Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

Khóa luận: Xây dựng văn hóa chính trị cho sinh viên trường ĐHSPHN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 101 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Hạnh – giáo viên hướng
dẫn, người đã tận tình chỉ bảo, đóng góp những ý kiến khoa học và khách quan để
tơi có thể hồn thành khóa luận.
Tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, Khoa Lý luận chính trị – Giáo dục cơng dân, chuyên ngành Chính trị
học là nơi đã đào tạo và tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi trong suốt quá trình học tập
nghiên cứu.
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, anh em, bạn bè đã động viên, giúp
đỡ để tơi có thể hồn thiện được khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2023
Sinh viên

Phạm Thị Phương Anh


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.4. Kết quả tìm hiểu về mức độ trang bị văn hóa chính trị tại trường Đại học Sư
phạm Hà Nội........................................................................................................................56
63


DANH MỤC BẢNG


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa là một sản phẩm của con người, một sức mạnh để cải tạo và chinh
phục thiên nhiên, xã hội. Đây là yếu tố đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững
của mọi người, mọi tổ chức và mọi quốc gia. Khi xã hội lồi người có sự phân chia


giai cấp, đấu tranh giai cấp và đấu tranh giai cấp đến một cấp độ nhất định sẽ làm
xuất hiện nhà nước, xuất hiện chính trị và văn hố chính trị. Văn hóa chính trị là yếu
tố cốt lõi quyết định tính chất và hiệu quả của hoạt động chính trị. Đặc biệt trong
thời kỳ hội nhập quốc tế, giai đoạn phát triển cao của hợp tác quốc tế, muốn xã hội
phát triển thì các chủ thể chính trị phải có trình độ văn hóa chính trị nhất định,
khơng chỉ các nhà lãnh đạo, các nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp, mà mọi giai
cấp, tầng lớp, mọi thành phần xã hội, mọi cá nhân sống trong đời sống chính trị nói
chung đều cần có văn hóa chính trị.
Ý thức sâu sắc vai trò quan trọng đặc biệt của nâng cao văn hóa chính trị cho
nhân dân trong sự nghiệp kiến thiết chế độ mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thấm
nhuần tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta về việc xây dựng con người và mơi trường
văn hóa lành mạnh. Nâng cao các giá trị văn hóa chính trị cho nhân dân, xây dựng và
phát triển văn hoá chính trị ln được xem là một trong những nhiệm vụ lớn, trọng
tâm và quan trọng của toàn ngành giáo dục, tại mỗi địa phương và ở từng cơ sở giáo
dục, đào tạo trong những năm gần đây. Và là một trường sư phạm đi đầu trong cả
nước, việc rèn luyện và xây dựng văn hóa chính trị cho sinh viên trong quá trình học
tập là một vấn đề then chốt được trường Đại học Sư phạm Hà Nội hết sức quan tâm.
Ở đó, thơng qua q trình học tập và các phong trào Đoàn thể, sinh viên được trang bị
những kiến thức và năng lực chính trị nhất định, có khả năng nắm bắt được những nội
dung cơ bản về nền tảng tư tưởng chính trị của hệ thống chính trị Việt Nam, cũng như
giúp sinh viên nâng cao niềm tin, lý tưởng và lập trường chính trị.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong quá trình xây dựng và
hồn thiện việc rèn luyện, nâng cao văn hóa chính trị cho sinh viên tại trường Đại
học Sư phạm Hà Nội vẫn cịn gặp phải nhiều khó khăn nhất định. Trên thực tế, việc
1


tiếp thu sâu sắc những tri thức chính trị đối với sinh viên vẫn còn nhiều hạn chế,
những hành động chính trị ở một số sinh viên chưa có tính tích cực, tính sáng tạo
cao mà chủ yếu mới chỉ dừng lại ở mức độ tham gia theo phong trào. Một số sinh

viên vẫn chưa thực sự quan tâm đến đời sống chính trị, thậm chí có những nhận
thức sai lệch về tình hình chính trị của đất nước, xã hội.
Với những giá trị khoa học to lớn về lí luận và thực tiễn, việc xây dựng văn
hóa chính trị cho sinh viên là một việc làm mang tính cấp thiết, là cơ sở, định hướng
thế giới quan, phương pháp luận khoa học, đúng đắn nhằm giúp cho trường Đại học
Sư phạm Hà Nội nói riêng và hệ thống giáo dục đào tạo Việt Nam nói chung phát
huy và nâng cao được việc tu dưỡng các giá trị văn hóa chính trị cho sinh viên trong
thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng đầy thách thức. Với tất cả những lý do trên, tác
giả đã chọn “Xây dựng văn hóa chính trị cho sinh viên trường Đại học Sư phạm
Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên
cứu trong khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu về văn hóa chính trị, cũng như xây dựng văn hóa chính trị là một
trong những nhiệm vụ cấp thiết ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Các nhà nghiên
cứu khoa học đã và đang đặc biệt quan tâm đến vấn đề này dưới nhiều góc độ và ở
những mức độ khác nhau, tùy thuộc vào mục đích, phương pháp tìm hiểu cụ thể.
Nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này đã được cơng bố có liên quan gián tiếp
hoặc trực tiếp đến đề tài, bao gồm:
“Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam”
(2009), GS.TS Nguyễn Văn Huyên, PGS.TS Nguyễn Văn Vĩnh và TS. Nguyễn
Hồi Văn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội[9]: cuốn sách đã phân tích những giá trị
văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam cốt lõi nhất, tiêu biểu nhất của lịch sử tư
tưởng chính trị truyền thống Việt Nam. Ngoài ra, các quan điểm và giải pháp phát
triển văn hóa chính trị Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế cũng được các tác
giả chạm đến.

