1
ĐẠI HỌC MỞ BÁN CÔNG TP. HCM
Khoa Xã hội học
CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI TRẺ EM
VÀ GIA ĐÌNH
ThS Nguyễn Ngọc Lâm biên tập
Năm 2005
2
MỤC LỤC
Dẫn nhập – Mục tiêu môn học
Phần 1 : Khái niệm và sự hình thành công tác xã hội với trẻ em
và gia đình
1. Khái niệm Công tác xã hội với trẻ em và gia đình
2. Sự hình thành công tác xã hội với trẻ em và gia đình
Phần 2 : Bối cảnh công tác xã hội với trẻ em
1. Chính sách chăm sóc trẻ em, quyền trẻ em và đạo luật trẻ em
2. Chế độ gia trưởng và bảo vệ trẻ em của các nước phươ
ng Tây
Phần 3 : Tiến trình phát triển tuổi thơ
1. Sự phát triển ở trẻ em là gì ?
2. Trẻ em ở giai đoạn tiền học đường
3. Trẻ ở tuổi đi học
4. Tuổi thanh thiếu niên
Phần 4 : Trẻ em, gia đình và các nhu cầu đặc biệt
1. Nhận biết nhu cầu của trẻ
2. Các phương diện đa dạng của sự phát triể
n ở trẻ em
Phần 5 : Công tác xã hội với gia đình
1. Làm việc với gia đình như là một nhóm nhỏ
2. Sự rối loạn trong vai trò làm cha mẹ
3. Vấn đề của gia đình
4. Chu kỳ sống của gia đình
5. Một số vấn đề của trẻ trong gia đình
Phần 6 : Tiến trình công tác xã hội với trẻ em và gia đình
1. Tìm hiểu trẻ và gia đình của trẻ
2. Các bước tìm hiểu trẻ và gia đình của trẻ
3. Các nguyên tắc hành động trong công tác xã hội
với trẻ em và gia đình
Kết luận – Phụ lục
3
DẪN NHẬP
MỤC TIÊU CỦA MÔN HỌC
Công tác xã hội với trẻ em và gia đình là một bộ phận trong ngành công tác
xã hội chuyên nghiệp. Nó được hình thành trong bối cảnh mạng lưới phát triển của
hệ thống an sinh xã hội nói chung và an sinh nhi đồng và gia đình nói riêng.
Môn học này sẽ cung ứng một số hướng dẫn về lý thuyết và thực hành để
nhân viên xã hội có được ý nghĩa rõ ràng về :
• Nhân viên xã hội cần biết gì trước khi làm việc v
ới trẻ em.
• Nhân viên xã hội cần biết gì trước khi làm việc với đứa trẻ đặc biệt trong những
hoàn cảnh đặc biệt này.
• Nhân viên xã hội và trẻ có thể cùng làm gì với nhau.
• Làm thế nào để trở thành người làm việc tốt hơn với trẻ.
• Quan điểm lịch sử về mối quan hệ giữa trẻ em, gia đình và quốc gia. Sự phân
tích về bản chấ
t của dịch vụ an sinh của đứa trẻ mô tả phong trào từ sự cứu vớt
đứa trẻ cho đến quyền trẻ em và những bình luận về lịch sử thực hành công tác
xã hội chăm sóc trẻ em trong công tác với trẻ em.
• Những nguyên tắc, kỹ năng cơ bản và kỹ thuật làm việc với trẻ em có thể ứng
dụng rộng rãi trong nhiều tình huống công tác xã hội.
• Vai trò của công tác xã h
ội với trẻ em có nhu cầu và trẻ em cần được bảo vệ.
Công tác với trẻ em là một phần của mạng lưới phức tạp về hoạt động công tác
xã hội liên quan tới mạng lưới của nhân viên chuyên nghiệp và các gia đình có
con.
• Đối với những trẻ em không còn sống với gia đình và được chính quyền địa
phương chăm sóc tại trung tâm nuôi dưỡng hay nhà nuôi hộ, nhu cầu đối với
4
đứa trẻ hiểu về sự mất mát của trẻ và tham gia vào các kế hoạch tương lai sẽ có
tác động quan trọng đối với trọng tâm công tác.
