Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Báo cáo "Những nội dung cơ bản của luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.04 KB, 5 trang )



nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số tháng 3/2003
81



Đoàn Thị Tố Uyên
*
uật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
đ đợc Quốc hội nớc Cộng hoà x hội
chủ nghĩa Việt Nam khoá IX kì họp thứ 10
thông qua ngày 12/11/1996 là văn bản có hiệu
lực cao lần đầu tiên đợc ban hành quy định về
thẩm quyền, thủ tục và trình tự ban hành văn
bản quy phạm pháp luật đ trực tiếp xác lập trật
tự, kỉ cơng trong chính hoạt động lập pháp, lập
quy, bớc đầu đa công tác xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật đi vào nền nếp. Mặc dù
vậy, qua 6 năm thực hiện các quy định của Luật
đ bộc lộ những hạn chế cần đợc khắc phục
kịp thời nhất là các quy định liên quan đến quy
trình xây dựng, thông qua dự án, dự thảo văn
bản quy phạm pháp luật. Xuất phát từ đòi hỏi
đó, ngày 16/12/2002, tại kì họp thứ hai Quốc
hội khoá XI đ thông qua Luật số
02/2002/QH11 về sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Chúng tôi xin đề cập một số nội dung chủ
yếu đợc sửa đổi, bổ sung nh sau:


1. Về thẩm quyền ban hành văn bản quy
phạm pháp luật
Theo Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật (Luật sửa đổi, bổ sung), văn bản quy phạm
pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nớc có
thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật
định, trong đó có quy tắc xử sự chung, đợc
Nhà nớc bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh
các quan hệ x hội theo định hớng x hội chủ
nghĩa. So sánh với định nghĩa về văn bản quy
phạm pháp luật tại Điều 1 của Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 ta thấy
về cơ bản không có sự khác nhau, Luật mới chỉ
bỏ đi từ "các" trong cụm từ "trong đó có các
quy tắc xử sự chung" thành "trong đó có quy
tắc xử sự chung". Với quy định này văn bản
quy phạm pháp luật đợc ban hành bởi rất
nhiều chủ thể có thẩm quyền đó là: Quốc hội,
Uỷ ban thờng vụ Quốc hội, Chủ tịch nớc,
Chính phủ, Thủ tớng Chính phủ, bộ trởng,
thủ trởng cơ quan ngang bộ, Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao, chánh án Toà án
nhân dân tối cao, viện trởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, hội đồng nhân dân, uỷ ban
nhân dân các cấp và các chủ thể liên kết với
nhau để ban hành nghị quyết, thông t liên tịch.
Nh vậy, Luật đ bổ sung thẩm quyền ban
hành văn bản quy phạm pháp luật cho chánh án
Toà án nhân dân tối cao. Theo đó chánh án Toà

án nhân dân tối cao có quyền ban hành văn bản
quy phạm pháp luật với tên gọi quyết định, chỉ
thị, thông t. Đây là điểm mới mà trớc đây
trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 1996 không quy định.
Cùng với việc trao quyền ban hành văn bản
quy phạm pháp luật cho chánh án Toà án nhân
dân tối cao, Luật sửa đổi, bổ sung đ bỏ đi
thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp
luật của thủ trởng cơ quan thuộc Chính phủ.
2. Về quy trình xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật
Với mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động
L

* Giảng viên khoa hành chính - nhà nớc

Trờng đại học luật Hà Nội



nghiên cứu - trao đổi
82

Tạp chí luật học số tháng 3/2003

ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm
tiến độ và chất lợng của các dự án, dự thảo,
Luật sửa đổi, bổ sung Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật đ tập trung vào việc đổi

