bên ngồi nhằm hạn chế những nguy cơ sai phạm cũng như hành
vị lộng quyền của cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước được thực
hiện đúng mục đích, khoa học, hiệu lực và hiệu quả.
3. Nội dung của kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta
3.1. Các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Kiểm sốt quyền lực nhà nước ln gắn với một chủ thể, đối tượng nhất định
với nội dung và hình thức khác nhau. Thực chất của quá trình kiểm soát quyền lực nhà
nước ở nước ta là tổng hợp các công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, của các cơ quan
trong hệ thống chính trị và của nhân dân, cụ thể: cơ chế giám sát của Đảng, cơ chế
giám sát tối cao của Quốc Hội, cơ chế giám sát của Chính phủ, cơ chế giám sát của
Tịa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, cơ chế giám sát của Mặt trận Tổ quốc, cơ
chế giám sát của chính quyền địa phương, cơ chế giám sát của Nhân dân.
3.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung của kiểm soát quyền lực nhà nước
Kiểm soát quyền lực nhà nước luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định, tức là
đối tượng có quyền thực hiện nhiệm vụ kiểm sốt và đối tượng nào sẽ là đối tượng
chịu tác động của kiểm soát quyền lực nhà nước. Giám sát được tiến hành bởi chủ thể
là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với một hay nhiều cơ quan nhà nước khác.
Ở nước ta đó là hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội đối với chính phủ, Tòa án

2


nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, là hoạt động giám sát của cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương đối với các cơ quan nhà nước ở địa phương và còn
là hoạt động giám sát của Tòa án đối với bộ máy nhà nước thông qua hoạt động xét
xử. Các phương pháp, cách thức mà loại hình giám sát này áp dụng ln ln mang
tính quyền lực nhà nước.
Ngồi ra chủ thể kiểm sốt quyền lực nhà nước cịn. Giám sát khơng mang tính
quyền lực nhà nước (cịn gọi là giám sát mang tính nhân dân) bao gồm các hoạt động
giám sát của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, thanh tra
nhân dân và cơng dân hay cịn gọi là Giám sát khơng mang tính quyền lực nhà nước
(giám sát mang tính nhân dân).
3.2.1. Kiểm tra của Đảng
Cơng tác kiểm tra của Đảng là tồn diện, kiểm tra cơng việc, kiểm tra tổ chức
và cá nhân đảng viên.
Về chủ thể: Cơng tác kiểm tra là của tồn đảng, trong đó nổi bật hai chủ thể cấp
ủy và Ủy ban kiểm tra. Ngồi ra cịn có các chủ thể khác là các ban tham mưu của cấp
ủy, cá nhân đảng viên... mỗi chủ thể có khách thể và nội dung kiểm tra riêng.
Về đối tượng: Kiểm tra mọi tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vị lãnh đạo
và quản lý của cấp ủy trước hết là tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp và đảng viên thuộc
diện cấp ủy mình quản lý, nhất là cán bộ tham gia các cương vị chủ chốt hoặc được
giao các nhiệm vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước ở các địa bàn trọng điểm dễ phát
sinh vi phạm.
Về nội dung kiểm tra: Kiểm tra việc chấp hành cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp trên và của cấp mình về mọi lĩnh vực hoạt
động. Kiểm tra việc ra quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định của cấp mình và
cấp dưới. Các nguyên tắc tổ chức của Đảng trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ
và quy chế làm việc. Gìn giữ đoàn kết nội bộ, giáo dục rèn luyện nâng cao phẩm chất
cán bộ đảng viên. Kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị. Việc thực hiện

chính sách và pháp luật của nhà nước. Căn cứ vào tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị và
thực tế của Đảng bộ mà cấp ủy lựa chọn và quyết định nội dung kiểm tra cho phù hợp.
3


3.2.2. Giám sát tối cao của Quốc hội
Theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Quốc hội do vị trí vai trị
của Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất nên
hoạt động giám sát của Quốc hội có tính chất là giám sát tối cao, như vậy:
Chủ thể hoạt động giám sát tối cao là của Quốc hội; Ủy ban Thường vụ Quốc
hội (UBTVQH), Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu và
đại biểu Quốc hội nhằm theo dõi, xem xét kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp trong các
văn bản pháp luật, trong hoạt động của Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối
cao (TANDTC), Viện kiểm sát nhân dân (VKSNDTC) và toàn bộ hoạt động của nhà
nước nhằm đảm bảo sự tuân thủ hiến pháp, pháp luật và hiệu lực tham gia hoạt động
của các cơ quan này. Xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật, kịp thời bổ sung sửa
đổi hoàn chỉnh hiến pháp, pháp luật.
Đối tượng chịu giám sát tối cao là toàn bộ hoạt động của nhà nước, mà trước
hết là: Chủ tịch nước, Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, Chủ tịch Quốc hội,
UBTVQH.
Nội dung: Một là, theo dõi, xem xét, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp đối với
các văn bản quy phạm pháp luật và các hoạt động của Chủ tịch nước, UBTVQH,
Chính phủ, TANDTC và VKSNDTC. Hai là, xử lý các hành vi vi phạm Hiến pháp và
luật bằng các chế tài bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức vụ do Quốc hội bầu và phê
chuẩn trong bộ máy nhà nước, đình chỉ, bãi bỏ các văn bản trái với hiến pháp, luật và
ra các nghị quyết khi xét thấy cần thiết.
3.2.3. Giám sát của Chính phủ, Chủ tịch nước
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ có chức năng kiểm tra, giám sát trước hết
thông qua những thẩm quyền được Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ quy định.
Hoạt động kiểm tra, thanh tra của Chính phủ là một loại tự kiểm soát quyền lực trong

