Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận cao học vai trò của pháp luật trong quản lý đời sống xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.03 KB, 13 trang )

Lời mở đầu
Trong xã hội ngày nay có rất nhiều mối quan hệ điều chỉnh khác
nhau như đạo đức, phong tục tập qn, thói quen, hương ước,… Mỗi
hình thức mang đến ưu nhược điểm riêng. Xã hội ngày càng phát triển
thì cuộc sống con người ngày càng có nhiều vấn đề cần được quan tâm
hơn. Những quan hệ điều chỉnh trên khơng thể bao qt tồn diện được
xã hội. Chính vì vậy, pháp luật có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mỗi
quốc gia, đặc biệt là trong quản lý xã hội.
Pháp luật được sinh ra là công cụ điều tiết và định hướng sự phát
triển của các quan hệ xã hội, là cơ sở để giải quyết tranh chấp trong xã
hội, là phương tiện bảo đảm và bảo vệ quyền con người.


I. Khái niệm, nguồn gốc của pháp luật
1.1. Khái niệm về pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước đặt ra,
ban hành hoặc là thừa nhận, mang tính bắt buộc phải thực hiện và được
đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, cưỡng chế nhằm điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp mình.
1.2. Nguồn gốc của pháp luật
Pháp luật ra đời vì nhu cầu của xã hội để quản lý một xã hội đã
phát triển ở một mức độ nhất định. Khi xã hội đã phát triển quá phức
tạp, xuất hiện những giai cấp mang lợi ích đối lập với nhau và nhu cầu
về chính trị – giai cấp để bảo vệ lợi ích cho giai cấp, lực lượng thống trị
về chính trị và kinh tế trong xã hội.
Pháp luật là hệ thống các quy định mang tính bắt buộc được ban
hành bởi nhà nước, thể hiện bản chất của giai cấp thống trị.
Pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của nhà nước, là công cụ quan
trọng để thực hiện quyền lực của nhà nước, bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị và duy trì địa vị. Cả nhà nước và pháp luật đều là sản phẩm
của cuộc đấu tranh giai cấp.


1.3. Bản chất của pháp luật
Bản chất của luật pháp phản ánh bản chất của Nhà nước đặt ra
nó. Nhà nước kiểu nào thì pháp luật kiểu đó. Chính vì vậy, luật pháp có
tính chất giai cấp. Luật pháp cịn có tính xã hội vì nó chứa đựng những
chuẩn mực chung được số đông trong xã hội ủng hộ. Nếu không luật
pháp sẽ bi chống đối. Luật pháp có tính dân tộc, nghĩa là phù hợp với
truyền thống, tập quán, giá trị đạo đức của các dân tộc trong đất
nước.Bản chất này cho phép luật pháp gần gũi với dân chúng, được dân


chúng ủng hộ, do đó mà có hiệu quả điều chỉnh lên các quan hệ xã hội.
Luật pháp có tính thời đại, nghĩa là phù hợp với trình độ phát triển kinh
tế của đất nước, có khả năng hội nhập với luật pháp quốc tế.
I. Vai trò của pháp luật trong quản lý đời sống xã hội.
Ngày nay, pháp luật khơng chỉ được nhìn nhận là của “riêng” nhà
nước, cơng cụ để nhà nước tổ chức và quản lí xã hội, ngược lại, pháp
luật đã trở thành “tài sản” chung của toàn xã hội, một loại quy tắc ứng
xử đặc biệt quan trọng trong đời sống chung, yếu tố thiết yếu cho cuộc
sống hàng ngày. Đối với đời sống xã hội, pháp luật có những vai trị nổi
bật sau đây:
2.1. Pháp luật điều tiết và định hướng sự phát triển của các
quan hệ xã hội
Pháp luật không sinh ra các quan hệ xã hội, nhưng pháp luật
được xem như một phương thức hữu hiệu để điều tiết và định hướng
sự phát triển của các quan hệ xã hội. Có thể nói, nếu coi cuộc sống như
một dịng chảy tự nhiên, thì pháp luật được xem như hai bờ của dịng
chảy đó, bờ có vai trị định hướng dịng chảy, làm cho sự chảy đó khơng
tràn lan, tùy tiện mà theo một dịng nhất định, khơng có bờ, nước vẫn
chảy, nhưng khơng theo dịng. Tất nhiên, bờ phải đi theo dịng chảy,
“lựa” theo dịng chảy, bờ khơng thể bắt dịng chảy trái quy luật. Do vậy,

