Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN bài học sụp đổ mô HÌNH CHỦ NGHĨA xã hội ở LIÊN xô, ĐÔNG âu với VIỆC xây DỰNG mô HÌNH CNXH ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
2
1. Sự sụp đổ mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu
4
a. Nguyên nhân của sự sụp đổ mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu 4
b. Bài học rút ra từ sự sụp đổ mô hình CNXH ở Liên Xô và
14
Đông Âu
2. Sự nhận thức và vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam vào
16
việc xác định mô hình xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay
a. Quá trình nhận thức và vận dụng của Đảng ta về mô hình xây
16
dựng CNXH
23
b. Một số vấn đề rút ra trong nhận thức và hành động của chúng ta
KẾT LUẬN
25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
26


2

MỞ ĐẦU
Một trong những vấn đề khó khăn và phức tạp nhất của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) chính là việc xác định được mô hình của một
chế độ xã hội mới. Đây là một trong những định hướng hết sức quan trọng,
giúp cho các Đảng Cộng sản đề ra con đường đúng, bước đi phù hợp, tránh


những sai lầm, khuyết điểm không đáng có. Điều này được các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác – Lênin đã từng chỉ rõ. Ngay trước cách mạng Tháng
Mười, Lênin viết: “Chúng ta không kỳ vọng rằng Mác hay những người theo
chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Như thế sẽ là phi lý. Chúng ta chỉ biết phương hướng của con đường
đó và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó; còn như về cụ thể
và trên thực tế con đường đó ra sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu con
người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động”1.
Thực tiễn quá trình xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ơ
Liên Xô và Đông Âu qua hơn 70 năm tồn tại, tuy mới trong giai đoạn đầu của
quá trình phát triển, nhưng những thành tựu mà nó mang lại không thể nào
phủ nhận được; cả về chính trị, kinh tế, xã hội, quân sự và khoa học kỹ
thuật.... Từ một nước kinh tế kém phát triển, sau một thời gian ngắn Liên Xô
đã trơ thành một cường quốc kinh tế, quân sự; đủ tiềm lực đánh bại chủ nghĩa
phát xít, cứu loài người thoát khỏi thảm hoạ nô dịch, tạo điều kiện cho sự ra
đời của hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa... Tuy nhiên, trong quá trình xây
dựng đã mắc phải những sai lầm chủ quan, duy ý chí kéo dài dẫn đến sự sụp
đổ mô hình CNXH hiện thực ơ Liên Xô và Đông Âu. Bên cạnh đó, trước sự
điều chỉnh, thích nghi, phát triển của CNTB hiện đại và căn cứ vào những hạn
chế, hiện tượng tiêu cực còn tồn đọng trong quá trình đổi mới, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN của thời kì quá độ lên CNXH, một số
người tỏ ra bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn của CNXH. Các thế
lực thù địch lợi dụng, ra sức chống phá CNXH cả về phương diện lý luận và
thực tiễn. Chúng cho rằng Việt Nam ta đã chọn sai đường, “cần gì phải đi con
đường XHCN, chủ nghĩa nào cũng được, miễn là cuộc sống no đủ”, được
1

V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb tiến bộ, Mát-cơ-va, 1976, tr. 152 – 153 (tiếng Việt)



3

giàu có và tự do, “Liên Xô hùng mạnh thế mà còn thất bại, Việt Nam liệu có
xây dựng được CNXH không?”, rằng Việt Nam ta “miệng nói CNXH nhưng
thực ra đang phát triển CNTB”, “đỏ vỏ xanh lòng” 2, … Vì vậy, nghiên cứu
làm rõ những nguyên nhân, những bài học kinh nghiệm rút ra từ sự sụp đổ mô
hình CNXH hiện thực ơ Liên Xô và Đông Âu cũng như làm sáng tỏ sự vận
dụng sáng tạo của Đảng ta về xác định mô hình xây dựng CNXH là vấn đề có
ý nghĩa to lớn cả lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp cách mạng nước ta
hiện nay.

Nguyễn Phú Trọng (cb): Về định hướng XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 11.
2


4

NỘI DUNG
1. Sự sụp đổ mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu
a. Nguyên nhân của sự sụp đổ mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu
Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) đầu tiên trên thế giới với
hơn 70 năm xây dựng và lớn mạnh. Trong thời điểm khó khăn nhất của lịch
sử, dù là can thiệp vũ trang của chủ nghĩa đế quốc, sự bao vây kinh tế, sự tấn
công trực tiếp của chủ nghĩa phát xít, hay chiến tranh thế giới... không những
không làm cho Liên Xô tan rã mà còn lớn mạnh hơn. Liên Xô từ một nước
kinh tế, văn hoá lạc hậu, sức mạnh quân sự chưa phát triển, đã trơ thành
cường quốc về kinh tế, khoa học kỹ thuật, quân sự, đồng thời là trụ cột của hệ
thống xã hội chủ nghĩa, đối trọng với Mỹ và chủ nghĩa đế quốc. Những thành
tựu đó của Liên Xô là không thể phủ nhận được.

Tuy nhiên, từ cuối những năm 80 của thế kỉ XX, Liên Xô và các nước
XHCN ơ Đông Âu đi vào thời kì khủng hoảng. Từ tháng 4/1989 đến tháng
9/1991, chế độ XHCN ơ Đông Âu và Liên Xô lần lượt sụp đổ, tạo nên “cơn
chấn động” chính trị lớn nhất trong lịch sử phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Vấn đề đặt ra là vì sao chế độ xã hội chủ nghĩa lại bị thất bại ơ Liên
Xô và Đông Âu? Cho đến nay, trên thế giới cũng như ơ Việt Nam đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu về hiện tượng lịch sử này, đưa ra nhiều nguyên
nhân cả sâu xa và trực tiếp, cả bên trong và bên ngoài để cắt nghĩa, lí giải về
sự khủng hoảng và sụp đổ của chế độ XHCN ơ Liên Xô và Đông Âu…
Từ sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ơ Liên Xô và Đông Âu, nhiều
học giả trên thế giới, nhiều chính khách và các Đảng cộng sản đã có lập
trường chính trị khác nhau về sự kiện này. Các thế lực thù địch phương Tây
phấn khơi cực độ chúc mừng nhau, tha hồ xuyên tạc và phủ nhận lý luận chủ
nghĩa Mác- Lênin họ cho rằng CNXH đã thất bại, chủ nghĩa cộng sản sẽ tiêu
vong hoàn toàn; CNXH không thể thay thế chủ nghĩa tư bản. Trong hàng ngũ
những người cộng sản có người nhận thức mơ hồ và cho rằng sự sụp đổ của
CNXH là kết quả “đẻ non” chưa có sự chuẩn bị đầy đủ các tiền đề cho nó và
họ thiếu lòng tin đối với tiền đồ của CNXH. Một số khác cho rằng chế độ
XHCN ơ Liên Xô và Đông Âu tan rã là do chủ nghĩa cơ hội xét lại trong


5

Đảng cộng sản đã thắng thế... làm cho chiến lược “diễn biến hoà bình” của
chủ nghĩa đế quốc giành thắng lợi toàn diện mà không mất viên đạn nào.
Đã có nhiều công trình, nhiều bài viết về vấn đề này ơ các góc độ khác
nhau. Tác giả không có tham vọng luận giải tất cả các nguyên nhân về sự sụp
đổ của nó, mà cho rằng đó là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân.
Thứ nhất, Đảng cộng sản Liên Xô đã buông lỏng sự lãnh đạo đối với
hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội.