• Phương pháp và kỹ năng liên quan để làm việc với trẻ em được chăm sóc.
5
PHẦN MỘT
♣
Khái niệm và sự hình thành
Công tác xã hội với trẻ em và gia đình
1. Khái niệm “Công tác xã hội với trẻ em và gia đình”
Công tác xã hội với trẻ em và gia đình là một phần trong các lãnh vực chuyên
biệt của ngành công tác xã hội với mục tiêu đem lại sự hỗ trợ cho trẻ em trong hoàn
cảnh khó khăn, giúp bảo vệ trẻ em và gia đình và góp phần vào nền an sinh cho trẻ
em và gia đình.
Công việc của Công tác xã hội là huy động các nguồn lực giúp đỡ gia đình
thực hiện vai trò trong khả nă
ng giới hạn của họ. Theo Beatrice Pompy, nhân viên xã
hội có trách nhiệm xác định những rối loạn của trẻ, của cha mẹ, đánh giá cho được
khả năng và hạn chế của họ và qua đó, nhân viên xã hội phải làm việc bằng các giác
quan, trực giác, bằng quan sát cá nhân, với sự hiểu biết và kinh nghiệm trong quá
trình nghề nghiệp, về nhận thức vấn đề. Nhân viên xã hội khi can thiệp giúp đỡ trẻ
em và gia đình trẻ có vấn đề thường mang theo những quá khứ thời thơ ấu xa xưa
của mình , tình cảm, cảm xúc riêng tư của mình bên cạnh những kỹ năng chuyên
nghiệp. Vì thế mà công tác xã hội với nói chung và công tác xã hội với trẻ em và gia
đình nói riêng là một công tác vô cùng khó khăn, một công tác đòi hỏi phải luôn
được đào tạo mỗi khi tiếp xúc với đối tượng.
1. Công tác xã hội với trẻ em
Công tác xã hội với trẻ em bao gồm nhữ
ng nội dung như sau :
♣
D ựa theo”Social Work with children c ủa Marian Brandon, Gillian Schofield v à Liz Trinder, Mac. Press
LTD, 1998
6
- Các chức năng của công tác xã hội và các nhu cầu đặc biệt của trẻ em : trị
liệu, hỗ trợ, phục hồi, bảo vệ liên quan đến trẻ em có nhu cầu đặc biệt.
- Các lãnh vực thực thi công tác xã hội với trẻ : cộng đồng, trường học, bệnh
viện, các cơ sở xã hội.
- Các vai trò của nhân viên xã hội trong công tác xã hội với trẻ em
2. Công tác xã hội với gia đ
ình
Công tác xã hội với trẻ em được thực thi trong bối cảnh gia đình, môi
trường sống toàn diện của trẻ, do đó công tác xã hội với gia đình gắn bó chặt
chẻ với các vấn đề của trẻ em:
- Thực hành công tác xã hội lấy gia đình làm trọng tâm : con người
trong bối cảnh toàn diện ( môi trường sống ).
- Công tác xã hội trước các vấn đề của gia đình : Gia đình đơn thân,
gia đ
ình bạo lực, gia đình tội phạm, gia đình lạm dụng trẻ em
- Các vai trò của nhân viên xã hội trong các dịch vụ gia đình.
- An sinh nhi đồng và gia đình.
2. SỰ HÌNH THÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI TRẺ EM VÀ GIA ĐÌNH
Làm việc với trẻ em có thể là một thách thức lớn nhất nhưng cũng là phần
thưởng xứng đáng nhất của vai trò nhân viên xã hội trong lĩnh vực an sinh nhi đồng.
