Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Phân tích luận điểm: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.96 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

----------------

BÀI TẬP LỚN
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề bài: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc khơng cịn con đường nào khác con đường cách mạng vơ
sản.”

Nhóm thực hiện

:

Nhóm 4

Lớp

:

Tư tưởng Hồ Chí Minh (320)_01

Giáo viên hướng dẫn

:

Nguyễn Thùy Linh

Hà Nội, tháng 5 năm 2021
1



DANH SÁCH SINH VIÊN THỰC HIỆN

1.

Đỗ Thị Hoàng Anh

:

11190116

2.

Nguyễn Quỳnh Anh

:

11190347

3.

Nguyễn Thị Ánh

:

11190658

4.

Vũ Thị Diệu


:

11191057

5.

Bùi Thị Liễu Dương

:

11191229

6.

Đinh Quang Hiếu

:

11191922

7.

Vũ Minh Hiếu

:

11191980

8.


Nguyễn Văn Khương

:

11192604

9.

Lê Ngọc Nhật Minh

:

11193404

10.

Tạ Thị Uyên

:

11195696

2


MỤC LỤC
A. Phần mở đầu

5


Nội dung

6

B.

I.

Cơ sở khoa học của luận điểm

6

1. Khái niệm cách mạng vô sản

6

2. Cơ sở lí luận

6

3. Cơ sở thực tiễn

7

4. Tiền đề tư tưởng, lí luận

10

4.1.


Giá trị truyền thống của dân tộc

10

4.2.

Tinh hoa văn hóa nhân loại

11

4.3.

Chủ nghĩa Mác - Lê nin

12

4.4.

Nhân tố chủ quan

13

II. Phân tích luận điểm
1. Thất bại từ những con đường cứu nước đi trước là bài học kinh

14
14

nghiệm cho dân tộc ta

2. Tin tưởng vào Lê nin và quốc tế thứ ba là cơ sở cho con đường

16

giải phóng dân tộc
3. Giai cấp lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân với đội tiên

20

phong là đảng cộng sản
4. Lực lượng cách mạng là khối đại đoàn kết toàn dân, nịng cốt là

22

liên minh cơng – nơng – trí
5. Vấn đề giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo

24

và gắn liền với cách mạng vô sản thế giới
6. Liên hệ thực tiễn với cách mạng Việt Nam
III. Ý nghĩa của luận điểm

25
27

1. Định hướng đúng đắn cho cuộc tranh của nhân dân ta

27


2. Định hướng thực tiễn của cách mạng Việt Nam chứng minh là

29

hoàn toàn đúng đắn
3


IV. Vận dụng luận điểm vào công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam

30

Phần kết luận

34

D. Tài liệu tham khảo

35

C.

4


A. PHẦN MỞ ĐẦU
Giai đoạn cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX là giai đoạn bùng nổ của các phong trào
cách mạng cứu nước. Từ đây, rất nhiều cuộc cách mạng nổ ra với mong muốn giành lại
quyền tự do, dân chủ cho những người công nhân, nhân dân lao động, những người thuộc
tầng lớp giai cấp bị bóc lột hết sức mạnh mẽ trong xã hội.

Với tư cách của một nhà cách mạng yêu nước, Hồ Chí Minh đã khơng ngừng phát
triển tư tưởng và trí tuệ của bản thân từ việc học tập những quan điểm sáng tạo của các
nhà lãnh đạo tài ba trên thế giới. Đặc biệt, Người đã bị cuốn hút bởi tư tưởng của V.I.Lênin,
người đã chỉ ra đường lối đúng đắn để đem lại chiến thắng lịch sử cho cuộc Cách mạng
tháng Mười Nga. Trong cuộc gặp gỡ về tư tưởng ấy, Người đã biết rằng đây chính là con
đường đúng đắn nhất, phù hợp nhất, là chân lý để có thể vận dụng vào thực tiễn nước ta,
áp dụng vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Sau nhiều nghiên cứu, rồi qua việc đúc kết kinh nghiệm, cũng như sáng tạo tư tưởng
cách mạng của các nhà lãnh đạo để vận dụng một cách triệt để vào hoàn cảnh lịch sử của
Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nêu lên rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng
cịn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Liệu luận điểm có phần khác
với các thân sĩ yêu nước trước có chính xác với hồn cảnh Việt Nam thời bấy giờ hay
khơng? Liệu có đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc, hịa bình mà nhân dân Việt Nam
đang mong đợi hay không?

5


B.

PHẦN NỘI DUNG

I- Cơ sở khoa học của luận điểm
1. Khái niệm Cách mạng vô sản
Trước hết, theo định nghĩa thì cách mạng vơ sản là một cuộc cách mạng xã hội và
chính trị nhằm thay đổi chế độ tư bản chủ nghĩa, trong cuộc cách mạng đó, giai cấp công
nhân là giai cấp lãnh đạo và cùng với quần chúng nhân dân lao động xây dựng một xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Cơ sở lý luận quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin
Quan điểm của Mác-Lênin

Vào tháng 7-1920, V.I.Lênin đã hoàn thành tác phẩm “Sơ thảo lần thứ nhất Luận
cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”. Tác phẩm đã trở thành văn kiện được
Người trình bày tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản. Thông qua tác phẩm, Lenin đã nêu lên 5
tư tưởng chiến lược lớn:
Một là, đặt vấn đề dân tộc đi đôi với vấn đề thuộc địa.
Hai là, chỉ rõ trách nhiệm của các Đảng Cộng sản ở các nước đế quốc là phải ủng
hộ, giúp đỡ một cách tích cực nhất đối với phong trào giải phóng của các dân tộc thuộc
địa và phụ thuộc.
Ba là, khẳng định các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc khơng những có nhiệm vụ giải
phóng khỏi ách thống trị của nước ngồi, mà còn phải đấu tranh chống lại các lực lượng
phản động ở ngay trong nước mình.
Bốn là, đề ra một nhiệm vụ lớn của cách mạng thế giới đó là sự đồn kết chặt chẽ
giữa phong trào giải phóng các dân tộc thuộc địa bị áp bức với các nước đã làm cách mạng
xã hội chủ nghĩa thành công.