vai trò định hướng của pháp luật phải trên cơ sở quy luật vận động,
phát triển khách quan của các quan hệ xã hội.
Pháp luật như là “hành lang”, “đường biên” cho ứng xử của con
người, nó nói lên giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để mọi người
có thể xử sự một cách tự do trong khn khổ nhất định. Nhờ có pháp
luật, các thành viên trong xã hội nắm bắt được những hành vi nào là hợp
pháp, được khuyến khích, hành vi nào là bắt buộc, hành vi nào bị ngăn


cấm để từ đó có cách ứng xử phù hợp khi bắt gặp một tình huống cụ
thể.
Qua đó, pháp luật củng cố và tàng cường các xu hướng phát triển
tích cực của các quan hệ xã hội, ngăn ngừa, loại bỏ những xu hướng
phát triển tiêu cực, đảm bảo sự phát triển của xã hội phù hợp với quy
luật khách quan. Pháp luật ghi nhận sự tồn tại của các quan hệ xã hội
phù hợp với mục đích, định hướng của nhà nước, tạo lập mơi trường
pháp lí thuận lợi cho sự phát triển và bảo vệ sự tồn tại của những quan
hệ xã hội đó. Ngược lại, pháp luật hạn chế và loại bỏ những quan hệ xã
hội lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của đời sống, trái với mục đích, định
hướng của nhà nước.
Đặc biệt trong bối cảnh có sự thay đổi lớn của đời sống xã hội, vai
trò của pháp luật càng được thể hiện rõ. Sau mỗi cuộc cách mạng xã
hội, kể cả các cuộc cải cách, những yếu tố mới được xác lập thường gặp
phải sự chống đối, sức ỳ và lực cản từ nhiều phía, ngược lại, những yếu
tố lạc hậu, lỗi thời, khơng cịn phù hợp nhưng chưa hồn tồn mất hẳn.
Trong những điều kiện đó, “Luật pháp được xem như một phương thức
hữu hiệu để điều tiết các trạng thái xã hội và các quan hệ nảy sinh từ
chỉnh các biến đổi xã hội quan trọng đó.” Bằng pháp luật, những yếu tố
mới, tích cực, tiến bộ sẽ được khẳng định, nhờ đó sự tồn tại của chúng
trở nên chính thức và chắc chắn, khơng thể đảo ngược. Có thể nói, mọi

chủ trương cải cách, đổi mới nếu không được bảo đảm bởi pháp
luật thì khó có thể thành cơng. “Trong lịch sử nhân loại, các cuộc cải
cách đã thất bại bởi một trong những nguyên nhân là người ta đã đặt các
cải cách xã hội tách biệt với luật pháp”.
2.2. Pháp luật là cơ sở để bảo đảm an toàn xã hội


An tồn xã hội là tình trạng của đời sống xã hội, trong đó con
người được yên ổn trong sinh hoạt hàng ngày, trong lao động, học tập,
nghỉ ngơi, tính mạng, sức khỏe, tài sản, bí mật đời tư, danh dự, uy tín...
khơng bị xâm hại. An tồn xã hội được thể hiện trên nhiều mặt, an toàn
trong sản xuất, trong giao thơng, trong sinh hoạt hàng ngày, an tồn
trong các giao dịch xã hội... An tồn ln là vấn đề có ý nghĩa trong mọi
xã hội, đó là tiền đề, đồng thời cũng là động lực và mục tiêu của cuộc
sống. Tuy nhiên, “an tồn xã hội ln có nguy cơ bị phá vở hoặc bị xâm
hại từ nhiều phía mà ngun nhân chủ yếu là lịng tham và sự kém hiểu
biết cũng như thái độ ứng xử của con người đối với môi trường xung
quanh, điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội... Nhờ sự tác động mạnh
mẽ, nhiều mặt của pháp luật mà an toàn xã hội được bảo đảm, tính
mạng, tài sản, danh dự, uy tín... của con người được bảo vệ. Cùng với
việc xác định cách thức xử sự cho các chủ thể, pháp luật nghiêm trị
những hành vi gây mất an toàn cho cuộc sống. “Phàm hình pháp là cái
gốc của thiên hạ, ngẫn cẩm điều bạo ngược, ghét bỏ điều ác là để răn
những điều chưa xảy ra”. Nhờ có pháp luật, người dân trở nên vững
tâm hơn, họ tin tưởng cái ác sẽ bị trừng trị, an toàn sẽ được bảo đảm:
“luật pháp nói chung khơng chỉ là khn mẫu cho hành vi con người, giúp
họ giải quyết có hiệu quả các cơng việc thực tiễn mà cịn tạo lập cho họ
niềm tin về “an ninh” của chính mình”.
Bằng pháp luật, nhà nước thể chế hố những tiêu chuẩn an tồn
kĩ thuật, đề ra những biện pháp đảm bảo an toàn, giáo dục con người ý