Làm việc với trẻ em bao g
ồm mối quan hệ trực diện khi nhân viên xã hội ở bên cạnh
trẻ, lắng nghe trẻ bày tỏ ý kiến và cảm xúc, tìm cách trao đổi phù hợp và tôn trọng
trẻ, và lôi kéo trẻ tham gia đầy đủ vào những quyết định cần thiết có ảnh hưởng đến
trẻ. Làm việc với trẻ em cần đến khả năng lắng nghe mà không bị tràn ngập bởi cảm
xúc và tạo mối quan hệ với trẻ em dễ bị
tổn thương lẫn thù hằn hoặc là đa nghi. Nó
có thể liên quan tới việc quan sát một trẻ bé có những quan tâm về ai, dùng những
vật liệu vui chơi với một trẻ khuyết tật ở tuổi tiền học đường, làm tác phẩm truyện kể
về cuộc đời cùng với trẻ được chăm sóc ở gia đình nuôi tạm hay tham vấn cho một
trẻ gái trẻ có thai. Những công việc như thế ch
ắc chắn rất là đòi hỏi tài nguyên
chuyên nghiệp lẫn cá nhân của người nhân viên xã hội. Nó cũng đòi hỏi kiến thức,
7
kỹ năng, và một bối cảnh cơ quan ủng hộ nó. Mặc dầu có nhiều cách mà trong đó
nhân viên xã hội làm việc vì trẻ em hay nhân danh trẻ em một cách phù hợp nhưng
những cách này sẽ không là trọng tâm chính của quyển sách này. Thay vào đó nhân
viên xã hội cần tập trung vào tiềm năng rộng lớn hơn để làm việc với trẻ. Điểm khởi
đầu phải là cái nguyên tắc như nữ thẩm phán Elizabeth Butler-Sloss đã nói là trẻ em
phải được đối xử như là “con người” chứ không phải như là “đối tượng của sự quan
tâm”. (HMSO, 1988)
1
Sự cam kết chuyên nghiệp đối với công tác trực tiếp với trẻ em được củng cố
bằng cả Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em và Đạo luật về Trẻ em năm 1989. Trẻ
em không những có quyền được bảo vệ về an sinh mà còn có quyền có ý kiến và kể
cả có ước mơ và cảm xúc. Quyền an sinh và quyền có tiếng nói cũng không thể đạt
được do trẻ em nếu không có sự dấn thân và cam kết của người lớn. Đối với trẻ em
cần sự bảo vệ được chuyển tới sở dịch vụ xã hội thì chính người nhân viên xã hội
phải có trách nhiệm để đảm bảo rằng cả sự an sinh của trẻ phải được bảo vệ và tiếng
nói của trẻ phải được lắng nghe. Nhân viên xã hội sẽ biện luận rằng hai điề
u này
không thể tách rời nhau. Tuy nhiên, nhiều nhiệm vụ quan trọng đang cạnh tranh để
dành tài nguyên giới hạn đó - thời gian của nhân viên xã hội - và công tác xã hội với
trẻ em rất dễ bị bỏ quên hoặc là có thứ tự ưu tiên thấp. Như vậy điều cần thiết là có
sự quan tâm tỉ mỉ đến những cách định nghĩa và bảo vệ các nguyên tắc và thực hành
công tác với trẻ em.
Nế
u nhân viên xã hội bắt đầu từ khởi điểm thì một số tranh luận chủ yếu để ủng
hộ công tác với trẻ em đáng được trình bày :
• Cũng giống như người lớn, trẻ em có quyền và nhu cầu có quan điểm và cảm xúc
được người lớn lắng nghe và đối xử với sự tôn trọng. Trẻ cần được trò chuyện
với người lớn mà các trẻ tin tưở
ng.
1
HMSO (1988) Báo cáo về cuộc điều tra về nạn ngược đãi trẻ em ở Cleveland, Com 412, (Luân Đôn :
HMSO)
8
• Chính trẻ em nói rằng chúng muốn có cơ hội để có tiếng nói.
• Nếu trẻ em có thể trao đổi với nhân viên xã hội thì nhân viên xã hội sẽ trở nên
hiểu biết hơn về kinh nghiệm và cái nhìn của trẻ về thế giới của trẻ. Đây là một
khởi điểm cho bất kỳ sự đánh giá hay can thiệp nào trong đời sống của một đứa
trẻ.