6


Năm là, Quốc tế III đóng vai trị bộ tham mưu chung của cách mạng thế giới. Nước
Nga Xô viết là ngọn cờ đầu, là căn cứ địa, là thành trì của cách mạng thế giới.
V.I.Lênin địi hỏi phải “phân biệt thật rõ nét những dân tộc bị áp bức, phụ thuộc,
khơng được hưởng quyền bình đẳng, với những dân tộc đi áp bức, bóc lột, được hưởng
đầy đủ mọi quyền lợi”; khẳng định quyền bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc
không phân biệt màu da. Người yêu cầu các Đảng Cộng sản cần phải “tố cáo những việc
vi phạm thường xuyên nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc và những sự đảm bảo quyền
lợi của các dân tộc thiểu số trong tất cả các quốc gia tư bản chủ nghĩa”. Ngoài ra, “điều
quan trọng nhất là phải làm cho vô sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và
tất cả các nước gần gũi nhau để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng chung nhằm lật đổ
bọn địa chủ và giai cấp tư sản. Chỉ có sự gần gũi ấy mới bảo đảm việc chiến thắng chủ
nghĩa tư bản; nếu không có chiến thắng đó thì khơng thể thủ tiêu được ách áp bức và tình

trạng bất bình đẳng”.
Sau khi Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về các vấn đề
dân tộc và thuộc địa”, cùng với những trải nghiệm vốn có của Người trong suốt hành trình
bơn ba tại các nước trên thế giới, Người đã tìm thấy những chỉ dẫn về con đường giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa nói chung cũng như đối với Việt Nam nói riêng.
Nguyễn Ái Quốc hồn toàn tin tưởng V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản. Người đã trở thành
một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và cũng trở thành người cộng sản
Việt Nam đầu tiên. Đó là một sự kiện chính trị vơ cùng quan trọng trong cuộc đời hoạt
động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Có thể khẳng định, tác phẩm này chính là lời giải đáp cho những câu hỏi về vận
mệnh dân tộc, soi sáng con đường giải phóng dân tộc – con đường cách mạng vô sản.
3. Cơ sở thực tiễn
a)

Bối cảnh trong nước

Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp cơ bản đã hồn thành cơng cuộc xâm lược và bình
định nước ta, mong muốn biến Việt Nam ta từ một nước độc lập trở thành nước thuộc địa
7


của Pháp. Như vậy, ở thời kì này, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến
với hai mâu thuẫn cơ bản:
Một là, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm
lược và tay sai.
Hai là, mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam mà chủ yếu là nông dân với giai
cấp địa chủ phong kiến.
Chính sự áp bức bóc lột nặng nề của bọn thực dân mà từ đây, nhiều cuộc khởi
nghĩa đã được nổi dậy nhằm chống lại ách thống trị tàn bạo và giành lấy hịa bình
cho đất nước ta. Mở đầu là phong trào của các sỹ phu yêu nước theo ý thức hệ phong

kiến tiêu biểu như phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thá,
khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực ở Miền Nam, Phan Đình Phùng
ở Miền Trung, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích ở Miền Bắc... Sự thất bại
của các cuộc khởi nghĩa này về bản chất thể hiện sự bất lực, sự lỗi thời của hệ tư
tưởng phong kiến trước nhiệm vụ lịch sử.
Sang đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước chuyển dần sang xu hướng dân chủ
tư sản với các phong trào Đông du, Duy tân, Đông kinh nghĩa thục... nổi lên mạnh
mẽ và rộng khắp nhưng nhanh chóng thất bại vì đường lối cách mạng khơng rõ ràng,
khơng huy động được mọi tầng lớp nhân dân, tư tưởng còn sai lầm, cầu viện nước
ngồi, khơng độc lập tự chủ...
Sự thất bại của phong trào yêu nước nói lên sự khủng hoảng về đường lối chính trị
ở Việt Nam, sự thiếu hụt về lực lượng, vũ khí, đặc biệt là thiếu đi đường lối chỉ đạo đúng
đắn. Do đó, địi hỏi khách quan của thực tiễn lúc này là phải tìm kiếm một đường lối mới
để giải phóng dân tộc Việt Nam. Có thể nói, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước là
một tất yếu lịch sử.
b)

Bối cảnh thế giới

Lịch sử thế giới trong giai đoạn này cũng có những biến chuyển hết sức to
lớn. Cuối thế kỷ XIX, CNTB đã chuyển sang giai đoạn CNTB độc quyền, với đặc
điểm quan trọng nhất của nó là xâm chiếm thuộc địa. Thống trị và xâm chiếm thuộc
8


địa đã đẩy mạnh phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Chủ nghĩa đế quốc
trở thành kẻ thù chung của nhân dân thuộc địa. Từ đó dẫn đến cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa thực dân giành độc lập dân tộc, gắn bó với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản thế
giới là đặc điểm mới của thời đại.
Qua sự thất bại của các phong trào cứu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,

Nguyễn Tất Thành tuy chưa nhận thức được đặc điểm của thời đại, nhưng Người cũng
thấy rõ con đường cứu nước của các bậc tiền bối cách mạng là không phù hợp, khơng đem
lại kết quả. Người phải đi tìm một con đường mới. Mục đích ra đi lúc đầu là tìm hiểu tại
sao và bằng cách nào mà các nước phương Tây giàu mạnh? Cái gì ẩn giấu đằng sau những
câu châm ngơn lý tưởng về Tự do, Bình đẳng, Bác ái? Những năm hoạt động tại nước
ngoài đã giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu sâu sắc hơn về bản chất của chủ nghĩa đế quốc. Năm
1911, khi Người đến cảng Mácxây đã tận mắt chứng kiến cảnh chết chóc của người da
đen dưới roi vọt tàn nhẫn của bọn thực dân Pháp. Sang năm 1912, khi đến thăm pho tượng
Nữ thần tự do tại Mỹ, điều Người chú ý nhất không phải là ánh hào quang quanh đầu
tượng mà Người xúc động trước cảnh những nô lệ da đen dưới chân tượng. Xem xét hai
cuộc cách mạng là Cách mạng tư sản Mỹ (1776) và Cách mạng tư sản Pháp (1789) Nguyễn
Ái Quốc đã học hỏi được nhiều điều. Tuy vậy, Người vẫn đánh giá “Cách mệnh Pháp
cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh khơng đến nơi, tiếng là
cộng hịa và dân chủ, kỳ thực thì trong nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc
địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi mà nay cơng nơng Pháp hẵng cịn phải mưu cách mệnh lần
nữa mới hịng thối khỏi vịng áp bức.”
Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga dành thắng lợi. Đây được xem là sự kiện
chính trị lớn nhất của thế kỷ XX, mở ra một trang thời đại mới trong lịch sử loài người,
thời đại chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, thời đại thắng lợi của cách mạng giải phóng
dân tộc và cách mạng vơ sản. “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành
công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái tự do, bình đẳng thật,
khơng phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An
Nam”. Với thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập
Chính quyền Xơ viết; nhiều dân tộc vốn là thuộc địa của đế quốc Nga đã được tự do, được
9