thức tự bảo vệ minh... Pháp luật cịn có sự tác động mạnh mẽ đến các
mặt của đời sống xã hội, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, cải thiện
điều kiện vật chất kĩ thuật của xã hội.
2.3. Pháp luật là cơ sở để giải quyết các tranh chấp trong xã
hội


Có thể nói, các quy định trong hệ thống pháp luật được xem như
là kết quả của quá trình “chọn lọc, đào thải” một cách tự nhiên các cách
xử sự trong xã hội. Trải qua bao biến cố xã hội, bỏ qua và vượt lên
những yếu tố ngẫu nhiên, không hợp lí, pháp luật tồn tại như những
cách xử sự phổ biến, hợp lí, khách quan. Chính vì vậy, pháp luật được
xem như một loại chuẩn mực công cộng được thừa nhận rộng rãi nhất
trong toàn xã hội. Với ưu thế đó, pháp luật là chuẩn mực chung, có hiệu
quả nhất để các cá nhân, tổ chức trong xã hội tự giải quyết các tranh
chấp trong đời sống.

2.4. Pháp luật là phương tiện bảo đảm và bảo vệ quyền con
người

Quyền con người là khả năng con người được tự do lựa chọn hành
động, tự do lựa chọn cách thức và mức độ thể hiện thái độ cũng như
hành động theo ý mình, khơng bị hạn chế, ràng buộc, cấm đốn một
cách vơ lí. Ngày nay, quyền con người đã trở thành một giá trị chung
được tồn thế giới cơng nhận. Trong lịch sử, cùng với sự phân chia giai
cấp thì sự áp bức giai cấp cũng xuất hiện, các quyền con người bị xâm
phạm, bị chà đạp. Từ đó cho đến nay, vấn đề tái lập sự bình đẳng trong
xã hội, bảo đảm, bảo vệ các quyền, tự do, dân chủ của con người luôn là
nhu cầu, khát vọng mạnh mẽ của nhân loại bị áp bức.
Có thể nói, lịch sử loài người từ khi xã hội phân chia thành các giai

cấp là lịch sử đấu tranh nhằm giải phóng con người, vươn tới tự do, đòi
quyền làm chủ.

6


Tuy nhiên, chỉ trong điều kiện xã hội dân chủ, pháp luật mới thực
sự đóng vai trị quan trọng trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền, tự do,
dân chủ của con người. Vai trò quan trọng này của pháp luật thể hiện
trước hết ở việc pháp luật ghi nhận các quyền, tự do, dân chủ của con
người, cần lưu ý rằng, sự quy định trong pháp luật chỉ là sự thừa nhận
chính thức của nhà nước về các quyền vốn có của con người. Pháp luật
quy định trách nhiệm của nhà nước cũng như toàn xã hội trong việc bảo
đảm cho các quyền con người được hiện thực hoá. Đồng thời, pháp luật
quy định các biện pháp nhằm bảo vệ quyền con người khỏi bị xâm hại.
Quyền con người, tự do cá nhân cũng cần phải có điểm dừng, nó
khơng thể được những cải nên làm và không bị ép buộc làm điều không
nên làm “Nếu một công dãn làm điều trái luật thì anh ta khơng cịn tự do
nữa vì nếu đế anh ta tự do làm thì mọi người đều được làm trái luật cả".
Lênin đã khẳng định, sống trong một xã hội mà lại thoát khỏi xã
hội ấy để được tự do, đó là điều khơng thể được, quyền, tự do cá nhân
luôn phải được đặt trong sự tôn trọng quyền, tự do của người khác, tôn
trọng và tuân thủ những quy tắc chung của cộng đồng, mỗi người vừa
tơn họng cái chung, vừa có điều kiện để tự do hành động nhằm đáp ứng
lợi ích riêng của mình. Nói cách khác, quyền tự do của mỗi người phải bị
giới hạn bởi quyền tự do của người khác.
Chính vì vậy, pháp luật là phương tiện để mỗi cá nhân phải ràng
buộc đối với cá nhân khác và xã hội. Một mặt cá nhân được làm tất cả
trừ những việc bị pháp luật cấm, mặt khác, họ không được làm những gì
có hại cho người khác, cho cộng đồng. Đồng thời, quyền, tự do, dân chủ

