Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.96 KB, 10 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Ngay khi ra đời, Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân tộc là quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã không ngừng đổi mới nhận
thức về chủ nghĩa xã hội và con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 
Đại hội XII của Đảng đánh dấu bước phát triển về nhận thức lý luận của Đảng
trong việc xác định phương hướng xây dựng CNXH ở nước ta trong giai đoạn 2016 2020. Trên cơ sở tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Đại hội xác định mục
tiêu tổng quát phát triển đất nước trong 5 năm tới: “Tăng cường xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ
thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ XHCN. Đẩy
mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn
đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Như
vậy, có thể nói, trong quan niệm của Đảng ta, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay là con đường phát triển rút ngắn và phương thức thực hiện con đường này là
quá độ gián tiếp. Đó là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận
của Đảng ta. 
Việc lựa chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa một lần nữa được khẳng định và ngày càng hoàn thiện hơn qua các kỳ Đại hội
Đảng. Vì vậy, trong sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hoá đất nước hiện nay, việc
nhận thức về tính tất yếu con đường quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta mang
tính cấp thiết.
PHẦN II: MƠ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1. Mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới
Thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về xã hội xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta
phác thảo ban đầu trong các văn kiện Đại hội từ năm 1954 đến năm 1986. Nhìn một
cách tổng thể, thời kỳ này, chúng ta chưa xác định được mơ hình và những đặc trưng
cụ thể của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1



Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986),
lần đầu tiên trong lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mơ hình xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng đã được Đảng ta chỉ ra trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), xác
định xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội gồm 6 đặc trưng: Do nhân dân lao động làm
chủ. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện
cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã nêu rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân
làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện; các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định 4 trụ cột phát triển đất nước trong
thời kỳ đổi mới: Thời kỳ đổi mới đòi hỏi phải phát triển đất nước tồn diện, đồng bộ
hơn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại, trong đó
phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa,
con người là nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường
xuyên. Điểm mới nổi bật là: Văn kiện Đại hội XII của Đảng khơng chỉ xác định xây
dựng văn hóa là nền tảng tinh thần mà cả xây dựng con người là nền tảng tinh thần.
Đây chính là mục tiêu, bản chất chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng.
2. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới
2



2.1. Phương hướng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.
Hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại, độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
2.2. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của Đảng ta thời kỳ đổi mới
Thứ nhất, nhận thức rõ hơn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 
Tại Đại hội VI - Đại hội của đổi mới, Đảng ta xác định, từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ và độ dài của thời kỳ đó phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể của mỗi nước. Đối với nước ta,
thời kỳ quá độ rất lâu dài và khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc,
toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng; trong đó, bao hàm nhiều chặng
đường, nhiều bước quá độ nhỏ với những nhiệm vụ tương ứng. Phải có “những hình
thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất, ln ln có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản

xuất”. Đây là những cơ sở lý luận quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra
3


đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sử dụng đúng đắn quan hệ
hàng - tiền...; trong đó, thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo và chi phối
các thành phần kinh tế khác.
Thứ hai, nhận thức đầy đủ hơn về cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 
Việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” được hiểu trên hai phương diện: Một là,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”. Hai là, trong khi bỏ qua những mặt
đó, cần “tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Nhận thức này đã góp phần khắc phục tư duy
giáo điều, siêu hình về sự tương đồng và khác biệt của hai hình thái kinh tế - xã hội mà
trước đây chúng ta đã mắc phải.
Thứ ba, về các phương hướng quá độ lên chủ nghĩa xã hội và những vấn đề đặt
ra cần phải giải quyết trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh năm 1991 đã vạch ra 7 phương hướng cơ bản của quá trình xây
dựng xã hội mới theo những đặc trưng được xác định. Sau 25 năm thực hiện Cương
lĩnh năm 1991, từ việc tổng kết thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cương
lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển nhận thức về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện ở 8 phương hướng cơ bản nhằm thực hiện thành công
mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng được về cơ bản nền tảng
kinh tế của chủ nghĩa xã hội và kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa
phù hợp, tạo cơ sở để đưa Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng
phồn vinh, hạnh phúc, thể hiện rõ phương thức, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, các chủ trương trong đường lối đối
nội, đối ngoại.

Mặt khác, vai trò của tồn bộ hệ thống chính trị cũng như trách nhiệm của từng
thành viên trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã được thể
hiện rõ trong một số phương hướng. Bên cạnh việc xác định 8 đặc trưng của xã hội xã
4