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng là lực lượng lãnh đạo hệ thống
chính trị của CNXH và là một bộ phận của hệ thống đó. Từ chỗ chưa có chính
quyền đến có chính quyền là một bước ngoặt căn bản của cách mạng, là một
bước phát triển về chất trong sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đảng là
đội tiên phong giác ngộ có tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp, được trang bị lý
luận chủ nghĩa xã hội khoa học, do đó trong hệ thống chính trị chỉ có Đảng mới
đủ phẩm chất chính trị và năng lực, xứng đáng là người lãnh đạo. Lênin viết:
“Chủ nghĩa Mác giáo dục đảng công nhân, là giáo dục đội tiên phong của giai
cấp vô sản, đội tiên phong này đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến
lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ sức làm
thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động và
những người bị bóc lột để giúp họ tổ chức đời sống xã hội của họ, mà không cần
đến giai cấp tư sản và chống lại giai cấp tư sản”3; “Về nguyên tắc, Đảng cộng
sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa”4. Đảng
phải lãnh đạo xây dựng và phát huy vai trò của Nhà nước chuyên chính vô sản
trong xây dựng xã hội mới; Đảng phải phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ
cán bộ, đảng viên. Đảng là hạt nhân lãnh đạo, song chuyên chính vô sản không
thể được thực hiện chỉ bằng lực lượng của Đảng mà còn phải nhờ ơ những tổ
chức chính trị xã hội, đặc biệt là Đảng phải chăm lo đến lợi ích và phát huy
quyền làm chủ của quần chúng nhân dân lao động trên mọi lĩnh vực. Trong hệ
thống chính trị của CNXH, Nhà nước là một bộ phận hợp thành rất quan trọng.
Nhà nước gắn liền với Đảng, với quần chúng nhân dân trên lĩnh vực quản lý xã
hội, quản lý kinh tế, là vũ khí mạnh mẽ thực hiện nhiệm vụ của hệ thống chính
trị. Như vậy, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm xây
3
4

V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb tiến bộ, Mát-cơ-va, 1976, tập 33, tr.33.
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb tiến bộ, Mát-cơ-va, 1976, tập 33, tr.453.



6

dựng thành công CNXH.
Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện
nguyên tắc này và còn làm ngược lại với các biểu hiện: buông lỏng sự lãnh
đạo của Đảng, thủ tiêu sức mạnh, tập trung cao độ bao biện làm thay Nhà
nước và của cả hệ thống chính trị, mất dân chủ trong hoạt động của Đảng, mơ
đường cho những phần tử phản động phá hoại chính quyền, độc đoán, chuyên
quyền đưa đất nước trơ lại con đường tư bản chủ nghĩa…
Thứ hai, tư tưởng của đảng rất hỗn loạn, hiểu sai về nguyên lý xây
dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Chính sự dao động về tư tương, lập trường chính trị dẫn tới mất phương
hướng chính trị và từ bỏ nguyên tắc ơ những thời điểm bước ngoặt, chấp nhận
đa nguyên hệ tư tương và đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, phủ nhận tập
trung dân chủ là nguyên tắc cốt tử của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội
chủ nghĩa, làm cho Đảng không còn là một tổ chức chính trị cầm quyền mà
trơ thành một câu lạc bộ bàn suông. Nhà nước không còn quyền lực điều hành
và không kiểm soát nổi tình hình đất nước. Những người lãnh đạo cải tổ lùi
dần từng bước, từng bước, thậm chí ngày càng công khai tuyên bố từ bỏ
những mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà họ từng hứa hẹn, từ bỏ chủ nghĩa Mác Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Cụ thể như sau:
Về đường lối chính trị, Đảng cộng sản đã xét lại chủ nghĩa Mác- Lênin,
xa rời những vấn đề có tính nguyên tắc mácxít trong xây dựng Đảng thực hiện
đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, dân chủ cực đoan vô chính phủ, vô
nguyên tắc. Bôi nhọ lịch sử, phi chính trị hoá quân đội, từ bỏ đấu tranh giai
cấp. Về quan điểm lý luận có lúc rơi vào chủ nghĩa duy tâm, chủ quan duy ý
chí, công thức hóa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, coi nhẹ công tác tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn, phát triển lý luận. “Trong bộ máy Trung ương,
chủ nghĩa Mác- Lênin bị phê phán như là học thuyết lỗi thời, việc phê phán
chủ nghĩa xã hội, Lênin đã trơ thành “mốt”, hay nói một cách khác đây là biện

pháp tích cực nhất để tước bỏ vũ khí lý luận của Đảng cộng sản Liên Xô”5.
Về thể chế kinh tế, không căn cứ vào tình hình mới để phát triển sáng
tạo lý luận Mác, chủ quan duy ý chí, muốn nhanh chóng có CNXH, nên đã
5

Sự phản bội của Goócbatrốp, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1998, tr. 21.


7

xoá bỏ các hình thức sơ hữu trung gian, ồ ạt công hữu hoá trong khi trình độ
của lực lượng sản xuất còn thấp chưa phát triển, đây là sai lầm đi trái quy luật:
quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất, kiến trúc
thượng tầng phải phù hợp với cơ sơ hạ tầng. Trong quản lý kinh tế duy trì chế độ
tập trung bao cấp quá lâu, phân phối bình quân... Bước vào thời kỳ cải tổ lại ồ ạt
tư nhân hoá tràn lan, chủ yếu thực hiện chính sách “500 ngày” tăng tốc phát triển
kinh tế nhưng lại không có cơ chế quản lý phù hợp dẫn đến thất bại sau đó lại
chuyển sang cải tổ chính trị.
Về chính trị- xã hội, đã xử lý các mối quan hệ giữa các thành tố trong
hệ thống chính trị chưa đúng đắn, Đảng lãnh đạo nhưng lại bao biện làm thay,
“Đảng trị”, quan chức nhà nước thì quan liêu tham nhũng... Quyền làm chủ
của nhân dân lao động bị vi phạm, tạo ra rối ren trong xã hội thông qua việc
cấm rượu... Chính sách dân tộc, tôn giáo xử lý không đúng theo nguyên tắc
của chủ nghĩa Mác- Lênin. Công tác tổ chức cán bộ, việc đào tạo, sử dụng tuỳ
tiện, giáo dục, bồi dưỡng cán bộ lúc tả khuynh lúc hữu khuynh.
Đó chính là giải quyết không đúng đắn mối quan hệ giữa cải cách kinh tế
và cải cách chính trị. Khi cải cách kinh tế thì phiêu lưu mạo hiểm trong chính
sách, bước đi và biện pháp cải tổ. Chuyển sang cải tổ chính trị không dựa trên
thực trạng kinh tế, tiến hành “dân chủ công khai” một cách mơ hồ, mơ đường
cho các thế lực phản động tấn công vào Đảng, vào chủ nghĩa xã hội, kích động,

mị dân, lừa bịp quần chúng. Bằng phát súng lệnh “công khai”, “dân chủ”,
“không vùng cấm”, cải tổ đã nhanh chóng tạo ra làn sóng phê phán, công kích,
bôi đen tất cả những gì gắn với lịch sử hơn 70 năm xây dựng CNXH, phủ định
sạch trơn mọi thành tựu của CNXH. Nó gây hoang mang, xáo động đến cực độ
trong tư tương xã hội, phá vỡ niềm tin của quần chúng đối với những giá trị của
CNXH. Người ta sử dụng toàn bộ phương tiện thông tin đại chúng để làm việc
này và chiến dịch tuyên truyền, đào bới, phủ định quá khứ được các đài, báo
phương Tây tiếp sức mạnh mẽ và lái theo những ý đồ, mục đích của phương Tây.
Thứ ba, cán bộ của đảng thoái hóa, biến chất xa rời quần chúng nghiêm
trọng, thiếu tổng kết, rút kinh nghiệm, không trau dồi bổ sung lý luận trong Đảng.
Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động vào Đảng, phải thường xuyên đưa những người không