của cá nhân phải luôn đi kèm với nghĩa vụ.
2.5. Pháp luật là phương tiện bảo đảm dân chủ, cơng bằng,
bình đẳng và tiến bộ xã hội
7


Dân chủ, cơng bằng, bình đẳng là những giá trị của nhân loại. Dân
chủ được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Trên bình diện chung
nhất, dân chủ có nghĩa là người dân là chủ, người dân làm chủ, làm chủ
chính bản thân mình và làm chủ xã hội trên tất cả các lĩnh vực của cuộc
sống. Mỗi người được tự quyết định vận mệnh của chính mình, đồng
thời tham gia quyết định những vấn đề chung của xã hội. Cơng bằng,
bình đẳng khơng phải là những khái niệm bất di bất dịch, nó mang tính
tương đối và phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Hai khái niệm
này có nội hàm gần gũi nhưng khơng hồn tồn đồng nhất. Khi nói tới
bình đẳng xã hội, người ta muốn nói tới sự ngang bằng nhau giữa người
với người về một phương diện xã hội nào đấy, chẳng hạn về kinh tế
chính trị, văn hố... Trong khi đó, cơng bằng xã hội chỉ là một dạng của
bình đẳng xã hội, đó là sự ngang bằng nhau trong quan hệ giữa cống
hiến và hưởng thụ, giữa công - tội và thưởng - phạt.. theo nguyên tắc
cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau, có cơng được thưởng,
có tội phải bị trừng phạt, tội càng nặng mức phạt càng nặng. Nói cách
khác, bình đẳng là ngang bằng nhau về địa vị xã hội, công bằng là được
đối xử ngang bằng nhau, khơng có sự thiên vị trong phân phối, ttong
khen thưởng, xử phạt... Tiến bộ xã hội được hiểu là sự vận động, biến
đổi của xã hội theo chiều hướng đi lên, trở nên tốt hơn trước. Tiến bộ
xã hội có nội dung tồn diện, bao qt trên cả phương diện vật chất và
tinh thần của xã hội, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hố,
tư tưởng, khoa học kĩ thuật...
Pháp luật của các nhà nước hiện đại có vai trị to lớn trong việc

bảo đảm dân chủ, bình đẳng, cơng bằng và tiến bộ xã hội. Pháp luật quy
định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, đảm bảo cho nhân dân
tham gia quản lí nhà nước và xã hội, thực hiện việc kiểm tra, giám sát
hoạt động của nhà nước, quy định trách nhiệm của nhà nước trước
8


nhân dân... Pháp luật chống lại sự phân biệt đối xử dựa trên sự khác
biệt về nguồn gốc xuất thân, chủng tộc, màu da, giới tính, dân tộc, tơn
giáo, quan điểm chính trị, tài sản... Pháp luật thừa nhận quyền bình
đẳng trước pháp luật của tất cả mọi người. Bằng pháp luật, nguyên tắc
phân phối theo lao động, theo mức vốn và các nguồn lực khác góp vào
sản xuất kinh doanh, theo mức độ cống hiến đối với xã hội được bảo
đảm. Pháp luật bảo đảm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
cho các giai tầng xã hội, nhất là những người ở vị thế xã hội yếu hơn.
Thơng qua pháp luật, người có cơng thì được thưởng, kẻ có tội phải bị
trừng phạt, cơng càng lớn, thưởng càng lớn, tội càng lớn, phạt càng
nặng.
Pháp luật là công cụ quan trọng để ghi nhận và bảo vệ cái mới,
tích cực, tiến bộ, thúc đẩy xã hội phát triển, đảm bảo đời sống vật
chất, tinh thần của con người ngày càng được nâng cao, có điều kiện
phát huy tài năng, phát triển toàn diện, các giá trị con người ngày càng
được tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ.
2.6. Pháp luật đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội
Bất cứ xã hội nào cũng ln cần có ổn định để tồn tại và phát
triển, hơn nữa, sự phát triển phải có tính chất liên tục và vững chắc
trên tất cả các mặt, đảm bảo có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện
tại mà không phương hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
tương lai. Nói một cách cụ thể, sự phát triển của xã hội phải bao hàm
trong đó tăng trưởng kinh tế ln gắn liền tiết kiệm tài nguyên và nâng