mới quy trình lập pháp, lập quy, đặc biệt là quy
trình lập pháp với những nội dung cơ bản sau:
+ Về chơng trình xây dựng luật, pháp lệnh
Tại Điều 22 của Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 1996 quy định cơ quan, tổ
chức, đại biểu Quốc hội có quyền trình dự án
luật gửi đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh đến
Uỷ ban thờng vụ Quốc hội đồng thời gửi đến
Chính phủ, trong đó phải nêu rõ sự cần thiết
ban hành văn bản, xác định đối tợng và phạm
vi điều chỉnh của văn bản, các điều kiện cần
thiết cho việc soạn thảo văn bản.
Để đảm bảo tính khả thi của Chơng trình
xây dựng luật, pháp lệnh, Luật mới đ sửa đổi,
bổ sung Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 1996 nh sau:
Đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh phải
nêu rõ sự cần thiết ban hành văn bản; đối
tợng, phạm vi điều chỉnh của văn bản; những
quan điểm, nội dung chính của văn bản; dự báo
tác động kinh tế - x hội; dự kiến nguồn lực bảo
đảm thi hành và điều kiện bảo đảm cho việc
soạn thảo văn bản"
Ngoài việc bảo đảm tính khả thi của
Chơng trình xây dựng luật, pháp lệnh, quy
định sửa đổi, bổ sung Điều 22 nêu trên còn tăng
cờng trách nhiệm của các chủ thể có quyền
gửi đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh.
+ Về thành lập Ban soạn thảo văn bản quy
phạm pháp luật

Theo quy định tại Điều 25 Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 thì "Cơ
quan, tổ chức trình dự án luật, dự án pháp lệnh
thành lập ban soạn thảo". Quy định đó đ
đợc bổ sung thêm dự thảo nghị quyết của
Quốc hội và Uỷ ban thờng vụ Quốc hội, cụ thể
là: "Cơ quan, tổ chức trình dự án luật, dự thảo
nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự
thảo nghị quyết của Uỷ ban thờng vụ Quốc
hội thành lập ban soạn thảo".
Đối với dự thảo nghị quyết, nghị định,
Chính phủ quyết định cơ quan chủ trì soạn thảo
sau đó cơ quan chủ trì soạn thảo thành lập ban
soạn thảo.
Đồng thời Luật sửa đổi, bổ sung đ quy
định rõ về thành viên của Ban soạn thảo gồm:
Trởng ban là ngời đứng đầu cơ quan, tổ
chức chủ trì soạn thảo và các thành viên là đại
diện các cơ quan, tổ chức hữu quan, các
chuyên gia, các nhà khoa học.
Đối với dự thảo nghị quyết, nghị định của
Chính phủ thì thành viên ban soạn thảo còn có
đại diện cơ quan thẩm định.
Ban soạn thảo phải thực hiện rất nhiều
nhiệm vụ khi tiến hành soạn thảo dự án, dự
thảo trong đó có hoạt động tổ chức lấy ý kiến
đóng góp .
Theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung,
Ban soạn thảo không chỉ tổ chức lấy ý kiến cơ
quan, tổ chức, cá nhân hữu quan mà còn phải

lấy ý kiến của các đối tợng chịu sự tác động
trực tiếp của văn bản trong phạm vi và với hình
thức thích hợp tuỳ theo tính chất và nội dung
của từng dự án, dự thảo. Với quy định bổ sung
này, nội dung của văn bản quy phạm pháp luật
sau khi ban hành sẽ có khả năng thực thi một
cách có hiệu quả.
+ Về trách nhiệm thẩm tra, thẩm định dự án
luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết
Về trách nhiệm thẩm tra: Theo quy định
của Luật tổ chức Quốc hội, Uỷ ban pháp luật
của Quốc hội có trách nhiệm bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống
pháp luật đối với dự án luật, pháp lệnh trớc khi
trình Quốc hội, Uỷ ban thờng vụ Quốc hội. Do
vậy, để đảm bảo sự phù hợp với quy định của