8

đủ tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng. Đảng phải xứng đáng
vai trò đội tiên phong và lãnh tụ chính trị của giai cấp vô sản. Đảng phải là bộ
phận có ý thức giác ngộ nhất của giai cấp, là hình thức tổ chức cao nhất của
giai cấp vô sản. Do đó phải tuyển lựa đảng viên một cách chặt chẽ, người
đảng viên phải thực sự là chiến sĩ tiên phong cách mạng của giai cấp vô sản,
phải phân biệt đảng viên với người cảm tình đảng. Lênin viết: “Trái lại, các tổ
chức đảng của chúng ta bao gồm những người dân chủ - xã hội chân chính mà
càng mạnh mẽ bao nhiêu, và trong nội bộ đảng càng ít có tình trạng dao động
và không kiên định bao nhiêu, thì ảnh hương của đảng đối với những người
trong quần chúng công nhân chung quanh đảng và chịu sự lãnh đạo của đảng,
sẽ càng rộng rãi, càng nhiều mặt, càng phong phú, càng hiệu quả bấy nhiêu” 6.
Việc phát triển Đảng phải đi đôi với củng cố Đảng, hai mặt này gắn bó chặt
chẽ với nhau. Làm tốt công tác phát triển Đảng có ý nghĩa thiết thực góp phần
củng cố Đảng. Phát triển Đảng đúng tiêu chuẩn, đúng phương hướng, qua đó

nâng cao chất lượng đảng viên, đó là việc làm cần thiết để nâng cao sức chiến
đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng. Đồng thời “Phải đuổi ra khỏi Đảng
những kẻ gian xảo, những đảng viên cộng sản đã quan liêu hoá, không trung
thực, nhu nhược...”7. Như vậy, muốn làm cho đội ngũ của Đảng luôn luôn
trong sạch, có đủ năng lực lãnh đạo, hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, một mặt kết nạp những chiến sĩ ưu tú, đồng thời phải kiên quyết
đưa ra khỏi Đảng những phần tử cơ hội, thoái hoá biến chất.
Nhưng Đảng cộng sản Liên Xô trong thời gian dài đã không thực hiện
nguyên tắc này, biểu hiện: nạn cửa quyền hách dịch với quần chúng nhân dân
không nắm được nguyện vọng của dân, không tôn trọng ý kiến nhân dân,
chuyên quyền, độc đoán cá nhân, xa rời quần chúng nhân dân. Cán bộ lãnh
đạo tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi ơ mức độ khác nhau. Đảng cộng sản Liên
Xô đã mất đi hình ảnh của những người cộng sản chí công vô tư suốt đời phục
vụ nhân dân, vào giờ phút lâm nguy quần chúng nhân dân cũng không chia sẻ
với khó khăn của Đảng. Trái lại, với khẩu hiệu “cải tổ để đem lại cuộc sống
cho nhân dân” thì uy tín của Yeltsin trong quần chúng nhân dân lên cao với
chiêu bài: kiên quyết chống đặc quyền, đặc lợi... Phái đối địch nắm lấy điểm
. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb tiến bộ, Mát-cơ-va, 1979, tập 8, Tr.288 - tr. 289.
. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb tiến bộ, Mát-cơ-va, 1978, tập 44, Tr.154.

6
7


9

này để kích động, cổ vũ quần chúng chống đối Đảng cộng sản và chính quyền
các cấp ơ Liên Xô, đẩy quần chúng đối trọng với chính quyền.
Thứ tư, nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng bị phá hoại
Theo Mác và Ăngghen tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản

trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Đảng phải được tổ
chức theo chế độ tập trung dân chủ, chế độ tập trung dân chủ là nền tảng tổ
chức của một đảng vô sản kiểu mới. Thực hiện chế độ tập trung dân chủ trong
Đảng sẽ làm cho Đảng thống nhất được chính trị, tư tương và tổ chức nhằm
củng cố và tăng cường sức mạnh, làm cho mọi chủ trương, đường lối được
thực hiện một cách có hiệu quả, thực hiện tốt chế độ tập trung dân chủ sẽ góp
phần ngăn ngừa sự phá hoại của các phần tử không kiên định, vô chính phủ,
cơ hội chủ nghĩa. Lênin viết: “Hiện nay chúng ta đã trơ thành một đảng có tổ
chức, điều đó có nghĩa là chúng ta đã tạo ra một quyền lực, biến uy tín về tư
tương thành uy tín về quyền lực, khiến cấp dưới phải phục tùng cấp trên của
đảng”8. Đảng muốn lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động trong
cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, muốn có sức mạnh, Đảng phải có sự
thống nhất về ý chí và hành động. Điều kiện cho sự thống nhất của Đảng
trước hết phải có cương lĩnh chính trị, và sau đó phải có tổ chức chặt chẽ, làm
điều đó sẽ tránh được tình trạng chia rẽ, phân tán ơ trong Đảng. Ngoài hai yếu
tố cương lĩnh chính trị và hệ thống tổ chức chặt chẽ, để nguyên tắc tập trung
dân chủ thực hiện đúng đắn, Đảng phải có một điều lệ thống nhất, một cơ
quan chỉ đạo thống nhất, Đảng phải có một kỷ luật sắt tự giác, nghiêm minh.
Lênin khẳng định: “Từ chối không chịu phục tùng sự lãnh đạo của các cơ
quan trung ương, tức là từ chối không muốn làm người đảng viên, tức là phá
hoại đảng”9. Tập trung đi liền với dân chủ, Đảng phải có dân chủ, nếu không
có dân chủ sẽ có nguy cơ thoái hoá thành tổ chức quan liêu. Tập trung càng
cao thì dân chủ càng cao. Không thể có dân chủ mà thiếu tập trung và ngược
lại không thể có tập trung mà thiếu dân chủ. Yêu cầu ý thức giác ngộ của
đảng, lòng trung thành đối với sự nghiệp cách mạng, phải liên hệ, gần gũi với
quần chúng lao động và được quần chúng tin tương.
8
9

V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb tiến bộ, Mát-cơ-va, 1979, tập 8, tr.428- tr 429.

V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb tiến bộ, Mát-cơ-va, 1979, tập 8, tr.424.