nội bộ hệ thống, do các cơ quan chuyên trách (Thanh tra nhà nước) thực hiện đối với
các bộ phận của hệ thống hành chính từ trên xuống dưới. Sự thiết lập hệ thống kiểm
tra, thanh tra này bên cạnh các cơ chế kiểm tra, giám sát khác đối với hoạt động hành
chính nhà nước. Nội dung: Kiểm tra, thanh tra hoạt động công vụ; kiểm tra, thanh tra
4


việc thực hiện thể chế hành chính; kiểm tra, thanh tra bộ máy hành chính; kiểm tra,
thanh tra tính chính xác của quyết định hành chính và hành vi hành chính của cơ quan,
người có thẩm quyền; kiểm tra, thanh tra người có thẩm quyền trong hoạt động quản lý
(cơng chức, viên chức nhà nước).
3.2.4. Cơ chế giám sát của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân thực hiện các hình thức kiểm tra,
giám sát hai mặt. Một mặt, đó cũng là cơ chế tự kiểm tra trong nội bộ hệ thống như
hoạt động kiểm tra, thanh tra của Chính phủ. Mặt khác, chức năng cơ bản của Viện
kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, vì vậy sự kiểm
tra, giám sát này là sự kiểm tra, giám sát từ phía Viện kiểm sát đối với các cơ quan, cá
nhân khác. Hoạt động giám sát của TAND tiến hành thông qua hoạt động xét xử các
vụ án hình sự, dân sự, lao động, kinh tế, trong quá trình xét xử bên cạnh việc xác định
tội phạm, TAND kiểm tra tính hợp pháp trong hành vi quản lý (bao gồm cả quyết định
quản lý) của các cơ quan quản lý nhà nước và người có chức vụ và sự kiểm tra, giám
sát bên trong hệ thống Tòa án trước hết được thực hiện thông qua thẩm quyền xét xử
phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm của Tòa án cấp trên đối với các Tòa án cấp
dưới, nhưng đây là sự kiểm tra, giám sát theo thẩm quyền tố tụng chứ không phải theo
thẩm quyền hành chính trên - dưới.
3.2.5. Cơ chế giám sát của Mặt trận Tổ quốc
Hiến pháp 2013 quy định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh
chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn
giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Đối tượng giám sát: MTTQ Việt Nam giám sát hoạt động cơ quan nhà nước,
đại biểu dân cử, cán bộ công chức theo quy định của pháp luật.
Có thể nói giám sát của MTTQ Việt Nam và các thành viên của Mặt trận: là
quyền giám sát của một tổ chức mang tính liên minh chính trị, liên hiệp, phối hợp và
thống nhất hoạt động của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội đối với hoạt
động của các cơ quan nhà nước đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước thông
5


qua việc động viên nhân dân thực hiện quyền giám sát, tham gia hoạt động giám sát
với cơ quan nhà nước và tổng hợp ý kiến của nhân dân cũng như của các thành viên để
kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
3.2.6. Cơ chế giám sát của chính quyền địa phương
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân là hai bộ phận hợp thành chính quyền
địa phương. Trong bộ máy nhà nước ta, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, đại diện cho nhân dân địa phương
trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở địa phương. Với vị trí, tính chất đó, Hội đồng
nhân dân một mặt là đối tượng chịu sự kiểm tra, giám sát, mặt khác, nó cũng là chủ thể
thực hiện kiểm tra, giám sát. Hội đồng nhân dân là cơ quan thực hiện việc giám sát đối
với các đối tượng sau đây: Thường trực Hội đồng nhân dân; Ủy ban nhân dân (bao
gồm cả các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân); Hội đồng nhân dân cấp
dưới; Tòa án nhân dân; Viện kiểm sát nhân dân; các cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang của công dân ở địa phương.
HĐND thường xuyên thực hiện giám sát gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn do pháp luật quy định: giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của
Thường trực HĐND, giám sát của các Ban HĐND, và giám sát của đại biểu HĐND.
Phương thức là: xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND, TAND,
VKSND cùng cấp. Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND
các thành viên khác của UBND, thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND.
Viện trưởng VKSND, Chánh án TAND cùng cấp. Xem xét các văn bản quy phạm