2


“Bước đầu tìm hiểu văn hóa chính trị của Hồ Chí Minh và vận dụng vào thực

tiễn đổi mới của nước ta hiện nay” (2015) của Nguyễn Thị Mây, luận văn thạc sĩ
chính trị học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội[12]: tác giả nghiên cứu tập trung vào tư tưởng của Hồ Chí Minh đối
với văn hóa chính trị. Trên cơ sở đó đề xuất phương hướng vận dụng văn hóa chính
trị của Hồ Chí Minh trong thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay.
“Bàn về sức sống của văn hóa chính trị Việt Nam” (2015), PGS.TS Nguyễn
Văn Vĩnh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tạp chí Tun giáo[32]: bài
viết đưa ra cơ sở hình thành và phát triển của văn hóa chính trị Việt Nam. Cùng với
đó là bản chất, bản sắc văn hóa chính trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Từ
đó có cái nhìn mới lạ, thêm phần phong phú về văn hóa chính trị; nắm được tầm
quan trọng của văn hóa chính trị trong hoạt động chính trị.
“Văn hóa chính trị thời thịnh Trần” (2018) của Nghiêm Thị Thu Nga, luận án tiến
sĩ chuyên ngành văn hóa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội[15]: ở
đây, tác giả lý giải, phân tích văn hóa chính trị thời thịnh Trần trên phương diện phân tích
khái niệm, cấu trúc của văn hóa chính trị; nhận định về giá trị của văn hóa chính trị; miêu
tả diện mạo của văn hóa chính trị qua các thành tố cơ bản thời đó. Nhằm rút ra được
nguyên nhân quốc gia, dân tộc thịnh – suy trong lịch sử. Từ đó tiệm cận đến giá trị của
các bài học dựng và giữ nước, bài học lịch sử đối với giai đoạn hiện nay.
“Văn hóa chính trị đối với đội ngũ cán bộ cơng chức huyện Ba Vì, thành phố
Hà Nội” (2018) của Nguyễn Việt Giao, luận văn thạc sĩ chuyên ngành chính trị học,
Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội[8]:
nhà nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận của văn hóa chính trị góp phần nâng
cao nhận thức về văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ cơng chức tới một mức độ
sâu sắc cần thiết, đáp ứng được q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa nước ta.
“Xây dựng văn hóa chính trị cho sinh viên trong bối cảnh hiện nay” của tác
giả Vũ Xuân Cảnh, Tạp chí VHNT số 406, tháng 4 – 2018[3]: theo tác giả, sinh
viên là lực lượng đông đảo trong xã hội. Văn hóa chính trị có thể hình thành nên thế
giới quan khoa học cho sinh viên, biến những hoài bão lý tưởng của bản thân thành
3



hiện thực sinh động trong cuộc sống. Bài viết nhằm đề đạt, đưa ra các nội dung cơ
bản để xây dựng văn hóa chính trị cho sinh viên trong bối cảnh tồn cầu hóa.
“Một số cách tiếp cận nghiên cứu văn hóa chính trị” (2021), TS. Nguyễn Duy
Quỳnh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội,
tạp chí Nhân lực khoa học xã hội số 6 – 2021[19]: tác giả cho rằng nghiên cứu về
văn hóa chính trị là một dư địa rất mới mẻ của khoa học chính trị ở Việt Nam nhưng
lại là một yếu tố quan trọng và cần thiết trong bối cảnh ở thời điểm này hay cả trong
tương lai. Bài viết đã đưa thêm các cách tiếp cận làm rõ các khái niệm đồng thời
khái quát nội dung văn hóa chính trị trên các phương diện tư tưởng chính trị,
phương thức chính trị và phong cách chính trị.
“Đổi mới phương thức giáo dục văn hóa chính trị cho sinh viên hiện nay” ThS.
Phan Hoàng Quỳnh, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, đăng trên Tạp chí Lý luận chính
trị số 536 (10 – 2022)[20]: phương thức giáo dục văn hóa chính trị cho sinh viên có vai
trị quan trọng, góp phần quyết định hiệu quả giáo dục tồn diện. Tác giả làm rõ khái
niệm, mục tiêu, nguyên tắc và nội dung đổi mới phương thức giáo dục văn hóa chính trị
cho sinh viên, phù hợp với mơi trường giáo dục đang có nhiều thay đổi.
Những kết quả, thành tựu nghiên cứu nói trên là những tài liệu vơ cùng quý
báu và trân quý đối với tác giả để có thể tham khảo, kế thừa và phát huy. Tuy nhiên,
xoay quanh vấn đề xây dựng văn hóa chính trị cho sinh viên vẫn cịn tương đối ít
các học giả và các cơng trình nghiên cứu đi sâu làm rõ tầm quan trọng của văn hóa
chính trị đối với sinh viên cũng như là quan điểm của Đảng về việc xây dựng văn
hóa chính trị cho sinh viên. Với đề tài này, tác giả hy vọng được đóng góp một phần
nhỏ bé của mình vào việc giải quyết những vấn đề đặt ra về xây dựng văn hóa chính
trị cho sinh viên nói chung, sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội nói riêng trong bối
cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của khóa luận là trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng của vấn
đề xây dựng văn hóa chính trị ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội, khóa luận tốt