hưởng quyền tự quyết, độc lập”. Chính cuộc cách mạng này đã làm “thức tỉnh dân tộc
Châu Á”, từ đó tác động mạnh mẽ tới tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc. Bị thu hút bởi sự
kiện lịch sử gây chấn động thế giới, Nguyễn Ái Quốc được tiếp cận với Luận cương của

V.I. Lênin “Về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” khi cịn ở Pháp. Chính từ trong bản
luận cương này Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước, giải phóng
cho dân tộc Việt Nam Việc lựa chọn đi theo con đường cách mạng vô sản, con đường của
Cách mạng tháng Mười Nga, theo chủ nghĩa Mác - Lênin đã đánh dấu sự thay đổi và
trưởng thành vượt bậc trong nhận thức của vị lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng thời là bước
ngoặt quan trọng đối với cách mạng Việt Nam.
4. Tiền đề tư tưởng, lí luận
4.1. Giá trị truyền thống của dân tộc
Những truyền thống tốt đẹp cao quý của dân tộc ta đã được hình thành và duy trì,
gìn giữ ngay từ những ngày đầu của thời kỳ dựng nước, giữ nước. Đó là truyền thống u
nước, đồn kết; là truyền thống nhân nghĩa cần cù, yêu lao động; là tinh thần hiếu học, lạc
quan…
Chủ nghĩa yêu nước chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam. Đó là động lực, sức mạnh giúp dân tộc Việt Nam chống lại
mọi kẻ thù xâm lược, vượt qua mọi khó khăn trong cơng cuộc dựng nước và giữ nước. Hồ
Chí Minh đã chú ý kế thừa, phát triển tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất vì độc lập,
tự do của Tổ quốc, nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam. Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã thúc giục người con trai
Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Từ thực tiễn đó Bác đã đúc kết thành chân
lý: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn
sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm
tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.”

10


Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc còn thể hiện qua từng phong tục nhỏ như
việc quây quần bên mâm cơm gia đình cũng phần nào cho ta thấy được sự gắn kết của
người Việt. Bác đã từng nói: “Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết. Thành cơng, thành cơng,

đại thành cơng” để thể hiện truyền thống đồn kết là một điều không thể thiếu trong cuộc
sống của con người Việt Nam.
Ngồi ra, đức tính cần cù, chịu khó, tinh thần hiếu học, lạc quan, ý chí bất khuất,
kiên cường còn được thể hiện rõ qua con người Hồ Chí Minh. Trong những năm tháng
bơn ba nước ngồi dù gặp bao nhiêu khó khăn vất vả nhưng Bác chưa bao giờ có ý định
bỏ cuộc. Khơng những thế, chính hồn cảnh khắc nghiệt, khó khăn lại là mơi trường để
Bác phát huy sức mạnh của mình. Bác biết khoảng 28 thứ tiếng, đọc thông viết thạo 7 thứ
tiếng chủ yếu đều nhờ tự học. Chính sự cần cù,chăm chỉ của Bác, của nhân dân Việt Nam
đã tạo nên nếp sống tốt đẹp, lành mạnh trong tư tưởng của mọi người.
4.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Đó là sự kết hợp giữa những giá trị truyền thống của văn hóa phương Đơng và
những thành tựu văn hóa phương Tây để góp phần hình thành nhân cách Hồ Chí Minh.
Về nho giáo, Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng nhân trị, đức
trị để quản lý xã hội. Kế thừa và phát triển tư tưởng xây dựng một xã hội lý tưởng trong
đó cơng bằng, bác ái, nhân, nghĩa, trí, dũng, tín, liêm được coi trọng để có thể đi đến một
thế giới đại đồng với hịa bình, khơng có chiến tranh, các dân tộc có quan hệ hữu nghị và
hợp tác. Đặc biệt Hồ Chí Minh cịn chú ý kế thừa, đổi mới và phát triển tinh thần trọng
đạo đức của Nho giáo trong việc tu dưỡng rèn luyện con người và trong cơng tác xây dựng
Đảng.
Về Phật giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và phát triển tư tưởng vị tha, yêu thương
con người, khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác; đề cao quyền bình đẳng của
con người và chân lý. Vận dụng sáng tạo những quan điểm tích cực hướng nhân dân theo
Đạo phật, đoàn kết toàn dân vì nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và

11


giàu mạnh. Luôn luôn chú trọng kế thừa, phát triển tư tưởng nhân bản, đạo đức tích cực
trong Phật giáo để xây dựng con người, xã hội hiện nay.
Bên cạnh đó Hồ Chí Minh cịn kế thừa, phát triển tư tưởng của các trường phái khác

nhau trong các nhà tư tưởng phương Đông cổ đại khác như Mặc Tử, Hàn Phí Tử, Quản
Tử,… những trào lưu tư tưởng tiến bộ như chủ nghĩa Găngđi, chủ nghĩa Tam dân của Tôn
Trung Sơn. Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo những quan điểm về dân tộc, dân quyền,
dân sinh của Tôn Trung Sơn trong cách mạng dân chủ tư sản thành tư tưởng đấu tranh cho
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của con người và dân tộc Việt Nam theo con đường cách
mạng vô sản.
Cùng với tư tưởng triết học phương Đơng, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tư tưởng
tiến bộ, phóng khống, hiện đại từ những nhà lãnh đạo tài ba trên thế giới. Người quan
tâm, tìm hiểu khẩu hiệu nổi tiếng Tự do - Bình đẳng - Bác ái của cuộc đại cách mạng Pháp
năm 1789. Kế thừa, phát triển những quan điểm nhân quyền, dân quyền trong bản Tuyên
ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776, bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp
năm 1791 và đề xuất quan điểm về quyền mưu cầu độc lập, tự do, hạnh phúc của các dân
tộc. Nghiên cứu tư tưởng nhân văn, dân chủ và nhà nước pháp quyền của các nhà khai
sáng phương Tây. Trong hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tự làm giàu vốn
trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại từ đó suy ngẫm, lựa chọn, kế thừa, đổi mới
và phát triển.
4.3.