10

Nhưng Đảng cộng sản Liên Xô trong thời gian dài đã không thực hiện
nguyên tắc này, biểu hiện: vấn đề nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng
Cộng sản Liên Xô bị phá hoại làm cho đảng mất khả năng lãnh đạo, mà ngay
cả mâu thuẫn trong đảng cũng không giải quyết nổi. Tệ sùng bái cá nhân, độc
đoán chuyên quyền, từ những năm 1930 đã phá hoại pháp chế dân chủ làm
tổn thương nghiêm trọng hình ảnh của CNXH. Từ Đại hội lần thứ XX của
Đảng Cộng sản Liên Xô trơ đi, không ngừng phê phán Stalin, mặc dù vậy
đảng vẫn không thực sự rút ra bài học đó. Goócbatrốp nói dân chủ, nhưng
thực tế là trong Đảng lại thiếu dân chủ, nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến
vận mệnh đất nước đều không thông qua tập thể bàn bạc và quyết định:
“Goócbatrốp thanh trừng hàng loạt trong Đảng... trong 4 năm (1986- 1989)
thay thế 80- 90% các bí thư huyện uỷ, thành uỷ, tỉnh uỷ, khu uỷ...trong khi đó
một nửa các bí thư mới thậm chí không được bầu mà chỉ định bổ sung” 10, “Từ
bỏ điều 6 của hiến pháp, chuyển từ nguyên tắc xây dựng Đảng thống nhất
sang liên minh tự nguyện của các Đảng của các nước cộng hoà... tước bỏ đi
nguyên tắc lãnh đạo và xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng”11.
Thời kỳ xảy ra khủng hoảng ơ Liên Xô và Đông Âu, người ta đã tiến
hành điều tra xã hội học về đảng: “Đảng Cộng sản Liên Xô đại biểu cho ai”.
Kết quả cho thấy: Đảng Cộng sản Liên Xô đại biểu cho toàn thể nhân dân lao
động chỉ chiếm 7%, đại biểu cho công nhân chỉ chiếm 4%, đại biểu cho toàn
thể đảng viên cũng chỉ chiếm 11%, còn cho rằng Đảng Cộng sản Liên Xô đại
biểu cho giới quan chức của đảng, đại biểu cho cán bộ, đại biểu cho nhân viên
công tác ơ các cơ quan chiếm 85%. Xem xét thực tế sau khi Liên Xô sụp đổ,
“tầng lớp quý tộc mới” của Nga hiện nay phần lớn không phải là những người
bất đồng chính kiến, mà là quan chức các cấp trong Đảng Cộng sản Liên Xô

trước đây. Chính lớp cán bộ thoái hoá biến chất đó trong đảng, trước tiên
mượn “cải tổ” để phá hủy chế độ XHCN. Sau đó, khi giải thể, họ trơ thành
những kẻ mới phất lên mà không một điều băn khoăn gì, mặc sức vơ vét của
cải. Đối với một đảng mất lòng dân, xa rời quần chúng nhân dân như thế, thì
đảng đó có cầm quyền hay không cầm quyền cũng không liên quan gì đến
quần chúng nhân dân, quần chúng không quan tâm đảng đó còn hay mất.
10
11

Sự phản bội của Goócbatrốp, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,1998, tr 21.
Sự phản bội của Goócbatrốp, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,1998, tr 27, tr 30.


11

Điều đó cũng dễ hiểu, vì sao khi lá cờ trên điện Kremli bị kéo xuống,
Matxcơva tĩnh lặng, quần chúng nhân dân không hề có một phản ứng gì, việc
chuyển giao chính quyền rất thuận lợi. Điều đó nghĩa là sự hủ bại trong Đảng
Cộng sản Liên Xô là nguyên nhân tầng sâu khiến nó sụp đổ. Mặt khác, kỷ luật
trong đảng bị buông lỏng, tập trung quan liêu, chuyên quyền, độc đoán, dân chủ
vô tổ chức, vô chính phủ do đó các phần tử chống cộng ơ ngoài đảng, chúng xúi
bẩy mọi người đứng lên từ trong đảng. Về một ý nghĩa nào đó mà nói, sự sụp đổ
của Liên Xô và Đông Âu là cuộc tự đảo chính do bọn người này phát động.
Thứ năm, Đảng không liên hệ mật thiết với quần chúng, quan liêu,
xa rời quần chúng.
Đảng phải liên hệ mật thiết với quần chúng, là hiện thân của mối liên
hệ giữa đội tiên phong với giai cấp công nhân và nhân dân lao động; kiên
quyết đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần
chúng. Quần chúng tin tương ơ Đảng, ủng hộ Đảng và theo Đảng làm cách
mạng, đồng thời Đảng làm hết sức mình để phát huy vai trò và khả năng

sáng tạo không bao giờ cạn của quần chúng. Sức mạnh vô địch của Đảng là
ơ mối liên hệ với nhân dân, cũng như sức mạnh dời non lấp biển của nhân
dân bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng. Lênin viết: “Để không trơ thành
đảng của quần chúng chỉ trên lời nói, chúng ta phải thu hút quần chúng ngày
càng rộng rãi tham gia vào tất cả những công việc của đảng” 12.
Thực tiễn đã chứng minh: mối liên hệ với quần chúng là quy luật tồn
tại, phát triển và hoạt động của Đảng cộng sản, là nguồn gốc sức mạnh của
Đảng, là bảo đảm cho sự thành công của toàn bộ sự nghiệp cách mạng, nếu
không liên hệ với quần chúng thì Đảng không là cái gì hết. Lênin viết: “Đội
tiền phong chỉ làm tròn được sứ mệnh của nó khi nó biết gắn bó với quần
chúng mà nó lãnh đạo và thực sự dẫn dắt toàn thể quần chúng tiến lên. Nếu
không liên minh với những người không phải là đảng viên cộng sản trong các
lĩnh vực hoạt động hết sức khác nhau, thì không thể nói tới một thành công
nào trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản cả” 13. Củng cố mối liên hệ
này là vấn đề thuộc bản chất của Đảng cộng sản, thiếu điều kiện này không
những không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mà còn có thể dẫn
12

. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb tiến bộ, Mát-cơ-va, 1979, tập 8, tr.106
. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb tiến bộ, Mát-cơ-va, 1978, tập 45, tr.28

13


12

đến nguy cơ mất chính quyền. Trong giai đoạn Đảng lãnh đạo chính quyền
xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề củng cố và tăng cường mối liên hệ giữa
Đảng và nhân dân càng trơ nên cấp bách và quan trọng hơn bao giờ hết. Vì
bước vào cách mạng xã hội chủ nghĩa là bước vào một cuộc cách mạng sâu

sắc nhất, toàn diện nhất, triệt để nhất và do đó nó cũng gay go nhất, phức tạp
nhất trong lịch sử loài người. Đó là thời đại rung chuyển vũ bão về chính trị
và kinh tế, thời đại đấu tranh giai cấp cực kỳ sâu sắc. Cuộc cách mạng này đòi
hỏi Đảng phải động viên và phát huy cao nhất tính tích cực và sáng tạo của
quần chúng nhân dân, không như thế thì không thể có CNXH được. Lênin đã
khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội sinh động sáng tạo là sự nghiệp của bản thân
quần chúng nhân dân”14 và “một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ
nhất là tự cắt đứt liên hệ với quần chúng” 15, nếu những ai quên mất những
mối quan hệ khăng khít giữa đội tiên phong và toàn thể quần chúng nhân dân
thì đó sẽ là một tai hoạ.
Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện
nguyên tắc này, biểu hiện: Đảng cộng sản Liên xô đã xa rời mối liên hệ giữa
Đảng và quần chúng, không phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đội ngũ
cán bộ, đảng viên hoạt động trong các lĩnh vực thì quan liêu không hướng dẫn
quần chúng thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng. Trong Đảng nảy sinh
bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, nhất là khi đảng viên có chức,
có quyền, làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu rèn luyện rơi vào tình
trạng thoái hoá, biến chất, xa dần với nhân dân. Vì vậy, đã làm tiêu vong tổ
chức cộng sản từ gốc rễ của nó, đúng như lời cảnh báo của Lênin đối với các
Đảng cộng sản và đội ngũ đảng viên cộng sản.
Thứ sáu, từ bỏ tính quốc tế của Đảng cộng sản.
Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng trong xây dựng Đảng
kiểu mới của chủ nghĩa Mác- Lênin. Chính xuất phát từ vai trò sứ mệnh lịch sử
thế giới của giai cấp công nhân hiện đại mà khi nghiên cứu nguồn gốc, bản chất
của giai cấp công nhân Mác và Ăngghen đã đề ra khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các
nước, đoàn kết lại”. Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp,
khi nền sản xuất phát triển, sự tồn tại của chế độ sơ hữu tư bản tư nhân không
14

. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb tiến bộ, Mát-cơ-va, 1981, tập 35, tr.64

. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb tiến bộ, Mát-cơ-va, 1978, tập 44, tr.426

15


13

còn phù hợp, nó tất yếu sẽ bị thay thế bơi chế độ sơ hữu công cộng về tư liệu
sản xuất, từ đó tạo nên mối đoàn kết giữa các dân tộc. Đúng như Lênin khẳng
định: “Sự phát triển của trao đổi quốc tế và của nền sản xuất cho thị trường
toàn thế giới đã tạo ra một mối quan hệ hết sức chặt chẽ giữa tất cả các dân tộc
trong thế giới văn minh, khiến cho phong trào công nhân hiện đại phải trơ
thành và từ lâu đã trơ thành một phong trào quốc tế”16. Người nhấn mạnh: “Chỉ
có người vô sản mới có khả năng xoá bỏ sự cách biệt giữa các dân tộc, chỉ có
giai cấp vô sản giác ngộ mới xây dựng được tình anh em giữa các dân tộc khác
nhau”17. Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là bản chất của Đảng cộng
sản. Tính quốc tế của Đảng thể hiện trước hết ơ chỗ Đảng được tổ chức và
hoạt động theo những nguyên lý của học thuyết Mác - Lênin; Đảng định ra
đường lối, chiến lược, sách lược đối nội và đối ngoại; quan tâm giáo dục đội
ngũ đảng viên và quần chúng lao động về chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân và “Liên minh với những người cách mạng trong các nước tiên tiến và
với tất cả các dân tộc bị áp bức chống bọn đế quốc chủ nghĩa thuộc bất cứ loại
nào, đó là chính sách đối ngoại của giai cấp vô sản”18.
Nhưng Đảng cộng sản Liên Xô trong thời gian dài đã không thực hiện
nguyên tắc này biểu hiện: ngay trong Đảng đã từ bỏ chủ nghĩa yêu nước chân
chính gắn với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đảng cộng sản Liên xô đã mắc
phải chủ nghĩa sôvanh nước lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, phủ nhận chủ
nghĩa Mác- Lênin về đoàn kết quốc tế.
Thứ bảy, do sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn
diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện được “diễn biến hòa bình” trong

nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu.
Các chiến lược gia phương Tây sớm nhận ra “gót chân Asin” của cải tổ:
đó là đường lối xét lại, là hệ tư tương tư sản, là chính sách thỏa hiệp, nhân
nhượng vô nguyên tắc với Mĩ và phương Tây thể hiện tập trung ơ “tư duy
chính trị mới”. Hứa hẹn viện trợ kinh tế được dùng làm một thứ vũ khí rất lợi
hại để lái cuộc cải tổ theo quỹ đạo mà phương Tây mong muốn. Chủ nghĩa đế
quốc đã đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và
. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb tiến bộ, Mát-cơ-va, 1975, tập 6, tr.261
. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb tiến bộ, Mát-cơ-va, 1995, tập 2, tr.792
18. V .I.Lênin: Toàn tập, Nxb tiến bộ, Mát-cơ-va, 1981, tập 32, tr.425
16
17


14

Đông Âu. Đặc biệt là âm mưu “diễn biến hòa bình”, “cách mạng nhung”,
“chiến thắng không cần chiến tranh” của chủ nghĩa đế quốc. Chiến lược diễn
biến hòa bình đã được các nước đế quốc công phu thiết kế dàn dựng lâu dài từ
sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Chống phá CNXH là một chiến lược phản
cách mạng bao gồm các phương tiện và thủ đoạn tinh vi từ kinh tế đến chính
trị, văn hóa, xã hội. Chúng thường cấu kết với các thế lực phản động chống phá
từ bên trong, tập trung vào các đối tượng nhạy cảm như thanh niên, học sinh,
sinh viên, trí thức, văn nghệ sĩ để lung lạc thế giới quan, hệ tư tương, kích động
tâm lí bất mãn, chống đối, gây thù hằn dân tộc, tôn giáo, lợi dụng chiêu bài
“dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do” với nội dung trừu tượng, phi lịch sử mà thực
chất là lồng vào đó quan điểm tư sản, chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội.
Chúng còn ra sức khai thác những yếu điểm, sai lầm trong các nước xã hội chủ
nghĩa, thổi bùng tâm lí bất mãn, chống đối, làm suy yếu mối liên hệ xã hội của
quần chúng nhân dân với Đảng và Nhà nước, tiến hành tuyên truyền, lừa mị

dân, kết hợp với thâm nhập kinh tế, văn hóa để đẩy nhanh sự chệch hướng.
Trong cuốn sách “Chiến thắng không cần chiến tranh”, Tổng thống Mĩ
Níchxơn cho rằng “mặt trận tư tương là mặt trận quyết định nhất”. Ông ta viết:
“Toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hiệp định mậu dịch, viện trợ kinh tế sẽ
không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tương”. Chiến lược của
Mĩ trước sau như một là đưa bất ổn vào bên trong “bức màn sắt”.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản trên dẫn đến sự sụp đổ mô hình
chủ nghĩa xã hôi ơ Liên Xô và Đông Âu. Suy cho đến cùng, đó chính là do
xác định sai mô hình, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chủ
quan, duy ý chí, nóng vội trong xây dựng CNXH.
b. Bài học rút ra từ sự sụp đổ mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu
Thứ nhất, kiên định với mục tiêu XHCN, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin
làm nền tảng tư tương cho mọi hành động.
Chủ nghĩa Mác do C.Mác và Ăngghen sáng lập vào giữa thế kỷ XIX, V.I.
Lênin bảo vệ và phát triển thành chủ nghĩa Mác – Lênin vào đầu thế kỷ XX. Một
thế kỷ đã trôi qua, lịch sử với biết bao biến cố trong đời sống xã hội, với biết bao
thành tựu khoa học mới đã ra đời. Nhưng không một thế lực nào có thể xuyên tạc
hoặc phủ nhận học thuyết khoa học và cách mạng này. Một trong những nguyên


15

nhân cơ bản dẫn đến sự sụp đổ Liên Xô và Đông Âu chính là từ bỏ nguyên tắc này
– nguyên tắc lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tương cho hành động,
công khai tuyên bố từ bỏ những mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà họ từng hứa hẹn, từ
bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản...
Thực tiễn thành công của công cuộc cải cách, đổi mới ơ các nước XHCN
còn lại như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba... đó chính là vẫn kiên trì với chủ
nghĩa Mác – Lênin, trên cơ sơ vận dụng sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào

phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng
sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh..."
Thứ hai, xây dựng Đảng thật sự trong sạch vững mạnh theo nguyên tắc
tập trung dân chủ.
Đảng Cộng sản là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu quyết
định đến sự thành bại của cách mạng với điều kiện Đảng đó phải thật sự cách
mạng, trong sạch vững mạnh. Sự sụp đổ Liên Xô và Đông Âu có nhiều
nguyên nhân, nhưng nguyên nhân cơ bản nhất chính là Đảng Cộng sản Liên
Xô, Đông Âu mất vai trò lãnh đạo đối với toàn bộ đời sống xã hội; cán bộ
đảng viên thì thoái hóa, biến chất, suy thoái về chính trị tư tương và đạo đức,
lối sống, để cho phần tử cơ hội chủ nghĩa chui sâu leo cao và trong hàng nguũ
chóp bu của Đảng; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng...Vì vậy,
một trong những bài học kinh nghiệm rút ra từ sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa
xã hội ơ Liên Xô và Đông Âu chính là phải xây dựng Đảng thật sự trong sạch
vững mạnh theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thứ ba, thường xuyên nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, bổ sung mô
hình xây dựng chủ nghĩa xã hội cho phù hợp với sự vận động của thực tiễn.
Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, bổ sung mô hình xây dựng
CNXH, đây là việc làm thường xuyên và cũng là vấn đề mang tính quy luật.
Mô hình CNXH không phải nhất thành bất biến, mà cũng phải thường xuyên
được bổ sung để ngày hoàn thiện hơn. Việc áp đặt mô hình xây dựng CNXH
một cách máy móc, cứng nhắc ơ Liên Xô và Đông Âu thời gian trước đây
cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ là tất yếu.