4


nghiệp đưa ra một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao việc xây dựng văn
hóa chính trị cho sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội trong giai đoạn hội nhập quốc
tế ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, khóa luận tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Trình bày những vấn đề lí luận chung về xây dựng văn hóa chính trị cho sinh
viên trong thời kỳ hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ thực trạng của việc xây dựng văn hóa chính trị cho sinh viên trường
Đại học Sư phạm Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao việc xây dựng văn
hóa chính trị cho sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội trong giai đoạn hội nhập quốc
tế ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu vấn đề xây dựng văn hóa chính trị cho sinh viên trường
Đại học Sư phạm Hà Nội trong giai đoạn hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Vấn đề xây dựng văn hóa chính trị bao qt khá nhiều nội dung
nhưng tác giả khóa luận chỉ nghiên cứu khái quát việc xây dựng văn hóa chính trị
cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong giai đoạn hội nhập quốc tế ở
Việt Nam hiện nay.
- Về không gian: Nội dung đề tài xây dựng văn hóa chính trị cho sinh viên
trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện
nay được thực hiện nghiên cứu tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Về thời gian: Nghiên cứu vấn đề xây dựng văn hóa chính trị cho sinh viên
trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế ở Việt Nam được
diễn ra trên thực tế hiện nay. Bên cạnh đó, khóa luận cũng xem xét dưới góc độ lịch

sử để có những đánh giá tồn diện và khách quan về đối tượng nghiên cứu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm
5


của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, chính trị và văn hóa chính trị. Ngồi ra, khóa
luận kế thừa có chọn lọc những cơng trình khoa học của các tác giả đi trước đã công bố
liên quan đến đề tài khóa luận.
- Khóa luận được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chung của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp như:
phương pháp logic; phương pháp lịch sử; phương pháp phân tích; phương pháp tổng
hợp; phương pháp so sánh; phương pháp phân tích tài liệu; phương pháp chuyên
gia,... Các phương pháp có thể sử dụng riêng biệt hoặc kết hợp với nhau nhằm giải
quyết các nhiệm vụ của khóa luận.
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Góp phần bổ sung một hướng nghiên cứu mới, phát triển các vấn đề lý luận về
văn hóa chính trị, xây dựng văn hóa chính trị cho sinh viên.
- Góp phần đánh giá thực trạng việc xây dựng văn hóa chính trị cho sinh viên
trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
- Bước đầu đưa ra được một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao
việc xây dựng văn hóa chính trị cho sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội trong giai
đoạn hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
- Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể góp phần cung cấp
thêm những luận cứ khoa học để làm sáng tỏ nội dung về văn hóa chính trị cũng
như xây dựng văn hóa chính trị cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong
thời kỳ hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Khóa luận có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ
cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy chuyên ngành Chính trị học và một số mơn

khoa học xã hội khác.
8. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các cơng trình khoa
học đã cơng bố, danh mục biểu đồ, phụ lục, nội dung khóa luận gồm 3 chương và 8 tiết.

6


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG VĂN HĨA
CHÍNH TRỊ CHO SINH VIÊN TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm văn hóa và chính trị
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống và quan hệ xã hội của con
người. Cho tới hiện nay, thực tế đã có khoảng hơn 400 định nghĩa về văn hóa. Như
vậy, văn hóa là một khái niệm rất rộng và để xác định được định nghĩa văn hóa một
cách cụ thể thì khơng hề đơn giản. Bởi vì mỗi tác giả, mỗi nhà nghiên cứu lại đưa ra
những quan điểm riêng của mình về định nghĩa văn hóa dựa trên vấn đề mà họ đã
nghiên cứu.
Quan niệm văn hóa theo UNESCO
Theo UNESCO, cho đến nay đã có trên 200 định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Lúc đầu, xuất phát từ chữ Latinh, văn hóa (culture) được hiểu là khai hoang, trồng
trọt và chăm sóc cây lương thực. Sau đó, nó được hiểu với nghĩa bóng là sự chăm
nom, giáo dục, đào tạo khả năng con người về mọi mặt. Như vậy, từ rất sớm, phạm
trù văn hóa được dùng để phản ánh về con người trong sự phát triển của nó. Cũng
từ đó, văn hóa được hiểu trên các cấp độ rộng – hẹp khác nhau.
Năm 1994, theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức hệ - tổng hợp các đặc
trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm, khắc họa nên bản sắc của
một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội. Văn hóa khơng chỉ

bao gồm nghệ thuật, văn chương mà cịn cả lối sống, những quyền cơ bản của con
người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng...”[5]. Cịn theo
nghĩa hẹp, “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách
ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng”[10].
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa rằng: “Văn hóa nên được đề cập như
một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã

7


hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả
cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”[29].
Năm 2001, trong Tuyên bố Toàn cầu về Đa dạng Văn hố của UNESCO,
trong đó chỉ rõ “Văn hoá được coi là hệ thống các đặc điểm về tinh thần, vật chất,
trí tuệ và cảm xúc của xã hội hay một nhóm người trong xã hội và văn hóa bao gồm
nghệ thuật, văn học, phong cách sống, cách thức chung sống, hệ thống giá trị,
truyền thống và tín ngưỡng”[45].
Tổng giám đốc UNESCO (giai đoạn 1987 – 1999), ông Federico Mayor lại
định nghĩa: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá
khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một
hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính
riêng của mỗi dân tộc”[6].
Quan niệm văn hóa của phương đơng
Tại phương đơng, Trung Quốc chính là cội nguồn của văn hóa mang ý nghĩa là
một phương thức giáo hóa con người, văn trị giáo hóa trong đó “văn” là vẻ bề
ngồi, “hóa” là dạy dỗ sửa đổi. Thuật ngữ “Văn hóa” được sử dụng sớm khoảng thế
kỷ VI đến thế kỷ V trước Công nguyên. Tiếng Hán, “Văn hóa” có nghĩa gốc là giáo
dục, cảm hóa bằng điểm chung, lễ nhạc. Cùng với sự phát triển của lịch sử, ngày
nay, văn hóa được dùng để chỉ các hiện tượng xã hội thuộc lĩnh vực đời sống tinh
thần, bao gồm các hình thái xã hội (triết học, sử học, văn hóa nghệ thuật,..); các

hình thức văn hóa hữu quan (văn tự, xuất bản, thư tịch – những cơng cụ truyền bá
văn hóa) cũng như các chế độ điển chương có quan hệ khăng khít với sự phát triển
văn hóa (giáo dục, thi cử, quan chế, pháp luật,...).
Khổng Tử (551 TCN – 479 TCN, nước Lỗ) – người đã tìm ra được các tư liệu
sau đó biên soạn lại được Ngũ Kinh. Thuộc một trong năm bộ kinh đó có “Kinh
dịch” được Khổng Tử khẳng định: “Văn hóa là sự biến đổi cái chưa tao nhã thành
tao nhã, cái chưa đẹp thành cái tốt đẹp,...nhờ giáo hóa đạo đức, lễ nhạc”[28].
Văn hóa được hiểu là tồn bộ sản phẩm có giá trị xã hội do con người sáng tạo
ra trong q trình phát triển xã hội lồi người bao gồm quá trình sản xuất vật chất và
8


hoạt động sản xuất tinh thần. Nhưng bên cạnh đó, nó cũng được hiểu là thiên nhiên
thứ hai, ở đó mỗi người được sinh ra và lớn lên. Môi trường văn hóa tác động trực
tiếp tới sự hình thành nhân cách, sự phát huy mọi năng lực sáng tạo, khả năng
truyền đạt thông tin giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên.
Quan niệm về văn hóa theo phương tây
Tại phương tây, tương ứng với từ “Văn hóa” là từ “Cultura” theo tiếng Latinh,
bắt nguồn từ colere, có nghĩa là trồng trọt. Là thuật ngữ thường được dùng để chỉ
các hình thái hoạt động của con người và các cấu trúc biểu tượng mang lại ý nghĩa
và tầm quan trọng cho các hoạt động đó. “Cultura” dần dần chuyển nghĩa, mang
thêm những nội dung mới tiêu biểu như nói về tính học vấn, tính giáo dục, sự mở
mang trí tuệ hay là tinh thần con người. Như vậy, nguồn gốc văn hóa có liên quan
đến lao động, hoạt động tích cực cải tạo con người, tức là sự giáo dục, bồi dưỡng
tâm hồn con người. Với hai lớp nghĩa cơ bản này, từ vựng “Văn hóa” được mở rộng
thêm và đi sâu vào hầu hết các ngôn ngữ Châu Âu (ví dụ như tiếng Anh là Culture,
tiếng Pháp là Culture, tiếng Đức là Kultur...).
Từ thời cổ đại, ông Marcus Tullius Cicero – triết gia, nhà lý luận chính trị La
Mã (106 – 03 TCN) đã định nghĩa: “Văn hóa là sự trồng trọt về tinh thần. Nó nhổ
bỏ, trừ tận gốc những thói xấu, làm cho tâm hồn con người sẵn sàng tiếp nhận