Chủ nghĩa Mác-Lênin

Đối với Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa Mác-Lênin là thế giới quan, phương pháp luận
trong nhận thức và hoạt động cách mạng. Là tiền đề lý luận quan trọng nhất, có vai trị
quyết định trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã tiếp thu chủ
nghĩa Mác-Lênin trên nền tảng tri tri thức văn hóa tinh túy được chắt lọc cùng với những
hiểu biết phong phú mà Người tích lũy được thơng qua hoạt động đấu tranh thực tiễn vì
mục tiêu giải phóng dân tộc. Từ những tiếp thu ban đầu đối với tư tưởng Lênin, Hồ Chí
Minh đã tiến dần tới việc nghiên cứu sâu sắc hơn chủ nghĩa Mác, tiếp thu có chọn lọc
những tư tưởng trong chủ nghĩa Mác – Lênin, nắm lấy bản chất đồng thời bổ sung, phát
12



triển, làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin và áp dụng vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam.
4.4.

Nhân tố chủ quan

Thế nhưng, nếu chỉ có truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại, và chủ
nghĩa Mác – Lênin, mà không kể đến bản thân nhân cách, phẩm chất của Hồ Chí Minh thì
đó là thiếu xót lớn. Mà chính phẩm chất, điều kiện chủ quan của Người là nền tảng quan
trọng nhất tạo nên vị lãnh tụ vĩ đại ấy.
a. Phẩm chất Hồ Chí Minh:
Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân xâm lược, nhân dân bị hai
tầng áp bức nặng nề, Bác sớm đã bộc lộ tinh thần yêu nước, thương dân, ln mang trong
mình lý tưởng cao cả, hồi bão lớn cứu dân cứu nước thoát khỏi cảnh lầm than, cơ cực.
Một con người bé nhỏ nhưng với ý chí và nghị lực phi thường, Bác dám một mình đi ra
các nước đế quốc để khảo sát chỉ với hai bàn tay trắng. Bác đã phải làm nhiều nghề để
kiếm sống, tự học hỏi đồng thời tham gia hoạt động cách mạng.
Đặc biệt Hồ Chí Minh là người có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê
phán, đổi mới và cách mạng. Khám phá và vận dụng đúng quy luật chung của xã hội, của
cách mạng thế giới vào hoàn cảnh cụ thể của dân tộc khái quát thành tư tưởng và vận dụng
vào thực tiễn.
b.Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận:
Hồ Chí Minh có vốn sống và thực tiễn cách mạng phong phú, phi thường. Trong
suốt những năm bôn ba nước ngồi, Bác đã khơng ngừng quan sát, học tập trau dồi cho
mình những hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa đế quốc thực dân. Bác thấu hiểu phong trào
giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Đảng cộng sản. Và từ đó Bác đã
hiện thực hóa tư tưởng, lý luận cách mạng vào thực tiễn đồng thời tổng kết thực tiễn, bổ
sung vào lý luận, tư tưởng cách mạng.
II.


Phân tích luận điểm
13


Nguyễn Ái Quốc, với tư duy phóng khống, với tình yêu nước nồng nàn cùng
những kinh nghiệm và sự trưởng thành trong tư tưởng đạt được sau nhiều năm bôn ba
trên thế giới, đặc biệt là sau khi nghiên cứu các học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin,
Người đã sớm nhận thức rõ: đối tượng của cách mạng là chủ nghĩa thực dân đế quốc và
tay sai; mục tiêu của cách mạng là đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc
và thiết lập chính quyền của nhân dân; nhiệm vụ của cách mạng là đánh đuổi đế quốc
giành độc lập, từ đó đánh đổ phong kiến giành ruộng đất cho dân cày. Chính vì vậy,
Người lựa chọn khuynh hướng chính trị vơ sản và khẳng định: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản”. Chỉ có
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
1.

Thất bại từ những con đường cứu nước đi trước là bài học kinh nghiệm

cho dân tộc ta
Các phong trào yêu nước và các cuộc khởi nghĩa trong nước chưa thực tế, thiếu đường
lối chỉ đạo đúng đắn
Từng được chứng kiến các phong trào cứu nước của ơng cha ta và hồn tồn khâm
phục tinh thần yêu nước của họ, nhưng Nguyễn Ái Quốc không tán thành con đường cứu
nước mà họ đưa ra. Người nhận xét về phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu chẳng
khác nào “Đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, con đường của Phan Châu Trinh cũng
chả khác gì “Xin giặc rủ lịng thương” cịn con đường của Hồng Hoa Thám trong khởi
nghĩa n Thế tuy có phần gắn liền với thực tế xã hội nhưng vẫn “mang nặng cốt cách
phong kiến”. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chúng ta phải đối đầu với một kẻ thù khác

hẳn với chúng ta về nền văn minh và văn hóa. Kẻ thù là chủ nghĩa tư bản mạnh hơn ta
nhiều lần, với các phương tiện chiến tranh cũng hiện đại hơn ta. Do đó, trong đường lối
cách mạng cũ đều không thể giành thắng lợi. Chủ nghĩa tư bản khơng những có nền văn
minh hơn hẳn chúng ta mà cịn trở thành một hệ thống trên tồn thế giới. Vì vậy, để đối
phó với nó, Người khơng đồng tình với những con đường cũ và muốn tìm một con đường
mới, con đường chắc chắn và nhất định thành công.
14