16

2. Sự nhận thức và vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam vào việc
xác định mô hình xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay
a. Quá trình nhận thức và vận dụng của Đảng ta về mô hình xây

dựng CNXH
Mặc dù chế độ XHCN ơ Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ, hệ thống
XHCN tạm thời lâm vào thoái trào khủng hoảng. Tuy nhiên, một số nước vẫn
tiếp tục giữ vững đi theo con đường XHCN trong đó có Việt Nam. Để vượt qua
khủng hoảng, các nước đã tiến hành cải tổ, đổi mới căn bản mô hình xây dựng
CNXH theo kiểu Liên Xô trước đây; giữ vững được mục tiêu xây dựng CNXH;
giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có những bước đi đúng đắn
trong quá trình đổi mới cải cách và tìm cách tiến lên bằng phương thức mới.
Trong đó, việc xác định đúng đắn mô hình CNXH là yếu tố có ý nghĩa quyết
định đến sự thành công của công cuộc xây dựng CNXH ơ nước ta. Bơi lẽ đó là
những định hướng cơ bản nhất, để từ đó, Đảng, Nhà nước hoạch định đường
lối, chủ trương, chính sách và pháp luật nhằm hiện thực hóa CNXH ơ nước ta.
Để thấy được sự biến đổi căn bản trong nhận thức của Đảng ta về xác
định mô hình đi lên xây dựng CNXH trong thời kỳ mới chúng ta thử nhìn lại
mô hình CNXH Xô viết trước đây sự khác biệt đó được thể hiện như thế nào?
Và sự thay đổi đó diễn ra chủ yếu ơ lĩnh vực nào?
Mô hình CNXH mà chúng ta theo đuổi trước đây có những đặc trưng cơ
bản: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhanh, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng;
Xóa bỏ sở hữu tư nhân, thiết lập chế độ công hữu vơi hai hình thức: toàn dân và
tập thể; Nhanh chóng xóa bỏ thị trường tự do, thiết lập nền kinh tế hiện vật và
thực hiện phương thức theo kiểu cấp phát và giao nộp; Nhà nước trực tiếp điều
hành nền kinh tế – xã hội, Đảng trực tiếp điều hành Nhà nước.
Mô hình ấy trong một thời gian dài đã có những giá trị nhất định chúng ta
không thể phủ nhận hoàn toàn, như trên bình diện xã hội không còn người bóc
lột người chỉ tồn tại hai hình thức sơ hữu là toàn dân và tập thể. Xã hội bao cấp,
nhà nước nắm toàn bộ của cải vật chất nên mọi người được hương thành quả
chung nhất là giáo dục và y tế, mọi người dân đều có cơ hội như nhau trong học
hành và khám chữa bệnh đây cũng chính là khác biệt lớn so với bây giờ. Xã hội
tạo nên sự thống nhất nó có nhưng giá trị hết sức to lớn nhất là đối với những



17

nước mục tiêu độc lập dân tộc đang là ưu tiên số một như nước ta. Tinh thần
quốc tế vô sản và sự giúp đỡ chí tình chí nghĩa của các nước XHCN anh em đối
với phong trào giải phóng dân tộc ơ các nước thuộc địa và phụ thuộc đã góp phần
vào sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Sự ra đời và tồn tại của hệ thống
XHCN cũng đã tạo nên đối trọng buộc chủ nghĩa tư bản phải điều chỉnh sự thống
trị. Song mô hình ấy tồn tại quá lâu, nảy sinh những khiếm khuyết trong khi
không có sự điều chỉnh kịp thời, thêm vào đó sự chống phá quyết liệt của kẻ thù
trên mọi lĩnh vực làm cho CNXH rơi vào khủng hoảng.
Cụ thể, sau thắng lợi lịch sử mùa Xuân 1975, cả nước bắt tay vào công
cuộc xây dựng CNXH. Mô hình mà chúng ta xây dựng trong thời kỳ này là theo
kiểu Liên Xô. Theo đó, chúng ta đã đối lập giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa
tư bản theo tinh thần phủ định hoàn toàn chủ nghĩa tư bản. Trong lĩnh vực kinh
tế, đã coi kinh tế tập trung bao cấp là một đặc trưng của kinh tế xã hội chủ nghĩa
nên đã coi nhẹ hoặc phủ nhận sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị, có thành kiến
với kinh tế thị trường do đồng nhất giữa kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản.
Đặc biệt, trong nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ
sản xuất đã có nhiều vi phạm những quy luật khách quan như: cường điệu hóa
vai trò của chế độ công hữu, đối lập giữa sơ hữu tư nhân với chủ nghĩa xã hội,
muốn nhanh chóng xóa bỏ bóc lột, nhấn mạnh một chiều nhiệm vụ cải tạo quan
hệ sản xuất mà coi nhẹ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất. Trong lĩnh vực
chính trị do đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản nên đã không
thừa nhận tính chất pháp quyền của nhà nước XHCN, không thấy đầy đủ yêu cầu
phát huy dân chủ XHCN trong xây dựng xã hội mới....
Nhưng khuyết điểm và hạn chế đã được Đảng ta rút ra và phân tích một
cách thấu đáo từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI để từ đó tìm ra một mô
hình mới với những đặc trưng phù hợp. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI
của Đảng (năm 1986) đánh dấu bước đổi mới toàn diện đất nước, trong đó

quan trọng nhất là đổi mới tư duy lý luận, đặc biệt là đổi mới nhận thức về mô
hình CNXH mà chúng ta đang xây dựng, thay thế mô hình CNXH theo kiểu
Liên Xô trước đây bằng mô hình cụ thể, thiết thực với điều kiện cách mạng
nước ta. Đại hội VI đã đưa ra những nhận thức mới về cơ cấu kinh tế, công
nghiệp hóa XHCN trong chặn đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, thừa nhận sự


18

tồn tại khác quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, từ bỏ cơ chế tập trung
quan liêu, bao cấp và khẳng định cần phải chuyển sang hạch toán kinh doanh.
Đại hội VI chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần với những hình thức
kinh doanh phù hợp, coi trọng lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, chăm lo toàn
diện và phát huy nhân tố con người. Có thể nói Đại hội VI đã đánh dấu bước
chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về mô hình CNXH.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), Đảng ta đã
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh 1991), và ơ trong Cương lĩnh này Đảng ta đã xác
định mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Do
nhân dân lao động làm chủ; Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu;
Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện cá nhân; Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Nhìn vào 6 đặc trưng cơ bản trên đây ta thấy được sự đổi mới căn bản
nhận thức của Đảng ta về mô hình đi lên CNXH so với trước đây. Mô hình cũ
không còn phù hợp và sự không phù hợp đó trước hết và chủ yếu là trong lĩnh
vực kinh tế, vì vậy, Đảng ta chủ trương lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,

từng bước đổi mới chính trị và các lĩnh vực khác. Tránh khỏi bài học sai lầm
tư Liên Xô và Đông Âu chính là quá nóng vội, chủ quan duy ý chí trong việc
xác định cải tổ trước đây.
Về kinh tế, Đảng ta chủ trương xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa, tập trung
quan liêu bao cấp, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước; lấy công nghiệp hóa làm nhiệm
vụ trọng tâm, nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; thiết lập nhiều hình thức phân
phối nhưng phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; hoạt động
kinh tế khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo công bằng xã hội.
Bên cạnh kinh tế Đảng ta cũng chủ trương từng bước đổi mới chính trị
mà bắt đầu bằng đổi mới vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước, phát huy mặt