những hạt giống; những gì được gieo cấy vào tâm hồn con người một khi phát triển
lên sẽ cho một mùa thu hoạch vào loại dồi dào nhất”[43].
Một định nghĩa mang tính lịch sử nhấn mạnh về các quá trình kế thừa thuộc
một trong những định nghĩa của Edward Sapir – nhà nhân loại học, ngơn ngữ học
người Mỹ rằng: “Văn hóa chính là bản thân con người, cho dù là những người
hoang dã nhất, sống trong một xã hội tiêu biểu cho một hệ thống kết hợp bởi phong
tục tập quán, cách ứng xử và quan điểm được bảo tồn theo truyền thống”[39].
Năm 1871, một trong những người đầu tiên đưa ra định nghĩa khá chuẩn mực
về văn hóa đó chính là nhà nhân học xã hội người Anh Edward Bernett Tylor: “Văn
hóa là một tổng thể phức hợp bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức,
luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người nhận được
9


với tư cách một thành viên xã hội”[38]. Điểm cần lưu ý trong định nghĩa về văn hóa
của Tylor là hầu như ông chỉ đề cập tới mặt tinh thần, chứ chưa đề cập khía cạnh
vật chất của văn hóa.
Cịn Ralph Linton (1893–1953), một nhà nhân loại học người Mỹ đã đưa ra
các định nghĩa: “Văn hóa suy cho cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức
của các thành viên xã hội. Hay ông cho rằng văn hóa là sự kết hợp giữa lối ứng xử
mà các thành tố của nó được các thành viên của xã hội đó tán thành và truyền lại
nhờ kế thừa”[31].
Với quan điểm của chủ nghĩa Mác – xít, văn hóa gắn liền với sự sáng tạo và
năng lượng của con người cùng sức sáng tạo từ lao động. Trong “Bản thảo kinh tế triết học 1844”, C.Mác cho rằng: “Hoạt động sinh sống có ý thức của con người là
cái riêng có ở con người, phân biệt con người với con vật, đời sống con người với
đời sống con vật. Hoạt động đó diễn ra đồng thời với sự hình thành các mối quan hệ
tất yếu giữa con người với giới tự nhiên và quan hệ giữa con người với con người
trong xã hội”[35]. Có thể hiểu, văn hóa ln gắn liền với sự tồn tại của loài người,
với bản chất sinh học – xã hội của con người. Trong cơ thể con người khơng chỉ có
những nhu cầu và các quy luật sinh học, mà cịn có những nhu cầu tâm – sinh lý,

tình cảm, xã hội,... Những nhu cầu tự nhiên đó của con người khơng đơn giản mang
tính chất tự nhiên nữa mà nó dần mang tính xã hội cao và trở thành văn hóa. Có nhu
cầu thì sẽ có hoạt động, con người hoạt động khơng chỉ để thỏa mãn cho cá nhân
mà cịn vì nhu cầu của đồng loại, còn hướng tới những cái đẹp, đến các giá trị chân
– thiện – mỹ. Hay theo như cách nói của C.Mác là: “Nhào nặn vật chất theo quy
luật của cái đẹp”[36]. Bên cạnh đó, C.Mác và Ăngghen cịn nói rằng: “Bảo đảm cho
mọi thành viên trong xã hội khơng những một đời sống hồn tồn đầy đủ về vật
chất...mà còn đảm bảo cho họ phát triển và vận dụng một cách hoàn toàn tự do và
đầy đủ những năng khiếu thể lực và trí lực của họ nữa”[37]. Nói cách khác, xây
dựng chủ nghĩa xã hội thành cơng sẽ là thời điểm chế độ người bóc lột người hồn
tồn được xóa bỏ. Khi đó, người cơng nhân mới thật sự trở thành chủ thể tự do
trong q trình sáng tạo ra đời sống văn hóa của bản thân họ. Tuy C.Mác và
10


Ph.Ăngghen khơng chính thức đưa ra định nghĩa về văn hóa. Nhưng qua tư tưởng,
suy nghĩ mà các ơng đã biểu đạt có thể hiểu được trong quan niệm của các nhà triết
gia này, văn hóa chính là hoạt động sinh sống có ý thức của con người theo quy luật
của cái đẹp.
Như vậy, ở phương tây ngày nay, văn hóa có hai nghĩa là hoạt động nghệ thuật
khoa học thường thức đời sống, sáng tạo nhưng gắn với từ nguyên chăn dắt, nuôi
trồng,...Ý nghĩa thứ hai của từ văn hóa biểu đạt lối sống nhất định, lối sống đặc trưng
có những con người nổi bật thực hành nhờ vào tính nhân văn, sự giáo dục, thị hiếu,
kiến thức và những mỹ cảm. Đó là trình độ văn hóa hay học thực, đồng thời cũng được
dành cho các nghệ thuật. Cả hai ý nghĩa của từ văn hóa đều xác định chúng là một
phạm vi nhất định của cuộc sống xã hội nhằm hướng tới các hiện tượng hoạt động văn
hóa, đặt nó như một sự tồn tại đặc biệt cao hơn hoạt động chế ngự thực tiễn.
Khái niệm văn hóa theo cách tiếp cận của Việt Nam
Trong ngơn ngữ Việt Nam, văn hóa được dùng chỉ học thức và lối sống. Cách
hiểu này được dùng theo nghĩa thông dụng. Cịn theo nghĩa chun biệt thì để chỉ