Sau thất bại của những phong trào yêu nước theo quan điểm phong kiến và dân chủ
tư sản, Nguyễn Ái Quốc, trong tư thế một người lao động, ra đi tìm đường giải phóng dân
tộc (5/6/1911). Hành trang của Nguyễn Ái Quốc khơng có gì khác ngồi tấm lịng u
nước vơ bờ bến cùng ý chí quyết tâm giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Nhưng nếu chỉ
có lịng u nước như vậy, liệu có đủ để người đánh bại sự tàn bạo của bọn thực dân phong
kiến? Chúng mạnh hơn ta rất nhiều, về cả thể chất lẫn sự hiện đại của trang thiết bị. Chúng
sẵn sàng đơ hộ, bóc lột và tra tấn đồng bào ta khơng thương tiếc thì liệu tình u nước to
lớn có đủ để làm cảm động trái tim của lũ cướp nước dã man kia?
Bằng chính sự tin tưởng vào bản thân mình dù chỉ có hai bàn tay trắng nhưng
Nguyễn Ái Quốc vẫn có thể bơn ba khắp nơi, để rồi Người làm bạn và học tập được rất
nhiều tư tưởng hay từ các nhà lãnh đạo trên thế giới. Người đi hết từ châu Á sang Châu
Âu rồi tới Châu Mỹ để quan sát cuộc sống của người dân lao động. Và đặc biệt, người chú
ý nhất là hình ảnh của những người nô lệ da đen. Họ phải mặc những trang phục nghèo
nàn, cũ kĩ và trở thành trò tiêu khiển, sự chỉ trỏ, cười đùa, giễu cợt của những tầng lớp
xung quanh. Thậm chí, có những nơi, người da đen bị đối xử như một món hàng đang trao
đổi tại hội chợ thương mại quốc tế hay chợ nô lệ. Và sau khi xem xét tất cả, Nguyễn Ái
Quốc nhận ra rằng: đâu đâu trên thế giới cũng chỉ có hai loại người là thiểu số đi áp bức
bóc lột, cịn đa số quần chúng nhân dân lao động là những người bị áp bức bóc lột.
Cách mạng tư sản không triệt để
Năm 1918, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp và tích cực tham gia vào các hoạt động
của phong trào công nhân Pháp. Nhờ vào sự giúp đỡ của các đồng chí cơng nhân Pháp,

năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã gia nhập Đảng xã hội Pháp. Chỉ khi được sống và làm
việc trong môi trường nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc mới hiểu ra ở nước Pháp cũng có
nhiều người lao động nghèo khổ như ở Việt Nam. Ở đây, giai cấp tư sản cũng tàn bạo như
chính tại q hương mình. Hơn nữa, điều mà Người khơng thể ngờ được rằng, trên chính
nước Pháp lại có hai nước Pháp: một của giai cấp tư sản và một của giai cấp nhân dân lao
động. Mặc dù cùng tồn tại song song nhau trên một vùng đất, nhưng hai giai cấp lại như
hai thái cực hoàn toàn khác nhau, giai cấp này đè lên giai cấp kia, chà đạp lẫn nhau để
15


sống, để tồn tại. “Tư bản, dùng chữ Tự do, Bình đẳng, Đồng bào để lừa dân xúi dân đánh
đổ phong kiến. Khi đánh đổ phong kiến rồi thì lại thay phong kiến mà áp bức nhân dân.”
Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người dân Việt Nam yêu nước gửi đến
hội nghị Vécsai bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” để đòi quyền lợi cho các dân tộc
ở Đông Dương. Bản yêu sách không được thực dân Pháp chấp nhận, song nó đã để lại
một tiếng vang lớn trong dư luận thế giới. Cũng từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra được
bài học quan trọng rằng “Sự nghiệp giải phóng dân tộc mình phải dựa vào chính sức mạnh
của mình chứ khơng phải dựa vào sức mạnh của các lực lượng bên ngồi”.
Khi tìm hiểu thực tiễn cách mạng tư sản tại Pháp và Mỹ, Người nhận thấy rằng
“Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không
đến nơi; tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng ngồi thì
nó áp bức thuộc địa”. Chính vì lẽ đó, Người khơng đi theo con đường cách mạng tư sản.
2.

Tin tưởng vào Lênin và quốc tế thứ ba là cơ sở cho con đường giải phóng

dân tộc
Cách mạng tháng Mười Nga thành cơng triệt để
Năm 1917 đánh dấu một sự kiện quan trọng có tác động đến cơng cuộc giải phóng
dân tộc trên tồn thế giới, đó là thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga. Tính đến thời

điểm này, chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga là thắng lợi một cách triệt để. Nó khơng chỉ
đánh dấu sự ra đời của nhà nước vơ sản đầu tiên trên thế giới mà cịn đặt nền móng cho
một chế độ xã hội phù hợp nhất với các lợi ích cơ bản của con người. Điều đó giúp khẳng
định một chân lý: dưới sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản chân chính, hết lịng vì lợi
ích, hạnh phúc của nhân dân, tồn tâm, tồn ý phục vụ nhân dân thì lý tưởng cách mạng
xã hội chủ nghĩa mới có thể được thực hiện đến cùng, mới đem lại được tự do, bình đẳng
thực sự cho mọi người. Khơng ai có thể hồi nghi về thắng lợi mà cách mạng tháng Mười
Nga đem lại, một cuộc cách mạng đã làm rung chuyển cả thế giới. Thắng lợi này là niềm
tin, là hy vọng cho tầng lớp nhân dân lao động trên khắp thế giới. Người Nga họ làm được
thì dân tộc ta cũng làm được. Nguyễn Ái Quốc tin tưởng vào Lênin, tin tưởng vào con
16


đường Lênin đã lựa chọn để giải phóng cho dân tộc mình. Thơng qua cuộc cách mạng
này, chúng ta có thể thấy rằng muốn cách mệnh thành cơng thì phải lấy dân chúng làm
gốc, phải có Đảng vững mạnh, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Đó là chân lý
để hồn thành cơng cuộc cách mạng cho dân tộc.
Cách mạng Tháng Mười Nga để lại những phương pháp cũng như những bài học
kinh nghiệm vô giá cho các quốc gia, dân tộc trong cuộc đấu tranh cách mạng vì độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; mở ra một trang mới trong lịch sử phát triển nhân loại, đánh
dấu một xu thế phát triển tất yếu, một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Nhận thức về ý nghĩa của cách mạng tháng
Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc viết: “Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng tháng Mười
chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên
trái đất. Trong lịch sử lồi người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và
sâu xa như thế”
Con đường giải phóng dân tộc
Năm 1920 người bắt gặp Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo. Sau khi nghiên cứu kỹ luận cương
của Lênin, cũng như xem xét kết quả từ Cách mạng tháng Mười Nga mang lại, Nguyễn