cao chất lượng môi trường, công bằng xã hội được bảo đảm, truyền
thống tốt đẹp của dân tộc được giữ gìn và phát huy.
Trong điều kiện ngày nay, đảm bảo sự phát triển bền vững của xã
hội là vấn đề rất cấp bách, địi hỏi tồn xã hội phải chung tay thực hiện,
9


trong đó pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng. Pháp luật đảm bảo an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo ra những tiền đề quan ừọng
cho sự phát triển bền vững của xã hội. Pháp luật tạo ra cơ chế thúc đẩy
sản xuất phát triển mạnh mẽ, qua đó thúc đẩy sự phát triển tồn diện
các lĩnh vực khác của đời sống xã hội như y tế, giáo dục, văn hố, xã
hội... Pháp luật góp phần ngăn ngừa những hiện tượng dẫn đến khủng
hoảng kinh tế - xã hội, đồng thời, nó cũng góp phần quan trọng trong
việc khắc phục khủng hoảng, đảm bảo sự phát triển liên tục, kéo dài
của nền kinh tế. Pháp luật quy định các biện pháp bảo vệ và cải thiện
môi trường, khai thác và sử dụng hợp lí, tiết kiệm, có hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên. Nhờ có pháp luật mà sự phát triển kinh tế đã được
kết hợp chặt chẽ với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm cơng
bằng và tiến bộ xã hội. Pháp luật góp phần bảo tồn và phát huy các
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giữ gìn các giá trị truyền thống dân
tộc khơng chỉ cho hơm nay mà cịn cho mai sau.
2.7. Pháp luật góp phần tạo dựng những quan hệ mới trong
xã hội
Bên cạnh chức năng đề đạt, luật pháp cịn có tính tiên phong, định
hướng cho sự phát triển của các quan hệ từng lớp. Có thể nói, luật pháp
có vai trị quan trọng trong việc tạo dựng nên những quan hệ mới.
Trên cơ sở xác định thực trạng từng lớp với những tình huống, sự
kiện cụ thể, tiêu biểu, tồn tại và tái diễn bộc trực ở những thời khắc cụ
thể trong tầng lớp, nhà nước đề ra pháp luật để điều chỉnh kịp thời và

hiệp. Nhưng cuộc sống vốn sống động và thực tế thường diễn ra với
những đổi thay thẳng tuột. Tuy nhiên, về cơ bản những đổi thay đó vẫn
diễn ra theo những quy luật nhất thiết mà con người có thể nhận thức
được.

10


Dựa trên cơ sở của những kết quả và dự báo khoa học, người ta có
thể dự định được những đổi thay có thể diễn ra với những tình huống
cụ thể, điển hình cần có sự điều chỉnh bằng luật pháp. Từ đó luật pháp
được đặt ra để định hướng trước, xác lập những quy định và có thể
thiết kế những mơ hình tổ chức quy định chức năng nhiệm vụ và tổ
chức thí nghiệm...
Tuy vậy, pháp luật bao giờ cũng có sự ổn định tương đối. Sự hình
thành mới hoặc thay đổi thường chỉ diễn ra với từng bộ phận của hệ
thống pháp luật, ít có những đột biến tồn phần trong một thời kì ngắn.
Tính định hướng của luật pháp cũng theo quy luật đó. Hệ thống quy
phạm định hướng chỉ là một bộ phận nhất định của hệ thống pháp luật
thực định của mỗi nhà nước.
Sự phối hợp hài hịa giữa tính cụ thể của luật pháp với tính định
hướng có một ý nghĩa rất quan yếu là tạo ra được sự ổn định và phát
triển, kế thừa và đổi mới trực tính, làm cho luật pháp năng động, tiến bộ
hơn.
2.8. Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý mọi mặt
đời sống xã hội
Quốc gia là đại diện chính thức của tồn thể từng lớp, Vì vậy nhà
nước có chức năng quản lý tồn tầng lớp.
Để quản lý toàn tầng lớp, nhà nước dùng nhiều dụng cụ, nhiều
biện pháp, nhưng luật pháp là công cụ quan yếu nhất. Với những đặc