trình độ phát triển của một giai đoạn. Trong khi theo nghĩa rộng, thì văn hóa bao
gồm tất cả từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại hay phức tạp cho đến tín ngưỡng,
phong tục, lối sống,...
Ở cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nxb Đà Nẵng và Trung
tâm Từ điển học xuất bản năm 1999 với GS. Hoàng Phê là chủ biên đã đưa ra một
loạt các quan niệm về văn hóa: “Văn hóa là những hoạt động của con người nhằm
thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần. Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học. Văn
hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh. Văn hóa là tổng
thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá
trình lịch sử. Hay văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên xã”[7].
Trong cuốn “Xã hội học Văn hóa” của Đồn Văn Chúc, Viện Văn hóa và Nhà
xuất bản Văn hóa - Thông tin, xuất bản năm 1997, tác giả cho rằng: “Văn hóa – vơ
11


sở bất tại: Văn hóa - khơng nơi nào khơng có! Điều này cho thấy tất cả những sáng
tạo của con người trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa; nơi nào có con người
nơi đó có văn hóa”[4].
Năm 1994, theo Phan Ngọc – một dịch giả, nhà ngơn ngữ học, nhà nghiên cứu
văn hóa Việt Nam đã thống kê có khoảng trên 400 định nghĩa khác nhau về văn
hóa. Trong đó, ơng có nêu ra quan điểm của mình về định nghĩa văn hóa ở tác phẩm
“Bản sắc văn hóa Việt Nam”: “Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng
trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá
nhân này hay tộc người này mơ hình hóa trong cái mơ hình tồn tại trong biểu tượng.
Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ
nhận thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người,
khác các kiểu lựa chọn của các cá nhân hay các tộc người khác”[16].
Con người sáng tạo ra văn hóa và văn hóa làm nảy nở nhân tính, phát triển

và hồn thiện nhân cách con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói trong tập Nhật
ký trong tù (1942 – 1943): “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn,
mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức
là văn hóa”[13].
Theo GS.TSKH.Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt
động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã
hội của mình”[23].
Phạm Văn Đồng – nhà chính trị, nhà văn hóa lớn của Đảng cho rằng: “Nói tới
văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả
những gì khơng phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá
trình tồn tại, phát triển, q trình con người làm nên lịch sử...(văn hóa) bao gồm cả
hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự
nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của
12


cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và khơng ngừng lớn
mạnh”[30]. Đây cũng là một định nghĩa mang tính chất thể hiện sức mạnh bản chất
con người, là những cái gì đối lập với thiên nhiên.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa
VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc đã nhấn mạnh: “Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng
tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để
khơng ngừng hồn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí
phách bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc”[17].
Trong một quan niệm chung, khái niệm văn hóa có thể được định nghĩa như

sau: “Văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được hình thành, lưu
truyền và phát triển qua quá trình hoạt động thực tiễn của con người trong sự tương
tác với môi trường tự nhiên và xã hội để phục vụ cuộc sống của con người, để thực
hiện sự phát triển và tiến bộ xã hội”[11].
Các định nghĩa văn hóa hiện có tuy rất phong phú và đa dạng, nhưng tựu trung
lại, chúng khơng nằm ngồi hai loại: định nghĩa miêu tả và định nghĩa nêu đặc
trưng. Như vậy, văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi
mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ
cũng như đang diễn ra trong hiện tại qua hàng bao thế kỉ, nó đã cấu thành nên một
hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mĩ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc
tự khẳng định bản sắc riêng của mình.
1.1.1.2. Khái niệm chính trị
“Chính trị” xuất hiện từ khi xã hội có giai cấp và xã hội phân chia thành giai
cấp. Chính trị là một khái niệm quen thuộc và được sử dụng hàng ngày vì nó là một
lĩnh vực của đời sống xã hội, giai cấp ra đời thì nhà nước cũng ra đời. Hơn cả, nhà
nước chính là biểu hiện cao nhất, tập trung nhất về chính trị.