Ái Quốc đã tìm thấy một con đường cứu nước phù hợp cho dân tộc Việt Nam. Con đường
đó là muốn cứu nước, muốn giải phóng dân tộc khơng cịn con đường nào khác ngồi
con đường cách mạng vơ sản. Đây là con đường cách mạng triệt để nhất phù hợp với yêu
cầu của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Trong bài Con đường dẫn
tôi đến chủ nghĩa Lênin, Người kể lại: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động,
phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình
trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đơng đảo: “Hỡi đồng bào bị
đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng
ta!”. Từ đó tơi hồn tồn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Học thuyết cách mạng
vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin được Người vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện
cách mạng Việt Nam.
17


Lịch sử các giai cấp thống trị thực hiện thống trị áp bức giai cấp và áp bức dân tộc
chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin mới giải quyết triệt để vấn đề giải phóng giai cấp và giải
phóng dân tộc. Trong lịch sử, chưa có học thuyết nào mà bảo vệ quyền lợi cho giai cấp bị
bóc lột và người lao động. Chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin hướng tới khơng chỉ bảo vệ mà
còn đưa người lao động lên làm chủ. Bác đã tin và theo chủ nghĩa Lênin, người cho rằng:
“Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Người vận dụng sáng tạo lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa MácLênin để hoạch định đường lối, chủ trương, giải pháp và những đối sách phù hợp cho cách
mạng Việt Nam. Ngay từ năm 1924, sau khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, trở thành một
cán bộ của Đảng Cộng sản Pháp và của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã vạch rõ sự
khác nhau giữa thực tiễn của các nước tư bản phát triển ở châu Âu mà C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lê-nin đã chỉ ra, với thực tiễn Việt Nam – một nước thuộc địa nửa phong
kiến, nông nghiệp, lạc hậu ở phương Đông. Do đó, cần bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác
về cơ sở lịch sử phương Đông. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ gửi Quốc
tế Cộng sản, Người viết: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương
Tây... Dù sao thì cũng khơng thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng
cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình khơng thể có được. Mác đã xây

dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch
sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại... Xem xét lại chủ nghĩa
Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đơng. Đó chính là
nhiệm vụ mà các Xô viết đảm nhiệm”. Người nhấn mạnh rằng, việc học tập, vận dụng
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trước hết phải nắm vững “cái cốt lõi”, “linh hồn sống” của nó là
phương pháp biện chứng. Sơ thảo của V.I. Lê-nin, viết năm 1920, đã thức tỉnh Nguyễn Ái
Quốc, đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, vì đây là chủ nghĩa duy nhất quan tâm
đến vấn đề thuộc địa. Nhưng vượt trên những hạn chế lúc bấy giờ trong nhận thức và đánh
giá về phong trào cách mạng thuộc địa: Cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng
chính quốc, là “hậu bị quân” của cách mạng vô sản chính quốc; cách mạng chính quốc
thắng lợi thì các thuộc địa mới được giải phóng, Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc khát vọng và
18


tiềm năng, sức mạnh to lớn của các dân tộc thuộc địa, nên đã nêu lên luận điểm: Cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa quan hệ chặt chẽ với cách mạng chính quốc,
nhưng khơng hồn tồn phụ thuộc vào cách mạng chính quốc. Nhân dân các dân tộc thuộc
địa và phụ thuộc có thể “chủ động đứng lên, đem sức ta mà giải phóng cho ta”, giành
thắng lợi trước cách mạng chính quốc và qua đó, thúc đẩy cách mạng chính quốc.
Theo C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, so với vấn đề giai cấp vơ sản thì vấn đề dân
tộc chỉ là một vấn đề thứ yếu, “…đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích khơng phụ
thuộc vào dân tộc mà chung cho toàn thể giai cấp vơ sản”, nhưng Hồ Chí Minh lại chủ
trương đồn kết tồn dân, huy động mọi lực lượng khơng ra mặt phản động vì “Trong lúc
này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”. Hồ Chí Minh nhận thấy trước hết cần
có một chính phủ đại biểu cho sự chân thành đồn kết và hành động nhất trí của toàn thể
quốc dân, “Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo cơng việc
cứu quốc, kiến quốc, ngồi thì giao thiệp với các hữu bang”. Có thể thấy, giải phóng dân
tộc bằng con đường cách mạng vô sản là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn.
3. Giai cấp lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân với đội tiên phong là
Đảng cộng sản

Trước hết, giai cấp lãnh đạo cách mạng phải là giai cấp cơng nhân. Ở thời điểm đó,
giai cấp công nhân chỉ chiếm khoảng 2% dân số. Tuy nhiên, nếu không phải giai cấp công
nhân mà là giai cấp nông dân, giai cấp chiếm hơn 90% dân số, lãnh đạo cuộc cách mạng
này, thì chúng ta sẽ mãi khơng thể thoát khỏi chế độ phong kiến lạc hậu, cũ kĩ. Hơn nữa,
giai cấp cơng nhân cịn là giai cấp sở hữu phương thức sản xuất hiện đại, tiên tiến; có hệ
tư tưởng riêng là chủ nghĩa Mác – Lênin; là giai cấp dân tộc – vừa có quan hệ quốc tế,
vừa có bản sắc dân tộc và có tính triệt để cách mạng.
Về tầm quan trọng của tổ chức Đảng đối với cách mạng, chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ
rõ: Đảng cộng sản là nhân tố chủ quan để giai cấp cơng nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử
của mình. Giai cấp cơng nhân phải tổ chức ra chính đảng, đảng đó phải thuyết phục, giác
ngộ và tập hợp đơng đảo quần chúng, huấn luyện quần chúng và đưa quần chúng ra đấu
tranh. Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và rất chú trọng đến việc
19