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số tháng 3/2003
83

Luật tổ chức Quốc hội, Luật sửa đổi, bổ sung
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đ
bổ sung Điều 34a nh sau:
"Uỷ ban pháp luật của Quốc hội có trách
nhiệm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính
thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các
dự án luật, pháp lệnh trớc khi trình Quốc hội,
Uỷ ban thờng vụ Quốc hội xem xét, thông qua

bằng các hoạt động sau đây:
1. Tham gia thẩm tra các dự án luật, pháp
lệnh do Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban khác
của Quốc hội chủ trì thẩm tra.
Trong trờng hợp có ý kiến khác với cơ
quan chủ trì thẩm tra về tính hợp hiến, hợp
pháp và tính thống nhất của dự án luật, pháp
lệnh trong hệ thống pháp luật thì Uỷ ban pháp
luật báo cáo với Quốc hội, Uỷ ban thờng vụ
Quốc hội về ý kiến của mình;
2. Tham gia chỉnh lí dự án luật, pháp lệnh".
Trách nhiệm thẩm định của Bộ t pháp
đợc quy định rõ hơn về đối tợng thẩm định là
dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự
án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Uỷ ban
thờng vụ Quốc hội, dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật của Chính phủ, Thủ tớng Chính phủ;
về thành lập hội đồng thẩm định; về phạm vi
thẩm định trong Điều 29a, bổ sung sau Điều 29
của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
năm 1996.
Theo quy định của Điều 29a, hội đồng
thẩm định do bộ trởng Bộ t pháp thành lập để
thẩm định các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo
nghị quyết do Bộ t pháp chủ trì soạn thảo.
Cơ quan thẩm định tiến hành thẩm định
những vấn đề sau:
- Sự cần thiết ban hành văn bản, đối tợng,
phạm vi điều chỉnh của d án, dự thảo;
- Sự phù hợp của nội dung dự án, dự thảo

với đờng lối, chủ trơng, chính sách của
Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống
nhất của văn bản với hệ thống pháp luật;
- Tính khả thi của văn bản;
- Việc tuân thủ thủ tục và trình tự soạn
thảo;
- Ngôn ngữ, kĩ thuật soạn thảo văn bản.
Nh vậy, so sánh với Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 1996, Luật sửa
đổi, bổ sung đ đa thêm yếu tố ngôn ngữ và kĩ
thuật soạn thảo văn bản là một trong những vấn
đề mà cơ quan thẩm định phải tiến hành thẩm
định. Quy định này là cơ sở pháp lí tạo điều
kiện đảm bảo nâng cao chất lợng văn bản quy
phạm pháp luật.
+ Về vấn đề tham gia góp ý kiến xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật
Với mục đích bảo đảm tính công khai, dân
chủ trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật ngay từ giai đoạn soạn thảo đồng thời
đảm bảo tính khả thi, hiệu quả của văn bản,
Luật quy định trong quá trình xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật , cơ quan, tổ chức hữu quan
căn cứ tính chất, nội dung dự án, dự thảo tạo
điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân đặc biệt
là đối tợng chịu sự tác động trực tiếp của văn
bản đóng góp ý kiến. Luật sửa đổi, bổ sung
cũng quy định rõ trách nhiệm của cơ quan soạn
thảo văn bản phải nghiên cứu để tiếp thụ chỉnh
lí dự án, dự thảo văn bản. Đây là nội dung đợc

bổ sung tại Điều 3 của Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật.
+ Về thủ tục thông qua dự án luật, pháp lệnh
- Đối với dự án luật:
Theo quy định của Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật, dự án luật có thể đợc
Quốc hội thảo luận theo từng vấn đề, từng
chơng hoặc toàn bộ dự án và đợc thông qua
bằng cách biểu quyết từng điều, từng chơng.
Quy trình thảo luận, thông qua nh vậy có điểm
hạn chế là các đại biểu mất nhiều thời gian để
thảo luận về câu chữ mà cha dành thời gian
thích đáng cho việc thảo luận các chính sách cơ


nghiên cứu - trao đổi
84

Tạp chí luật học số tháng 3/2003

bản của dự án.
Để đẩy nhanh tiến độ thông qua luật, ngoài
việc cải tiến quy trình soạn thảo, thẩm định,
thẩm tra Luật sửa đổi, bổ sung đ tập trung vào
việc đổi mới quy trình thảo luận, xem xét,
thông qua dự án luật nh sau:
- Quy định thủ tục thông qua dự án luật tại
một hoặc hai kì họp. Tại kì họp đầu, Quốc hội
chỉ cho ý kiến về những nội dung cơ bản,
những vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau;