•
Trẻ em đã trải qua sự chia lìa và mất mát, ngược đãi hay thiếu chăm sóc, hay
không được lớn lên trong gia đình riêng của mình có thể cần sự giúp đỡ thêm của
nhân viên xã hội để hiểu được cái gì đã xảy ra với chúng. Hầu hết trẻ em này
cũng sẽ cần được hỗ trợ tình cảm để quen với những kinh nghiệm như thế.
• Trẻ em có khó khăn trầm trọng trong cuộc số
ng, thí dụ như dính líu tới phạm
pháp hay dùng thuốc sai lầm cần biết rằng có người sẵn sàng để gặp trẻ trò
chuyện và lắng nghe.
• Trẻ em cần phát triển lòng tự trọng và sự hiểu biết về phẩm chất. Trẻ em cần phải
biết rằng quan điểm của chúng phải được biết đến khi lấy quyết định.
• Trong một thế giớ
i phức tạp, một số trẻ em cần đến những người lớn nhiệt tình và
có kỹ năng để biện hộ cho các trẻ.
Không phải tất cả công việc này có thể hoặc phải được nhân viên xã hội thực
hiện trong mọi trường hợp. Một số trẻ sẽ đến với nhân viên chăm sóc nuôi hộ; số
khác có thể cần đến sự giúp đỡ chuyên môn của những nhân viên chuyên nghiệp
khác như nhà trị liệu tâm lý hay nhà tâm lý học. Tuy nhiên, tất cả trẻ em đều sẽ cần
tới nhân viên xã hội, người có thể trao đổi một cách có hiệu quả với các trẻ và xây
dựng được mối quan hệ tốt với các trẻ. Không có kỹ năng cơ bản này, nhân viên
công tác xã hội sẽ không thể đáp ứng được trách nhiệm của mình đối với trẻ.
9
Làm việc với trẻ em có vẻ như là một ưu tiên đương nhiên đối với nhân viên xã
hội chăm sóc trẻ, tuy vậy nó lại là lĩnh vực gây tranh luận và hơi khó định nghĩa. Đặc
biệt, có những lo lắng khi trò chuyện với trẻ em để hiểu cảm xúc của trẻ hay khi
dùng những kỹ thuật vui chơi với trẻ em và trị liệu đối với nhân viên xã hội đứng
trước những khó khăn liên quan
đến thế giới thường ngày của đứa trẻ, trường học,
vấn đề nhà ở, sắp xếp các buổi tiếp xúc. Để đáp ứng với sự lưỡng nan như thế, Clare
Winnicott đã đưa ra định nghĩa về vai trò đặc biệt và rõ ràng về công tác xã hội với
trẻ em như sau :
Nhân viên xã hội khởi sự như một người thực sự có quan tâm tới những con
người và biế
n cố bên ngoài trong đời sống của trẻ. Trong tiến trình làm việc với trẻ,
nhân viên xã hội cố gắng lấp khoảng trống giữa thế giới bên ngoài và cảm xúc của
đứa trẻ về thế giới xung quanh và để làm như thế nhân viên xã hội cũng đi vào thế
giới bên trong của đứa trẻ. Là một người có thể di chuyển từ thế giới này đến thế
giới khác, nhân viên xã hội có thể có mộ
t giá trị đặc biệt hoàn toàn của riêng mình
đối với đứa trẻ và một mối quan hệ đặc biệt. (Winnicott 1964 : 45).
Nhân viên xã hội có thể điều hành có hiệu quả cái thế giới bên ngoài của đứa trẻ,
có thể nói chuyện với cha mẹ và thầy cô giáo, có thể lo lắng về nhà ở tồi tàn, có thể
đến thăm bệnh viện hay nhà của trẻ em, có mặt ở trạm cảnh sát nếu cần. Nhân viên
xã hội cần phải có hiểu biết thật tốt về những hệ thống như thế. Tuy nhiên, cùng lúc
nhân viên xã hội cần phải suy nghĩ về và suy nghĩ với đứa trẻ, cố gắng để nhìn thế
giới này qua cặp mắt của đứa trẻ và khám phá không thế giới bên ngoài ảnh hưởng
đến đứa trẻ theo khách quan mà cả thế giới đó được trải qua theo chủ quan. Chính
tiến trình này cần đến toàn bộ kỹ năng phụ thêm. Nó đòi hỏi nhân viên xã hội ăn
khớp với đứa trẻ, bằng những cách phù hợp với tuổi tác, sự hiểu biết và hoàn cảnh
của đứa trẻ. Nó cần người nhân viên xã hội có sự hiểu biết đúng đắn về trẻ em phát
triển ra sao và trẻ em nhìn thế giới như thế nào, những gì mà trẻ em cần từ môi
trường của chúng và cách thức chúng phản ứng nế
u những nhu cầu đó không được
đáp ứng.