thành lập đảng cộng sản, khẳng định vai trò to lớn của Đảng đối với cách mạng giải phóng
dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927),
Người đặt vấn đề: Cách mạng trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh,
để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và
vơ sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh thì mới thành cơng....
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam - chính đảng của giai cấp công nhân Việt
Nam ra đời trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Ngay từ
đầu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm đứng ra nhận sứ mệnh lịch sử to lớn mà giai cấp
và dân tộc giao phó: Lãnh đạo các tầng lớp nhân dân Việt Nam đấu tranh chống thực dân,
phong kiến, giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân. Trước sự bế tắc về lý luận cũng
như đường lối của các lực lượng cách mạng Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ
XX, sự thất bại không tránh khỏi của các phong trào chống Pháp do các sĩ phu yêu nước
và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản lúc đó, dân tộc ta đã hướng đến con đường cứu
nước mới, khác về chất, con đường mà các thế hệ người Việt Nam yêu nước đã đi. Chính
lúc dân tộc Việt Nam cần một đường lối chính trị đúng đắn, một đội tiên phong dẫn đường,

một bộ tham mưu lãnh đạo thì Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã đáp ứng kịp thời và đầy đủ những đòi hỏi bức thiết của lịch sử. Đảng ta
ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam. Từ khi xuất hiện trên vũ đài chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ rõ
là một đảng cách mạng chân chính nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc,
của giai cấp, sớm trở thành đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc trong cuộc đấu tranh
chống đế quốc, phong kiến. Có thể nói, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam là
do thời đại, do giai cấp và dân tộc quy định.
Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trị lãnh đạo nhân dân Việt Nam cùng một lúc vừa
làm tư sản cách mạng, vừa làm dân tộc cách mạng và làm giai cấp cách mạng. Đây là đặc
điểm lớn nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
và cũng là một đặc điểm của sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với giai cấp và dân tộc Việt
Nam.
20


Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ
trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Lời kêu gọi của
Đảng khi Đảng mới thành lập, đó là: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”;...”Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến”;... Làm cho nước Việt Nam được độc lập;... Giải phóng cơng nhân và nơng
dân thốt khỏi ách tư bản; Mở mang công nghiệp và nông nghiệp;... Đem lại mọi quyền
lợi tự do cho nhân dân. Muốn cách mạng được thành cơng thì Đảng cộng sản phải hoạch
định đường lối chiến lược, giác ngộ, tổ chức, tập hợp quần chúng cũng như liên lạc, đồn
kết với giai cấp vơ sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Việc Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ là tư tưởng xuyên suốt, nhất
quán để khẳng định vị trí, vai trị độc tơn lãnh đạo của Đảng, mà còn là một nguyên tắc
bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị - xã hội mà Việt
Nam đã lựa chọn.
4. Lực lượng cách mạng là khối đại đồn kết tồn dân, nịng cốt là liên minh cơng –

nơng – trí.
Các nhà lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng: cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch
sử. V.I.Lênin viết: “Khơng có sự đồng tình, ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối
với đội tiền phong của của mình tức là đối với giai cấp vơ sản, thì cách mạng vơ sản khơng
thể thực hiện được”.
Kế thừa tư tưởng của các nhà lý luận nói trên, Trên báo “Việt Nam độc lập” số ra
ngày 1/2/1942, Bác viết: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đồn kết mn
người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta khơng đồn kết thì bị
nước ngồi xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn
thêm lên mãi dưới ngọn cờ Việt Minh để đánh đuổi Tây - Nhật, khôi phục lại độc lập, tự
do”. Người khẳng định: “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một
hai người”. Về vai trị của đại đồn kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đại đồn kết
tồn dân tộc là một chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, là vấn đề sống còn, quyết định
21


thành cơng của cách mạng. Đồn kết làm nên sức mạnh và là cội nguồn của mọi thành
cơng: “Đồn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy
thắng lợi”. Để đánh bại các thế lực đế quốc, thực dân giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng con người, nếu chỉ có tinh thần u nước thơi là chưa đủ, cách mạng
muốn thành công và “thành công đến nơi”, phải tập hợp tất cả các lực lượng, xây dựng
được khối đại đồn kết dân tộc bền vững.
Ở thời điểm đó, là một nước thuộc địa nửa phong kiến, với hơn 95% là nông dân,
đây sẽ là một điểm mạnh cho chúng ta khi tham gia vào bất kì cuộc kháng chiến nào. Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhận định, phong trào cứu nước của ta cuối thế kỷ XIX thất bại có một
ngun nhân sâu xa là cả nước khơng đồn kết được thành một khối thống nhất. Muốn
cách mạng thành cơng phải có lực lượng cách mạng, muốn có lực lượng cách mạng phải
thực hiện đoàn kết. Bác viết: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì
chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm trọn

nhiệm vụ nhân dân giao phó cho chúng ta”. Chúng ta khơng có gì hơn ngồi sức mạnh
tinh thần được bồi dưỡng sau nhiều năm phải chịu những áp bức, bóc lột, cùng khổ. Trong
tâm của mỗi người dân, họ luôn nuôi dưỡng ý thức phản kháng, sẵn sàng tham gia cách
mạng khi thời cơ đến, bởi sự nghiệp cứu nước là sự nghiệp của toàn dân tộc. Khi thực dân
Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai, trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
(12-1946), Người viết: “Bất kì đàn ơng, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia
tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp
để cứu Tổ Quốc”.
Để phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân và nhân nguồn sức mạnh đó
lên, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi trọng việc giác ngộ, tập hợp nhân dân vào hàng ngũ
cách mạng, bổ sung và phát huy vai trò của họ, làm cho họ trở thành một động lực cách
mạng quan trọng; đồng thời khẳng định liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nơng dân và tầng lớp trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân. Người lý giải
dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nơng, cơng, thương đều nhất trí
chống lại cường quyền. Năm 1930, trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh xác
22


định lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân: Đảng phải thu phục đại bộ phận giai cấp
công nhân, phải tập hợp đại bộ phận dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa
cách mạng; liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng....để lơi kéo họ về phía vơ sản giai
cấp; cịn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà cịn chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ tập trung. Bởi như C.Mác đã từng
nói: “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”. Chỉ những người đã trải qua sự áp bức, tra tấn
đến tận cùng thì họ mới thấu hiểu được khao khát muốn đứng dậy đấu tranh là như thế
nào. Chỉ có những người có chung lý tưởng giành lấy quyền tự chủ cho bản thân, mới có
thể đồn kết hết lịng cùng nhau chiến đấu. Người chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết
phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đồn kết. Nó cũng như cái nền
của nhà, gốc của cây”. Thực tế cho thấy, liên minh cơng-nơng-trí thức khơng những là

u cầu khách quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước mà còn là yêu cầu khách quan để phát triển bền vững kinh tế, vǎn hóa, xã hội
của đất nước.
Đây cũng chính là cơ sở để Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam thành lập và lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trải qua các thời kỳ cách mạng
với những hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khơng
ngừng lớn mạnh và có những đóng góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc, trở thành
một nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tại Đại hội thành lập Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam ngày 10/9/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lịch sử trong
những năm qua đã tỏ rõ lực lượng đoàn kết của nhân dân là vô địch. Mặt trận Việt Minh
đã giúp Cách mạng Tháng Tám thành công. Mặt trận Thống nhất Việt Minh-Liên Việt đã
giúp kháng chiến thắng lợi”. Chúng ta có thể tin chắc rằng: với sự cố gắng của mỗi người
và sự ủng hộ của toàn dân, Mặt trận Tổ quốc sẽ làm tròn nhiệm vụ vẻ vang là giúp xây
dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh.
5. Vấn đề giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và gắn liền
với cách mạng vô sản thế giới.
23


Ngay từ khi giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trở thành người cộng sản, Nguyễn
Ái Quốc đã đặt cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta vào quỹ đạo của cuộc cách
mạng vô sản thế giới. Nghĩa là sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta gắn liền với
sự nghiệp giải phóng giai cấp vơ sản, những người lao động và các dân tộc bị áp bức trên
thế giới.
Qua việc tiếp nhận những bài học sâu sắc từ Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga,
cộng với vốn kiến thức lý luận và từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú, Nguyễn
Ái Quốc đã đề ra những luận điểm về tính chủ động, tích cực của cách mạng giải phóng
dân tộc, của nhân dân các nước thuộc địa. Theo Người, cách mạng giải phóng dân tộc các
thuộc địa khơng hồn tồn phụ thuộc vào cách mạng vơ sản chính quốc. Nhân dân các
dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có thể “chủ động đứng lên, đem sức ta mà tự giải phóng

cho ta”, giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản chính quốc. Tư tưởng đó được thể hiện
ngay trong Tun ngơn của Hội Liên hiệp thuộc địa (1921), Người viết: “Cơng cuộc giải
phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Đến tác
phẩm Đường Cách mệnh (1927), Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: muốn người ta giúp cho, thì
trước mình phải tự giúp lấy mình đã; đồng thời đưa ra dự báo: “Ngày mà hàng trăm triệu
nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn
thực dân lịng tham khơng đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ và qua việc thủ
tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, sẽ có
thể giúp cho những người anh em của họ ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn
tồn”. Người cịn nêu rõ: Những người cách mạng ở thuộc địa cần chủ động tạo ra thời
cơ: “Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến!”.
Đây được xem như một luận điểm đầy sáng tạo của Hồ Chí Minh, khi mà thời đó
luận điểm của Hồ Chí Minh là khác với quan điểm của một số đông lúc bấy giờ cho rằng
cách mạng ở thuộc địa chỉ được giải quyết sau khi giai cấp vô sản ở “chính quốc” giành
được chính quyền. Và sự thành cơng của Cách mạng tháng Tám 1945 đã chứng minh tính
đúng đắn, hiểu quả của luận điểm này của Bác.
6. Liên hệ thực tiễn cách mạng Việt Nam.
24


Cuộc cách mạng vơ sản ở Việt Nam đều có những nét đặc trưng nhất của một cuộc
cách mạng vô sản, tuy nhiên nếu chỉ đi theo con đường rập khuôn cũ của các cuộc cách
mạng vô sản trên thế giới thì chúng ta chưa chắc đã thành cơng, mà ở đây chủ tịch Hồ Chí
Minh đã có những luận điểm sáng tạo, khéo léo phù hợp với hoàn cảnh đặc thù của riêng
nước ta để đưa nước ta đến chiến thắng vẻ vang năm 1945.
Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen nêu rõ: “giai cấp vô sản
mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc,
phải tự mình trở thành dân tộc…”. Điều đó có nghĩa là phải thành lập Đảng Cộng sản
trong từng quốc gia dân tộc, chứ khơng phải trong từng khu vực của thế giới. Chính vì
thế, Hồ Chí Minh chủ trương thành lập một Đảng Cộng sản ở Việt Nam, mà không phải

một đảng chung cho cả 3 nước Đông Dương, đồng thời tăng cường đoàn kết, ra sức ủng
hộ, giúp đỡ cách mạng Lào và Cam-pu-chia với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, đấu
tranh cho nền độc lập của dân tộc Việt Nam, đồng thời tôn trọng và ủng hộ cho nền độc
lập của các dân tộc khác. Vận dụng lý luận Mác - Lê-nin về Đảng Cộng sản vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khơng chỉ truyền bá lý luận cách mạng trong phong
trào công nhân mà cả trong phong trào yêu nước, giải quyết vấn đề đường lối cứu nước,
đồng thời tạo điều kiện chín muồi để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời là sản phẩm trực tiếp của sự kết hợp lý luận giải phóng và phát triển dân
tộc theo khuynh hướng vô sản với phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt
Nam, trong đó có phong trào cơng nhân nói riêng và phong trào u nước nói chung.
Như Bác đã nói đây là cuộc giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp
nên lực lượng cách mạng của ta là khối đại đoàn kết dân tộc nịng cốt là liên minh cơng –
nơng – tri thức. Đồng thời, Bác còn thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất và các đồn thể
chính trị - xã hội để tập hợp, đoàn kết toàn dân làm cách mạng. Thành lập Quân đội nhân
dân - quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, với phương châm: “Người trước, súng
sau”, làm lực lượng nòng cốt cùng tồn dân đấu tranh giành và giữ chính quyền, xây dựng
và bảo vệ đất nước…. Như C.Mác cho rằng, bạo lực chỉ là bà đỡ cho một xã hội đã thai
nghén trong lịng xã hội cũ. Do đó, bạo lực khơng phải là mục đích của giai cấp vơ sản
25


×