13


Mỗi một học thuyết chính trị, một nhà tư tưởng chính trị lại có những cách tiếp
cận, cách cảm nhận, cách hiểu khác nhau về chính trị trên cơ sở những lợi ích, mục
đích và trình độ tư duy của họ.
Quan niệm về chính trị theo phương tây
Trong tác phẩm “Chính trị” (phiên ra tiếng Latinh “Politikos”) của Platơn –
nhà Triết học cổ đại Hy Lạp, xem chính trị là “nghệ thuật cung đình” liên kết trực
tiếp các chuẩn mực của người anh hùng, sự thơng minh. Liên kết đó được thực hiện
bằng sự thống nhất tư tưởng và tinh thần hữu ái. Cũng theo quan điểm của ơng, có
thể hiểu chính trị là nghệ thuật cai trị, cai trị bằng sức mạnh là độc tài, còn cai trị
bằng thuyết phục mới đích thực là chính trị.

Theo quan niệm của Arixtot có thể hiểu con người là động vật chính trị (chính
trị là tiêu chí để phân biệt con người với con vật, con người tham gia vào hoạt động
chính trị). Chính trị là khoa học lãnh đạo con người, khoa học kiến trúc xã hội của
mọi công dân.
Đầu thế kỷ XX, nhà Xã hội học người Đức Max Weber quan niệm chính trị
thiên về nét nghĩa là khát vọng tham gia quyền lực hay ảnh hưởng đến sự phân chia
quyền lực giữa các quốc gia, bên trong quốc gia, giữa các tập đồn người trong một
quốc gia. Có thể hiểu chính trị là những mong muốn và sự tương tác khách quan
của cộng đồng người đối với quyền lực, không phải là hoạt động theo đuổi quyền
lực.
Quan niệm về chính trị ở phương đơng
Theo phương đơng, “Chính” có nghĩa là ngay ngắn, thẳng thắn, chính trực.
“Trị” là điều khiển, quản lý. Chính trị được hiểu là việc làm phải chính trực, chính
trị là làm sao cho xã hội đi vào nề nếp, ngay ngắn, chính đạo.
Chính trị theo tư tưởng của Trung Hoa cổ đại nói chung đó là sự sắp đặt, lo
liệu, quản lý để xã hội có trật tự và kỷ cương. Một số triết gia ở nơi đây đã đưa ra
các quan niệm khác nhau về chính trị. Điển hình là Khổng Tử (551 – 479 TCN),
ơng cho rằng: “Chính trị là cơng việc của người quân tử, là làm chính đạo, chính
danh, tức là làm đúng con đường, đúng trật tự”[28].
14


Bên cạnh đó, cịn có quan niệm của Mặc Tử được thể hiện chủ yếu trong các
tác phẩm mang tên ông. Theo Mặc gia: “Chính trị là yêu thương mọi người và cùng
làm lợi cho nhau, tất cả điều theo sự quản lý của thiên tử từ đó đất nước thống nhất
và trở nên trị”[26]. Hiểu theo nghĩa ngắn gọn, súc tích hơn thì chính trị là phải u
thương nhau và cùng nhau có lợi.
Đến thời cận đại, Tơn Trung Sơn quan niệm chính trị là quản lý việc của dân
chúng: “Chính là việc của dân chúng, trị là quản lý, quản lý việc của dân chúng là
chính trị, lực lượng quản lý việc của dân chúng là chính quyền”[21].

Quan niệm về chính trị theo chủ nghĩa Mác – Lênin
Với phương pháp luận biện chứng, mặc dù chưa đưa ra được một định nghĩa
hồn chỉnh về chính trị nhưng các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin đã có cách
hiểu đúng đắn về chính trị. Chính trị là lợi ích, quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp
trước hết vì lợi ích kinh tế. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế; là xây dựng
nhà nước về kinh tế. Đồng thời, chính trị khơng thể khơng chiếm vị trí hàng đầu so
với kinh tế. Chính trị vừa là khoa học vừa là nghệ thuật và chính trị là sự tham gia
của nhân dân vào công việc nhà nước. Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức
chính quyền nhà nước.
Theo Lênin, “Chính trị có tính lơgic khách quan của nó, nó khơng phụ thuộc
vào dự tính của cá nhân này hay cá nhân khác, của đảng này hay đảng khác” [46].
Đây là quan niệm khẳng định chính trị khơng phải phụ thuộc vào cá nhân hay tổ
chức nào đó, nó phụ thuộc vào hồn cảnh khách quan đưa lại. Ơng tiếp tục khẳng
định “Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, là cái quyết định vận mệnh của nước
cộng hoà. Bộ máy là một cơng cụ bổ trợ, nó càng vững mạnh chừng nào thì càng tốt
và càng có ích hơn cho những sự biến đổi. Nhưng nếu khơng có năng lực tranh chấp
sứ mệnh đó thì chẳng có tác dụng gì nữa”[47].
Trong cuốn Bách khoa triết học, “Chính trị, theo nguyên nghĩa của nó, là
những cơng việc nhà nước, là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp,
dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và
sử dụng quyền lực nhà nước”[2].
15


Từ các quan niệm trên, có thể kết luận rằng chính trị là một dạng quan hệ của
xã hội, là quan hệ giữa các giai cấp, các quốc gia, các dân tộc, các lực lượng xã hội
trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Về mặt quan hệ, chính trị là
một lĩnh vực rất rộng, gồm nhiều mối quan hệ khác nhau trong không gian và thời
gian. Cịn về mặt kết cấu, chính trị bao gồm các chính sách, các quyết định của các
chủ thể chính trị; các thiết chế và thể chế chính trị; quan hệ con người chính trị giới lãnh đạo chính trị với cơng dân.