- Tăng cờng vai trò của Uỷ ban thờng
vụ Quốc hội trong quá trình xây dựng dự án
luật: "Uỷ ban thờng vụ Quốc hội chỉ đạo
đoàn th kí kì họp tổng hợp ý kiến của đại
biểu Quốc hội.".
- Để rút ngắn thời gian thông qua luật, thay
vì việc thông qua luật theo từng điều, từng
chơng, Luật sửa đổi bổ sung quy định Quốc
hội thông qua luật ngay sau khi nghe đọc toàn
văn dự thảo luật đ đợc chỉnh lí. Chỉ trong
những trờng hợp cần thiết, Quốc hội mới
thông qua một số vấn đề cụ thể trớc khi thông
qua toàn văn dự thảo luật (khoản 5 Điều 45b).
Có thể nói với những quy định về thủ tục
thông qua dự án luật, Luật sửa đổi, bổ sung đ
góp phần vào việc đổi mới quy trình lập pháp
của Quốc hội.
3. Về giám sát, kiểm tra văn bản quy
phạm pháp luật
Quy định về hoạt động giám sát, kiểm tra
đối với văn bản quy phạm pháp luật đợc sửa
đổi, bổ sung theo hớng xác định rõ hơn chủ
thể, thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan
nhà nớc; xây dựng quy trình và cơ chế pháp lí
nhằm thực hiện hiệu quả hoạt động này. Theo
đó Luật đ bổ sung Điều 12a về nguyên tắc
giám sát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật;
bổ sung các Điều 80a, 80b về mục đích và nội
dung giám sát, kiểm tra nh sau:
"Việc giám sát, kiểm tra văn bản quy phạm

pháp luật đợc tiến hành nhằm phát hiện
những nội dung sai trái của văn bản để kịp thời
đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, huỷ bỏ hoặc bi
bỏ văn bản nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp
pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật
đồng thời kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xác
định trách nhiệm của cơ quan, cá nhân đ ban
hành văn bản sai trái."
Nội dung giám sát, kiểm tra văn bản bao
gồm:
1. Sự phù hợp của văn bản với Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội và văn bản của
cơ quan nhà nớc cấp trên;
2. Sự phù hợp của hình thức văn bản với
nội dung văn bản đó;
3. Sự phù hợp của nội dung văn bản với
thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản.
(Điều 80b).
Ngoài ra, Luật mới còn bổ sung Điều 82a
về việc giám sát của Hội đồng dân tộc và các
Uỷ ban của Quốc hội đối với văn bản quy phạm
pháp luật.
Trong điều kiện viện kiểm sát nhân dân
không còn thực hiện chức năng kiểm sát chung,
với mục đích góp phần bảo đảm tính hợp hiến,
hợp pháp, tính thống nhất của văn bản trong hệ
thống pháp luật, Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật đợc sửa đổi, bổ sung theo
hớng nhấn mạnh trách nhiệm của Bộ t pháp
trong việc giúp Chính phủ, Thủ tớng Chính

phủ kiểm tra, xử lí các văn bản sai trái.
4. Về hiệu lực văn bản quy phạm pháp
luật
Nhằm bảo đảm cho việc tuyên truyền, phổ
biến văn bản tới nhân dân đồng thời để cơ quan
có liên quan có đủ thời gian chuẩn bị các điều
kiện thi hành văn bản, Điều 75 Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật đợc sửa đổi theo
hớng kéo dài khoảng thời gian từ khi văn bản
đợc ban hành cho đến thời điểm có hiệu lực;