pháp luật của HĐND cùng cấp, Nghị quyết của HĐND cấp dưới, trực tiếp khi phát
hiện có dấu hiệu trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của UBTVQH, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên,
Nghị quyết của HĐND cùng cấp. Thành lập đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết, bỏ
phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu.
3.2.7. Quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy nhà nước
Bản chất Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Theo quy định của Hiến pháp 2013 nước Cộng hòa XHCN Việt Nam Nước Cộng hòa
6


xã hội chủ nghĩa Việt Nam do “ Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và
đội ngũ trí thức. Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công
nhâṇ, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện”.
Do vậy Nhân dân là chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước với đối tượng chính
là hoạt động của cơ quan nhà nước, những người thực thi quyền lực nhà nước. Quyền
giám sát của nhân dân đối với nhà nước là: khi xem xét, đánh giá hoạt động với tư
cách của các đại biểu dân cử, trực tiếp tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, thực
hiện quyền khiếu nại - tố cáo hoặc thông qua hoạt động của tổ chức thanh tra nhân dân
do mình bầu ra. Quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy nhà nước và cán bộ công
chức nhà nước là một nội dung quan trọng của quyền dân chủ của nhân dân. Do vậy,
quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy nhà nước là quyền giám sát của những
người chủ của quyền lực nhà nước.
Ở nước ta, vấn đề kiểm soát quyền lực luôn được đặt ra như một tất yếu của quá
trình thực hiện quyền lực của nhân dân và dưới những hình thức, mức độ khác nhau
được thể hiện trong các bản Hiến pháp, kể từ Hiến pháp năm 1946 đến nay. Đặc biệt,
Hiến pháp năm 2013 quy định kiểm soát quyền lực là một nguyên tắc hiến định. Theo

đó, “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt quyền
lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp”. Việc bổ sung nội dung kiểm soát quyền lực vào Hiến pháp năm 2013 về
thực chất là một bước hoàn thiện quan trọng đối với cơ chế kiểm soát quyền lực ở
nước ta, vốn đã được xác định thông qua cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ”. Với quy định trong Hiến pháp năm 2013 về tổ chức quyền lực nhà
nước, bộ máy nhà nước ta không tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập, nơi việc
phân chia quyền lực kèm theo sự đối trọng quyền lực giữa lập pháp, hành pháp và tư
pháp.

7


Bản chất của nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta là phân công
gắn liền với phối hợp và sự kiểm sốt quyền lực khơng tạo nên sự đối trọng (trong
khơng ít trường hợp là sự đối đầu giữa các nhánh quyền lực, dẫn đến nguy cơ làm tê
liệt hoạt động của bộ máy nhà nước như đã xảy ra ở một số nước theo tam quyền phân
lập) mà chủ yếu là điều kiện để thực hiện tốt sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất.
Sự cần thiết phải kiểm soát quyền lực xuất phát từ phạm trù có tính nền tảng
của chế độ dân chủ là “chủ quyền nhân dân”, với nguyên tắc phổ quát: Toàn bộ quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân. Tất cả quyền lực là thuộc về Nhân dân và Nhân dân
là chủ thể kiểm sốt quyền lực, vì vậy để phịng, chống sự tha hóa quyền lực, để kiểm
sốt quyền lực, thì Nhân dân phải thực sự làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, làm chủ
bản thân mình. Nhân dân phải thực sự tham gia vào quá trình quản lý đất nước, tham
gia quản lý xã hội, tham gia quản lý nhà nước, tham gia quản lý, điều hành quá trình
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng
an ninh của đất nước.
4. Một số giải pháp hồn thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước
Thứ nhất, đối với cơ quan quyền lực nhà nước

- Đối với Quốc hội:
+ Xử lý nghiêm minh theo thẩm quyền hoặc kiến nghị xử lý kết quả giám sát
nếu phát hiện cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm.
+ Nâng cao chất lượng Đại biểu Quốc hội: Bên cạnh việc bảo đảm cơ cấu để
bảo đảm tính đại diện của Quốc hội thì cần tăng cường đại biểu có trình độ chuyên
môn, tăng cường đại biểu chuyên trách. Phát huy vai trò của bồi dưỡng đại biểu dân cử
của Quốc hội thông qua việc thực hiện công tác trao đổi kinh nghiệm, bồi dưỡng kiến
thức, kỹ năng cho đại biểu dân cử.
+ Tăng cường năng lực tham mưu tư vấn của các cơ quan tham mưu, cá nhân,
chuyên gia trong các cơ quan nhà nước và xã hội để tạo cơ sở khoa học, cơ sở thực
tiễn trong hoạt động giám sát của Quốc hội. Cần tăng cường năng lực cho đội ngũ
tham mưu giúp việc nhất là việc có văn phòng giúp việc riêng cho đại biểu Quốc hội
8