1.1.2. Khái niệm văn hóa chính trị
Văn hóa chính trị là một bộ phận quan trọng của khoa học chính trị và nó được
ra đời khi mà xã hội bắt đầu có sự phân chia giai cấp, bắt nguồn từ chính sự thâm
nhập của văn hóa vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Khái niệm văn hóa chính trị ở phương tây
Ý niệm về văn hóa chính trị đã được xuất hiện manh nha từ thời cổ đại. Theo
A – Almond và Sidney Verba thì văn hóa chính trị với tư cách là văn hóa chính trị
của một quốc gia dân tộc: “Văn hóa chính trị của một dân tộc là cách chia sẻ riêng
của các thành viên của dân tộc ấy những dạng thức của sự định hướng quan tâm đến
các khách thể chính trị”[44].
Vào những năm 1950, hai nhà chính trị học Mỹ H.Almond và H.Paul đã đưa
ra định nghĩa về văn hóa chính trị mà cho đến nay vẫn nhận được sự đồng tình của
nhiều cá thể: “Văn hóa chính trị là tập hợp các lập trường và các xu hướng cá nhân
của những người tham gia trong một hệ thống nào đó, là lĩnh vực chủ quan làm cơ
sở cho hành động chính trị và làm cho hoạt động chính trị có ý nghĩa”[24].
Bên cạnh đó, L.Pye - một nhà chính trị học người Anh lại cho rằng: “Văn hố
chính trị là một hệ thống thái độ, niềm tin và tình cảm, nó đem lại ý nghĩa và trật tự
cho q trình chính trị, nó đưa ra tiền đề cơ bản và quy tắc chế ước về hành vi của
hệ thống chính trị; nó bao gồm lý tưởng chính trị và quy phạm vận hành của một
chính thể”[42].
Trong cuốn giáo trình nhập mơn khoa học chính trị (1992), Werner J. Patzelt
thuộc trường Đại học Tổng hợp Passau (Đức) định nghĩa rằng: “Văn hóa chính trị là
16


những giá trị và tri thức, những quan điểm và thái độ của nhân dân, là những dạng
thức của hành vi và sự tham dự chính trị, là những quy tắc công khai hoặc được
mặc nhiên thừa nhận của quá trình chính trị, là những cơ sở thường nhật của hệ
thống chính trị và là tập hợp của tất cả những gì thuộc về văn hóa và tập tục của xã
hội hiện tồn”[48].

Hoặc là định nghĩa về văn hóa chính trị được cơng bố trong cuốn Từ điển
chính trị của trường phái học thuật Heidelberg (Đức): “Văn hóa chính trị là khái
niệm dùng để chỉ chiều cạnh chủ quan của những cơ sở xã hội của các hệ thống
chính trị. Văn hóa chính trị liên quan tới những bộ phận khác nhau của ý thức chính
trị, những phong thái, những lối nghĩ và ứng xử điển hình của những nhóm xã hội
hoặc của tồn xã hội. Văn hóa chính trị bao gồm tất cả những đặc tính chính trị cá
nhân của từng cá thể, tiềm ẩn trong những thái độ và các giá trị, bắt rễ trong những
động cơ bẩm sinh của hành vi chính trị, và có trong những hình thức bộc lộ có tính
chất biểu tượng và những ứng xử chính trị cụ thể”[22]. Có thể coi đây là một quan
điểm gợi mở những khía cạnh của văn hóa chính trị.
Cịn với tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về văn hóa chính trị, tuy chưa
đưa ra một khái niệm cụ thể nào cho thuật ngữ “Văn hóa chính trị” nhưng trong hệ
thống của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều toát lên những tư tưởng, quan điểm
cơ bản về văn hóa chính trị trên mọi khía cạnh đời sống chính trị của giai cấp vơ sản
và nhân dân lao động. Cụ thể như vấn đề đấu tranh giành quyền lực, vấn đề cải tạo
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới hay là vấn đề xây dựng con người xã hội chủ
nghĩa,... Bên cạnh đó, những nhà chính trị học Mác – xít đã đưa ra nhiều định nghĩa
về văn hóa chính trị từ nhiều cách tiếp cận khác nhau. Theo từ điển chính trị rút gọn
của Liên Xơ (trước đây) các tác giả cho rằng: “Văn hóa chính trị là trình độ và tính
chất của những hiểu biết chính trị, những nhận định, những hành vi của công dân,
cũng như nội dung, chất lượng của những giá trị xã hội, những chuẩn mực xã hội và
sự hoàn thiện của hệ thống tổ chức quyền lực, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ
xã hội, góp phần điều chỉnh hành vi và quan hệ xã hội”[18]. Nền tảng của chủ nghĩa

17



×