19

tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường; phát huy vai trò của Mặt
trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc phản biện và giám sát xã hội;
phát huy dân chủ trong Đảng, cơ quan Nhà nước và trong toàn bộ xã hội bằng
việc ban hành quy chế dân chủ cơ sơ. Đồng thời, Đảng ta cũng đã đổi mới về
quan hệ quốc tế: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước vì độc lập, hòa
bình và phát triển.
Qua các kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996), IX
(năm 2000), đặc biệt lần thứ X (năm 2006) và XI (năm 2011), Đảng ta tiếp
tục bổ sung, hoàn thiện nhận thức về mô hình xây dựng CNXH ơ nước ta.
Tại Đại hội X, Đảng ta xác định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người
được giải phòng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh

phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng
đoàn kết, tương trợ và giúp nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên
thế giới"19.
So với Cương lĩnh 1991, Đại hội X đánh dấu bước phát triển mới trong
tư duy lý luận của Đảng ta. Những đặc trưng trong mô hình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ơ Đại hội X có một số điểm mới so với Cương lĩnh năm 1991.
Cụ thể Đại hội X đã bổ sung thêm hai đặc trưng mới:
Đặc trưng thứ nhất, "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh". Trong
Cương lĩnh 1991 chưa nói đến đặc trưng này. Đại hội VIII chỉ mới xác định
mục tiêu cách mạng nước ta là: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh". Đến Đại hội IX đã bổ sung thêm cụm từ "dân chủ", thành
"Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Và Đại hội X
của Đảng ta đã xác định đây là đặc trưng phổ quát của mô hình xã hội chủ
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006,
tr.68.
19


20

nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Đặc trưng này làm cho chủ nghĩa xã hội gần
với mọi người, mọi trình độ nhận thức và thậm chí nó có khả năng thống nhất
ý kiến của những người có thể có chính kiến khác. Đây cũng chính là điểm
hội tụ của đại đoàn kết dân tộc.
Đặc trưng thứ bảy, "Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản".
Đặc trưng cũng là mới so với Cương lĩnh 1991. Cương lĩnh 1991 chưa nói

đến vệc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tư tương về nhà
nước pháp quyền đã được Hồ Chí Minh bàn từ rất sớm, nhưng về văn bản
chính thức thì mãi đến tháng 1 năm 1994 trong Hội nghị Đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ khóa VII chúng ta mới chính thức đưa ra khái niệm Nhà nước
pháp quyền XHCN, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Song
lúc bấy giờ, vấn đề này được đặt ra như một nhiệm vụ. Đến Đại hội VIII, IX
thì mới trơ thành quan điểm trong xây dựng Nhà nước ta. Và cũng chỉ đến
Đại hội X nó trơ thành đặc trưng của CNXH ơ nước ta. Đây cũng chính là sự
phát triển lý luận rất quan trọng của Đảng ta về mô hình xây dựng CNXH.
Ngoài ra, những đặc trưng khác trong Văn kiện Đại hội X so với
Cương lĩnh 1991 cũng có sự thay đổi về cách diễn đạt, song cơ bản nội dung
vẫn thế. Với những bổ sung và phát triển đó, đúng như Đại hội X của Đảng đã
khẳng định: "Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công
cuộc đổi mới về xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội đã được hình thành trên những nét cơ bản"20. Qua hơn 25 năm đổi mới,
đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử vầ xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã
hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trương khá nhanh, sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng
cường. Chính trị xã hội ổn định. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không

20

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006, tr.68.


21


ngừng được nâng cao. Những thành tựu to lớn đó chứng tỏ đường lối đổi mới
của ta là đúng đắn, sáng tạo và phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Cũng trong hơn 25 đổi mới đó, chúng ta càng thấy rõ những giá trị
định hướng của Cương lĩnh năm 1991, đồng thời cũng thấy rõ những vấn đề
mới đặt ra cần phải được bổ sung, phát triển, trong đó có nhận thức về mô
hình CNXH. Tại Đại hội XI, Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011), gọi tắt là Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Đảng ta xác định
xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Do nhân dân làm chủ; Có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp; Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện; Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp nhau cùng phát triển; Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; Có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”21.
Các đặc trưng trên là một thể thống nhất có quan hệ biện chứng, tác
động, thúc đẩy lẫn nhau tạo thành mô hình CNXH mà nhân dân ta xây dựng,
đồng thời, mô hình đó thể hiện rõ về bản chất của chế độ XHCN ơ nước ta
hiện nay. Đồng thời, ta có thể nhận thấy cách diễn đạt những đặc trưng mô
hình CNXH theo Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 vừa kế thừa
Cương lĩnh năm 1991 vừa dựa trên những nhận thức mới ơ các Văn kiện Đại
hội VIII, IX và đặc biệt là Văn kiện Đại hội X, đồng thời có sự bổ sung phát
triển hơn. Cụ thể là:
Ở đặc trưng thứ nhất, xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã
hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". So với Đại hội X
cụm từ "dân chủ" được đặt trước cụm từ "công bằng". Diễn đạt như vậy là chặt
chẽ, vì dân chủ là điều kiện, tiền đề tạo ra sự công bằng, và qua đó, cũng nhấn

mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của giá trị dân chủ, của việc xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ XHCN trong công cuộc xây dựng CNXH ơ nước ta hiện nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006,
tr.70.
21


22

Ở đặc trưng thứ hai, "Do nhân dân làm chủ". Cương lĩnh bổ sung, phát
triển năm 2011 xác định như Văn kiện Đại hội X, nhưng so với Cương lĩnh
năm 1991 là Đảng ta bỏ đi cụm từ "lao động". Điều đó thể hiện, nội hàm của
khái niệm rộng hơn so với nội hàm của khái niệm "nhân dân lao động" và
cũng thể hiện rõ bản chất của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đây cũng là cơ sơ thực hiện tốt chính
sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ở đặc trưng thứ ba, "Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Quan hệ sản xuất là do
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định, chứ không phải do ý
muốn chủ quan áp đặt nên diễn đạt như Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm
2011 là chính xác. Tuy nhiên cần tránh quan điểm cho rằng là Đảng ta đã từ
bỏ chế độ công hữu, rằng công hữu hay tư hữu không còn quan trọng nữa
miễn là quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp, tạo điều kiện cho lực lượng sản
xuất phát triển là được. Thiết nghĩ chế độ XHCN nhất định phải được xây
dựng trên nền tảng chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu (còn
chế độ công hữu đó được thực hiện dưới những hình thức nào? Xác lập chế
độ công hữu phải có những điều kiện gì? Bằng con đường nào?... thì cần phải
được làm rõ thêm trong tương lai), nếu từ bỏ chế độ công hữu về những tư
liệu sản xuất chủ yếu cũng có nghĩa là từ bỏ CNXH.
Ở đặc trưng thứ năm, "Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh

phúc, có điều kiện phát triển toàn diện". So với Đại hội X, Cương lĩnh bổ
sung, phát triển năm 2011 bỏ cụm từ "được giải phóng khỏi áp bức, bất
công". Diễn đạt như vậy là chặt chẽ hơn để tránh chủ quan duy ý chí, bơi các
hiện tượng áp bức, bất công, tuy không phải là bản chất của CNXH nhưng
cũng không dễ gì bị triệt tiêu hoàn toàn được.
Ở đặc trưng thứ bảy, "Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo". So với Đại
hội X, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã sửa cụm từ "dưới sự lãnh
đạo của Đảng" thành "do Đảng Cộng sản lãnh đạo" cho là chặt chẽ và chính
xác hơn.
b. Một số vấn đề rút ra trong nhận thức và hành động của chúng ta