hội chủ nghĩa, 8 phương hướng cơ bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại
hội XI cũng chỉ ra 8 mối quan hệ lớn cần nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình
thực hiện các phương hướng nêu trên, trong đó khẳng định rõ mối quan hệ Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây
dựng và hồn thiện thể chế kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và
lành mạnh; sử dụng các cơng cụ, chính sách và nguồn lực của Nhà nước để định
hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sức sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường.
Tiếp tục khẳng định đường lối phát triển của đất nước, Đaị hội XII của Đảng
làm rõ thêm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; chỉ rõ “con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển
của lịch sử”. Điểm mới của Đại hội XII về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam được thể hiện tập trung vào các vấn đề sau:
Một là, tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;
Hai là, xác định rõ phương châm “lấy lợi ích quốc gia - dân tộc làm mục tiêu
cao nhất;
Ba là, xác định ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thơng qua
việc xác định lộ trình cơng nghiệp hóa và mơ hình phát triển kinh tế nhằm hướng tới
mục tiêu phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam. Nhằm tạo dựng cơ sở vật chất cần
thiết cho chủ nghĩa xã hội thì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là tất yếu khách
quan. Đại hội XII nhấn mạnh “chú trọng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới”. Đây là yêu cầu khách quan và là một
trong những chiến lược trọng tâm nhằm bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, vì mục
tiêu con người, mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, gắn kết chặt chẽ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, giữa

phát triển kinh tế với phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội. Xét từ
góc độ chính trị - xã hội, lần đầu tiên trong Văn kiện của Đảng, vấn đề phát triển xã
hội, “Quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội” được tách riêng
thành một mục (mục VIII). Điều này khẳng định nhận thức cũng như quyết tâm chính
trị, hành động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội là
5


“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng và nhân dân ta đang
từng bước xây dựng.
Năm là, về mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân: Đảng khẳng định việc thực
hiện thành công mục tiêu chủ nghĩa xã hội hơn bao giờ hết đòi hỏi nhân tố nội lực, vai
trị chủ quan mang tính quyết định. Để làm được điều đó rất cần tạo dựng mối quan hệ
găn bó khăng khít, bền chặt giữa Đảng với Nhân dân.
3. Thực trạng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
3.1. Thực trạng
3.1.1. Về những thời cơ
- Một là, trên thế giới, trong những năm tới hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ,
hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn; tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là kinh tế tri thức và cách mạng công nghiệp lần
thứ tư đang phát triển mạnh mẽ tạo ra nhiều thời cơ cho việc xây dựng đất nước theo
con đường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Hai là, ở trong nước, sau 30 năm đổi mới, hợp tác và phát triển, thế và lực,
sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được
nâng cao; cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội đã được xác lập; ổn định
chính trị và mối quan hệ đồng thuận giữa Đảng và Nhân dân về cơ bản được giữ
vững. Những năm tới là thời kỳ Việt Nam sẽ thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng
đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập
quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với trước đòi hỏi sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng, quản lý hiệu quả của Nhà nước và sự đồng thuận cao của Nhân dân để có

thể tận dụng tối đa thời cơ trong quá trình phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
3.1.2. Về những thách thức đối với công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
- Thách thức bên ngồi
Tình hình chính trị - an ninh thế giới hiện nay thay đổi nhanh chóng, diễn biến
rất phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh
6


thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh
cục bộ, chiến tranh mạng... vẫn tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực và đang đặt
ra những thách thức to lớn cho Việt Nam trên con đường phát triển. Hơn nữa, Việt
Nam ở vào khu vực Đông Nam Á - là trung tâm địa kinh tế - chính trị chiến lược ngày
càng quan trọng trên thế giới, do vậy đây là khu vực có nhiều nhân tố dễ gây mất ổn
định làm ảnh hưởng lớn đến sự ổn định phát triển của Việt Nam.

Đối

với

Việt

Nam, để có độc lập dân tộc và phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa như ngày
nay, toàn thể dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu
và của Đảng đã phải trả bằng biết bao xương máu, tổn thất để giành và giữ lấy. Do
vậy, chúng ta không thể để cho bất kỳ thế lực nào thực hiện những hành động làm tổn
hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc. Chính vì lẽ đó, Đại hội XII đã xác định rõ phương
châm: “lấy lợi ích quốc gia - dân tộc làm mục tiêu cao nhất” và “phải đặt lợi ích quốc
gia - dân tộc lên trên hết”. Một khi lợi ích quốc gia - dân tộc khơng được đảm bảo,

bảo vệ thì lợi ích giai cấp và mục tiêu chủ nghĩa xã hội cũng không thể thực hiện
được.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự cạnh tranh trên trường
quốc tế cả về kinh tế và chính trị đang là một thách thức lớn, bởi vì trong khơng ít
trường hợp, các nước lớn lợi dụng vấn đề kinh tế để tạo sức ép về kinh tế và cả chính
trị hoặc phân biệt đối xử, từ đó gây khó khăn cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Nếu khơng vượt qua được những thách thức từ bên ngồi thì tụt hậu xa
hơn về kinh tế là nguy cơ hiện hữu.
- Những thách thức bên trong
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01-1994), Đảng ta
đã chỉ ra những thách thức lớn đối với sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. "Những thách thức là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới...; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa...; nguy cơ về
nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ "diễn biến hịa bình" của các thế lực thù
địch. Các nguy cơ đó có liên quan mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau" và đang đe
dọa sự tồn vong của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
7


Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Báo cáo chính trị của Đại
hội có ghi: "Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ "diễn biến hịa
bình" của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một
bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức
tạp của quan liêu, tham nhũng, lãng phí...”. Các vấn đề này quan hệ mật thiết với
nhau, đan xen lẫn nhau, đang tiếp tục tồn tại và diễn biến phức tạp, đã được khắc
phục, nhưng chưa được giải quyết triệt để, nếu không được ngăn chặn, khắc phục, sẽ
dẫn đến kết cục tổng quát: chủ nghĩa xã hội ở nước ta sụp đổ, đất nước sẽ đi theo con
đường khác, chế độ xã hội sẽ khơng cịn là xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động khơng

cịn là người chủ xã hội và đương nhiên Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ khơng cịn là
Đảng cầm quyền. Trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân là làm sao nhất thiết không
để xảy ra kết cục ấy. Thực hiện nghiêm túc và có kết quả các nghị quyết của Đảng
chính là cách tốt nhất để phịng ngừa sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Để phòng, chống tham nhũng về chức vụ, cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc về nạn
chạy chức; đổi mới nội dung và cách đánh giá cán bộ trước khi bầu cử, bổ nhiệm; cải
tiến công tác quy hoạch, luân chuyển, điều động cán bộ; đổi mới cơ chế bầu cử, bổ
nhiệm cán bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng đối với việc bầu
cử, bổ nhiệm cán bộ gắn với trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng
đầu; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí…
3.2. Giải pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; củng cố
liên minh giữa giai cấp cơng nhân với nơng dân và đội ngũ trí thức do Đảng ta lãnh
đạo làm nền tảng và là nòng cốt cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện ngày
càng đầy đủ các quyền dân chủ, làm chủ, quyền lực của nhân dân; giữ nghiêm kỷ
cương xã hội, chuyên chính với mọi tội phạm và kẻ thù của nhân dân.

8


Thứ hai, phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng cơ sở vật chất-kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội,
không ngừng phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân về vật chất và tinh thần.
Thứ ba, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu
và tính chất của sự phát triển lực lượng sản xuất qua nhiều hình thức đa dạng về sở
hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất, hợp tác sản xuất kinh doanh trong nước và quốc tế.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước là
chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho cả nền kinh tế quốc dân; từng bước
phát triển kinh tế tri thức một cách phù hợp, có hiệu quả và đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả

lao động và hiệu quả kinh tế làm nguyên tắc chủ đạo.
Thứ tư, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn
hoá, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành hệ tư tưởng chủ
đạo trong đời sống tinh thần của đất nước. Tiếp tục kế thừa và phát huy tinh hoa văn
hoá của dân tộc và nhân loại. Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa có trí tuệ, đạo đức,
lối sống, phong cách, có văn hố, văn minh; có thể chất và đời sống thẩm mỹ lành
mạnh. Đấu tranh loại trừ các biểu hiện phản văn hoá, văn minh, phi đạo lý, đạo
đức...trái với giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và của nhân loại tiến
bộ, trái với mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Thứ năm, thực hiện chính sách đại đồn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tập hợp mọi lực lượng xã hội tán thành và phấn đấu vì
mục tiêu chung: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện chính sách đối ngoại hịa bình, hợp tác, hữu
nghị, bình đẳng, độc lập và cùng có lợi với các nước, các tổ chức quốc tế.
Thứ sáu, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt quốc phịng tồn dân, an ninh nhân
dân, gắn chặt kinh tế với quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an
tồn xã hội.

9


Thứ bảy, thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam theo
phương châm: Phát triển kinh tế là trọng tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt
để Đảng ta luôn luôn trong sạch, vững mạnh, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín đáp ứng
vai trị lãnh đạo xã hội trên mọi lĩnh vực trước những yêu cầu ngày càng cao hơn với
những vận hội mới lẫn những thử thách mới.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Hiện nay ở nước ta có cả những thuận lợi, thời cơ để phát triển, đồng thời đang
phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức phải vượt qua. Giữa cơ hội và thách thức

có mối quan hệ qua lại và có thể chuyển hóa lẫn nhau. Cơ hội có thể trở thành thách
thức nếu không được tận dụng kịp thời. Mặt khác, không chỉ có những cơ hội khách
quan, mà cơ hội nằm ngay trong việc vượt qua các thách thức. Nghị quyết Hội nghị lần
thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã nêu một tư tưởng phương pháp luận:
"Thách thức có thể biến thành cơ hội nếu chúng ta chủ động ứng phó thành cơng". Tận
dụng được các thời cơ để phát triển và dùng thời cơ để chế ngự thách thức, đồng thời
khắc phục, chuyển hóa được các thách thức thành thời cơ sẽ tạo nên sức mạnh bảo
đảm giữ vững mục tiêu con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng, con đường phát triển quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã lựa chọn là con đường phát triển rút ngắn theo phương thức quá
độ gián tiếp. Đó là con đường phát triển tất yếu, khách quan, hợp quy luật theo tiến
trình phát triển lịch sử - tự nhiên của cách mạng Việt Nam, là sự vận dụng đúng đắn,
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Với Việt Nam, con đường
phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường
phát triển tất yếu, khách quan, hợp quy luật.
   

Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta

tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là q trình rất khó khăn,
phức tạp, tất yếu “phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất q độ”.

10



×