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số tháng 3/2003
85

cách tính thời điểm có hiệu lực của văn bản
trong hai trờng hợp:
+ Trờng hợp văn bản quy phạm pháp luật
không quy định rõ thời điểm có hiệu lực thì
việc quy định thời điểm có hiệu lực của văn bản
xác định nh sau:
- Văn bản quy phạm pháp luật của Quốc
hội, Uỷ ban thờng vụ Quốc hội có hiệu lực sau
30 ngày, kể từ ngày Chủ tịch nớc kí lệnh công
bố;
- Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ
quan nhà nớc khác ở trung ơng có hiệu lực
sau 15 ngày, kể từ ngày đăng công báo.
+ Trờng hợp văn bản quy phạm pháp luật

quy định rõ thời điểm có hiệu lực thì thời điểm
có hiệu lực của văn bản đợc xác định nh sau:
- Ngày có hiệu lực của văn bản phải đợc
xác định theo các thời điểm giống trờng hợp
trên. Trong trờng hợp văn bản quy phạm pháp
luật quy định các biện pháp thi hành trong tình
trạng khẩn cấp thì có thể quy định ngày có hiệu
lực sớm hơn;
- Trong trờng hợp văn bản quy phạm pháp
luật cần phải đợc hớng dẫn thi hành, tuyên
truyền phổ biến rộng ri trong các tầng lớp
nhân dân thì việc quy định ngày có hiệu lực của
văn bản có thể muộn hơn thời điểm có hiệu lực
trong trờng hợp thứ nhất.
Trên đây là những nội dung cơ bản của
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật. Việc sửa
đổi, bổ sung Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật đ góp phần vào việc thể chế hoá t
tởng của Đảng về đổi mới quy trình lập pháp,
hoàn thiện hệ thống pháp luật; phù hợp với
Hiến pháp năm 1992, Luật tổ chức Quốc hội,
Luật tổ chức Chính phủ đ đợc sửa đổi và chắc
chắn sẽ góp phần vào việc xây dựng Nhà nớc
pháp quyền x hội chủ nghĩa Việt Nam của
dân, do dân, vì dân./.
Quy định về thế chấp (Tiếp theo trang 71)
thành phố thuộc tỉnh có kế hoạch thực hiện
ngay việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho các hộ gia đình, cá nhân. Trong thời

gian tới khi cha thể cấp đầy đủ giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nên cho phép các tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân có các giấy tờ
chứng minh quyền sử dụng đất hợp pháp đợc
thế chấp quyền sử dụng đất.
4. Cần quy định thống nhất trong Bộ luật
dân sự, các văn bản pháp luật ngân hàng và
các văn bản pháp luật đất đai tổ chức kinh tế,
hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có quyền thế
chấp giá trị quyền sử dụng đất tại mọi tổ chức
tín dụng đợc phép hoạt động tại Việt Nam.
5. Giá trị quyền sử dụng đất thế chấp cần
đợc xác định trên cơ sở giá thị trờng tại thời
điểm thế chấp nhng phải phù hợp với khung
giá do Nhà nớc quy định. Chính phủ phải có
nghị định hớng dẫn cụ thể về việc quy định
khung giá và nguyên tắc, phơng pháp xác
định giá các loại đất theo quy định tại khoản
1 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật đất đai mới đợc ban hành (thay
thế Nghị định số 87/CP năm 1994).
6. Cần quy định rõ trong Bộ luật dân sự và
các văn bản pháp luật liên quan có thể thế
chấp riêng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền
với đất hoặc quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất; không bắt buộc phải thế chấp tài
quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản.
7. Thứ bảy, các bên có quyền thoả thuận
về nghĩa vụ đăng kí thế chấp quyền sử dụng
đất. Nếu các bên không thoả thuận, nghĩa vụ

này thuộc về bên thế chấp. Các bên có quyền
thoả thuận về phơng thức xử lí quyền sử dụng
đất thế chấp, nếu các bên không thoả thuận
mới đem bán đấu giá./.

×