cần được xem xét. Cần đầu tư, tăng cường đội ngũ chuyên gia, bộ máy giúp việc, chú
trọng nâng cao trình độ của đội ngũ chun viên trong Văn phịng Quốc hội, của các đoàn
đại biểu Quốc hội; sử dụng, ý kiến chuyên gia ở các cơ quan, tổ chức nghiên cứu độc lập.
- Đối với Hội đồng nhân dân các cấp: Tăng cường và chú trọng chất lượng
giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị
quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp; giám sát hoạt động Ủy ban nhân dân, Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp. Đại biểu Hội
đồng nhân dân chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân, thành viên khác của Ủy ban nhân
dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Thủ trưởng cơ
quan thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp; trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị của công dân ở địa phương.
Thứ hai, giải pháp hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền hành pháp:
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kiểm soát hành pháp, đổi mới
phương thức kiểm tra, giám sát; quan trọng hơn cả đó là cần có đội ngũ cán bộ, đảng

viên trong cơ quan hành pháp vừa có đức và tài.
- Nâng cao nhận thức và năng lực của cán bộ, cơng chức hành chính và tăng
cường tự kiểm tra trong hệ thống cơ quan hành chính. Đây là vấn đề hết sức quan
trọng, có thể nói, chưa bao giờ đội ngũ cán bộ, cơng chức đang có nhiều vấn đề như
hiện nay liên quan đến trách nhiệm công vụ, đạo đức, tham nhũng,…Do vậy, cần xây
dựng được đội ngũ cán bộ, cơng chức hành pháp có trình độ chun mơn nghiệp vụ,
có ý thức tổ chức kỷ luật, khơng vi phạm các quy định của pháp luật.
- Phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong cơ chế kiểm soát nhà nước và kiểm
soát xã hội trong việc thực hiện quyền hành pháp. Phối hợp giữa các cơ chế giám sát,
kiểm tra nhà nước và xã hội là một trong những tổ chức giải pháp quan trọng để nâng
cao hiệu quả trong việc giải quyết các vụ việc cụ thể cũng như trong việc giám sát,
kiểm tra thể hiện trong việc phát hiện và xử lý các vi phạm.

9


- Xử lý nghiêm, tương xứng đối với các sai phạm trong hoạt động quản lý hành
chính nhà nước. Tiến hành việc theo dõi, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền và
của nhân dân, cơng khai kết quả quả xử lý vi phạm.
Thứ ba, đối với cơ quan tư pháp: Tăng cường tính chủ động trong kiểm sốt quyền
lực nhà nước của tư pháp với hành pháp. Mở rộng phạm vi kiểm soát quyền lực của tư
pháp đối với hành pháp. Đảm bảo tính độc lập của Tịa án hành chính với các cơ quan
hành pháp. Nâng cao năng lực kiểm soát quyền lực của tư pháp đối với hành pháp.
Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước phải là một tổng thể bao gồm: cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài do các chủ thể không phải là Nhà nước
thực hiện, mà quan trọng nhất là vai trò kiểm tra, giám sát của Nhân dân; cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước bên trong do các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp kiểm soát lẫn nhau; cần thiết xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước một cách độc lập do Hiến pháp và luật quy định.
Thứ tư, Nhân dân kiểm soát quyền lực Nhà nước: Đảm bảo điều kiện tốt nhất để

nhân dân kiểm soát Nhà nước trước hết qua hệ thống bầu cử, thơng qua hồn thiện
chức năng giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát của hội đồng nhân dân các cấp,
các công cụ thanh tra, kiểm toán, kiểm tra của bộ máy nhà nước. Đảm bảo để nhân dân
sử dụng công cụ khác, như thơng qua các tổ chức có tính đại diện xã hội, các tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp; qua giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, thơng qua quyền khiếu nại, tố cáo, qua hệ thống
phương tiện truyền thông để thực hiện giám sát quyền lực nhà nước.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền đã trở thành một
quan trọng và cấp thiết để duy trì và phát triển nhà nước. Ở việt Nam việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta coi là nhiệm vụ quan trọng và
đã được Hiến pháp ghi nhận. Nhiệm vụ đó được Đảng đặt trong định hướng chung của
việc đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng, khơng ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng
bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
10


Xác định nguồn gốc thật sự của quyền lực nhà nước xã hội chủ nghĩa là từ Nhân dân,
thống nhất từ Nhân dân. Đồng thời, xác định cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước phù hợp
để tiến hành thực thi nguyên tắc thực hiện quyền lực một cách hiệu quả nhất.

11



×