23

Chúng ta xây dựng CNXH trong đó chú trọng vào nhiệm vụ nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người dân, đặc biệt quan tâm đến lớp
người nghèo khó nhất trong xã hội. Vì thế mô hình về xây dựng CNXH mới
có những phác họa qua các thời kỳ như đã nêu.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nền độc lập dân tộc và sự phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta luôn đứng trước thách thức của
hàng loạt những nguy cơ rất tiềm tàng và đa dạng. Những nguy cơ đó vừa
mang tính truyền thống vừa phi truyền thống với những dạng thức mới, không
chỉ xuất hiện từ những diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, mà còn
nảy sinh chính từ trong quá trình phát triển của đất nước. Hiểm hoạ bên ngoài
và nguy cơ bên trong luôn tương tác với nhau và trong nhiều trường hợp
chuyển hoá lẫn nhau một cách rất phức tạp, nhạy cảm.
Một là, phải xác định rõ định hướng XHCN, những tiêu chí phân biệt chủ
nghĩa xã hội với thời kỳ quá độ lên CNXH. Hiện nay CNXH là chế độ vẫn còn
non trẻ, chúng ta đang từng bước hình thành và xây dựng chế độ đó chứ chưa có

một mô hình định sẵn. Vì vậy, việc có một mô hình với những đặc trưng đúng
mức và vừa phải để trả lời những câu hỏi băn khoăn lúc này là cần thiết như:
Thời kỳ quá độ ta sẽ làm được gì? Kéo dài bao lâu? Chúng ta chấp nhận phân
hóa giàu nghèo ơ mức độ nào? Khả năng Nhà nước điều tiết được những lĩnh vực
nào? Lĩnh vực nào còn phải phụ thuộc vào thị trường và sự biến đổi của thế giới?
Chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là như thế nào? Kinh tế tư nhân
phát triển đến mức độ nào để không chệch hướng XHCN?....
Hai là, xác định Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 là cơ sơ khoa
học để xây dựng niềm tin vào con đường vào sự tất thắng của CNXH mà
Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn và sự lựa chọn đó là hoàn toàn phù hợp với nguyện
vọng chính đáng của nhân dân ta. Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, học viên
cần quán triệt, nhận thức sâu sắc bản chất, nội dung các đặc trưng của chủ
nghĩa xã hội, qua đó thấy được sự phát triển sáng tạo đặc sắc trong tư duy lý
luận của Đảng, góp phần từng bước hiện thực hóa mô hình xây dựng CNXH
ơ nước ta. Luôn phát huy tư duy sáng tạo, thường xuyên đổi mới cách nghĩ,


24

cách làm trước đòi hỏi của thực tiễn, góp phần xây dựng đơn vị ngày càng
vững mạnh toàn diện. Kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm, tư
tương sai trái xa rời, từ bỏ mô hình, con đường đi lên CNXH ơ Việt Nam.
Ba là, đề cao cảnh giác trước âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng
chính sách mơ cửa, hội nhập quốc tế của Việt Nam để "Diễn biến hoà bình". Thực
tiễn hội nhập quốc tế của nước ta trong những năm qua đã cho thấy, các thế lực đế
quốc và thù địch đã không từ một âm mưu và thủ đoạn nào nhằm thực hiện “Diễn
biến hoà bình” chống phá công cuộc đổi mới. Âm mưu, thủ đoạn chống phá ngày
càng trơ nên đa dạng, tinh vi và hiểm độc hơn. Trong đó, việc lợi dụng chính sách
mơ rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta, để thâm nhập, can thiệp
nhằm gây mất ổn định an ninh, chính trị, kinh tế - xã hội là hiện tượng phổ biến. Do

đó, phải đề luôn đề cao cảnh giác, sẵn sàng làm thất bại chiến lược “Diễn biến hoà
bình” của chủ nghĩa đế quốc, bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, chế độ xã
hội chủ nghĩa, giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia. Trong phòng, chống
“Diễn biến hoà bình”, cần quán triệt Nghị quyết TƯ 4, khoá XI “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay”, chú trọng đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn và nâng
cao năng lực lãnh đạo của Đảng, phát huy hơn nữa dân chủ trong Đảng và xã hội,
tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng và các tầng lớp nhân dân, kiên
quyết đẩy lùi sự suy thoái về tư tương chính trị, chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí; đồng thời chủ động và tích cực triển khai tốt chính sách dân tộc và tôn giáo, xoá
đói giảm nghèo, khắc phục khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, nhất là vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người.


25

KẾT LUẬN
Tóm lại, có thể thấy rằng nhận thức về chủ nghĩa xã hội không phải là
công tác thuần túy về lý luận. Trước sự sụp đổ CNXH ơ Liên Xô – Đông Âu,
xuất phát từ quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm thực tiễn, quan điểm phát
triển, Đảng ta đã phân tích một cách khách quan, khoa học các sự kiện đã xảy
ra, nhìn thẳng vào sự thật những gì đã làm được, cũng như chưa làm được,
vạch đúng nguyên nhân, tìm ra giải pháp khắc phục, sáng suốt đề ra và kiên
quyết thực hiện đường lối đổi mới, đổi mới có nguyên tắc, bắt đầu từ đổi mới
tư duy, đổi mới nhận thức lí luận về CNXH, đồng thời đổi mới nhận thức về
CNTB, để vừa không xa rời định hướng XHCN, lại vừa từ thực tiễn rút ra
những kết luận mới bổ sung cho lý luận CNXH.
Những đặc trưng về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
được nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển) năm 2011, chắc hẳn chưa phải là đầy đủ, sẽ
còn phải không ngừng được bổ sung, làm sáng tỏ thêm. Để con đường đó

ngày càng sáng tỏ hơn, thì việc lực chọn một mô hình vừa sức, có sự đồng
thuận và có tính khả thi cao là hết sức quan trọng. Nó không chỉ giúp mọi
người dân nhìn thấy rõ mục tiêu của chúng ta đang hướng tới mà còn giúp
chúng ta tranh khỏi những ảo tương không đáng có trên con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Với thực tiễn hơn 25 năm đổi mới và với tất cả những thành
tựu mà nhân dân ta đạt được trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã
hội, vị thế trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, càng chứng tỏ tính
đúng đắn của mô hình chủ nghĩa xã hội ơ Việt Nam mà Đảng, Bác Hồ và
nhân dân ta đã lựa chọn. Mặc dù thế giới đã có nhiều biến động to lớn nhưng
Việt Nam vẫn kiên trì mục tiêu, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta
đã lựa chọn. Quyết tâm xây dựng thành công CNXH và chủ nghĩa cộng sản ơ
nước ta. Vì vậy, việc không ngừng bổ sung, phát triển lý luận về đặc trưng
của CNXH càng khó khăn và quan trọng hơn bao giờ hết.


×