điểm riêng của mình, luật pháp nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên
quy mơ rộng lớn nhất. Cũng nhờ có luật pháp, quốc gia có cơ sở để phát
huy quyền lực của mình và rà, kiểm soát các hoạt động của các tổ chức,
các cơ quan, các viên chức nhà nước và mọi công dân. Trong tổ chức và
quản lý kinh tế, pháp luật lại càng có vai trị lớn. Bởi, chức năng tổ chức
11


và quản lý kinh tế của quốc gia có phạm vi rộng và phức tạp, bao gồm
nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ mà nhà nước cần xác lập, điều hành
và kiểm sốt như hoạch định chính sách kinh tế, xác định chỉ tiêu kế
hoạch, quy định các chế độ tài chính, tiền tệ, giá... Q trình tổ chức và
quản lý đều địi hỏi sự hoạt động tích cực của quốc gia nhằm tạo ra
một cơ chế đồng bộ, xúc tiến quá trình phát triển đúng hướng của nền
kinh tế và mang lại hiệu quả thiết thực.
Do thuộc tính phức tạp và khuôn khổ rộng của chức năng quản lý
kinh tế, nhà nước không thể trực tiếp tham dự vào các hoạt động kinh
tế cụ thể mà chỉ thực hiện việc quản lý ở tầm vĩ mô và mang thuộc tính
hành chính - kinh tế. Q trình quản lý kinh tế không thể thực hành
được nếu không dựa vào pháp luật.
Chỉ trên cơ sở một hệ thống văn bản luật pháp kinh tế đầy đủ,
đồng bộ với thực tiễn và trình độ phát triển của kinh tế xã hội, kịp thời
trong mỗi thời kỳ cụ thể, quốc gia mới có thể phát huy được hiệu lực
của mình trong lĩnh vực tổ chức và quản lý kinh tế, xã hội.

12


PHẦN KẾT LUẬN
Qua việc trình bày vai trị của pháp luật trong việc quản lý xã

hội thì càng làm khẳng định vai trò quan trọng của pháp luật.
Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, là ý chí của giai cấp
thống trị được đề lên thành luật. Do được đảm bảo bằng nhà nước nên
pháp luật luôn được các lực lượng cầm quyền sử dụng như một cơng cụ
để truyền tải các chủ trương chính sách của mình. Bằng pháp luật, các
quan điểm, chủ trương, đường lối chính sách của lực lượng cầm quyền
nhanh chóng được truyền bá rộng rãi, cơng khai trên tồn xã hội. Thơng
qua pháp luật, các lực lượng cầm quyền áp đặt chủ trương, đường lối
của mình đối với tồn xã hội, bắt toàn thể xã hội phải phục tùng các chủ
trương, đường lối, chính sách do lực lượng đó đề ra. Nhờ có pháp luật,
chủ trương, đường lối, chính sách của lực lượng cầm quyền mới dễ
dàng đi vào đời sống, trở thành hiện thực trong đời sống. Như vậy, pháp
luật vừa là một hình thức thể hiện đường lối, chính sách của lực lượng
cầm quyền, vừa là một phương tiện quan trọng làm cho đường lối,
chính sách của lực lượng cầm quyền đi vào đời sống, trở thành hiện
thực trong đời sống. Có thể nói, pháp luật là cơng cụ hữu hiệu để thực
hiện quyền lực tư tưởng của giai cấp cầm quyền. Chính vì vậy, các lực
lượng chính trị trong xã hội ln tìm cách giành lấy chính quyền để
thơng qua đó biến chủ trương, đường lối của mình thành pháp luật.



×