10
Những gì nhân viên xã hội biết được từ hai thế giới khác nhau này, thế giới bên
trong và bên ngoài, giúp nhân viên xã hội nối kết lại và tạo điều kiện cho họ làm việc
với đứa trẻ để làm rõ những trải nghiệm của trẻ và bắt đầu trả lời một số những câu
hỏi phức tạp nhất. Đứa trẻ nhận ra điều gì đảo lộn nhất về s
ự ly dị của cha / mẹ. Cái
gì có thể là lý do đối với việc hành vi ăn cắp của đứa trẻ hay cha mẹ từ bỏ đứa trẻ.
Một khi đã làm được sự nối kết này thì lúc đó nhân viên xã hội và đứa trẻ có thể
hướng đến việc làm rõ điều gì là có ích nhất trong cả hai thế giới. Những gì đứa trẻ
cần làm về mặt tình cảm để quen dần với sự
ly hôn và nỗi buồn vì mất mát, sự chuẩn
bị thực tế gì để tiếp xúc tạo thuận lợi cho tiến trình này.
Phần lớn, công tác xã hội với trẻ em diễn ra trong bối cảnh toàn bộ môi trường
đứa trẻ - gia đình, nhóm bạn chơi, trường học, góc phố. Nó cũng diễn ra trong giới
hạn thủ tục của cơ quan công tác xã hội và ranh giới chuyên môn của vai trò công tác
xã hội.
Từ quan điể
m của trẻ em, sự kiện mà nhân viên xã hội biết và hiểu về thế giới
của chúng và làm việc trong thế giới đó. Nhân viên xã hội không những có thể giúp
trẻ nối kết quá khứ và hiện tại và hiểu được nguyên do mà chính mình là sự nối kết
giữa các thế giới khác nhau.
Qua tiến trình này, đứa trẻ là một người tham gia tích cực. Chính trách nhiệm của
nhân viên xã hội là làm tăng tối đa khả năng của đứa trẻ để nói lên mong ước và cảm
xúc của chính trẻ không chỉ về những quyết định chính yếu như đã được giải thích
trong đạo luật trẻ em 1989 mà còn trong các lĩnh vực công tác ảnh hưởng đến đứa
trẻ. Nói chuyện với đứa trẻ, lắng nghe trẻ và để ý đến cảm xúc của trẻ cùng với ý
kiến và các nguồn thông tin khác trong một trường hợp là một tiến trình phức tạp cầ
n
có sự cam kết dấn thân xử lý một cách tinh tế và có hiệu quả từ phía nhân viên xã
hội.
11
PHẦN II
♣
BỐI CẢNH CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI TRẺ EM
1. CHÍNH SÁCH CHĂM SÓC TRẺ EM, QUYỀN TRẺ EM VÀ ĐẠO LUẬT
TRẺ EM
Khởi đầu từ thế kỷ 19 và được tăng cường vào thế kỷ 20, quyền trẻ em được
bảo vệ ngày càng được làm sáng tỏ, mang tính cưỡng chế. Trong những năm qua,
quan điểm bảo vệ này đã được bổ sung bằng sự thúc đẩy quyền trẻ em để trẻ tham
gia vào những quyết định ảnh hưởng đến đời sống của trẻ.
Trong câu nói nổi tiếng đương thời của nữ thẩm phán Butler Sloss, có một sự
chuyển hướng trong việc đối xử với trẻ như “một con người chứ không phải là đối
tượng của sự quan tâm”.
Mục đích của chương này là đặt thực hành công tác xã hội hiện tại trong bối
cảnh luật pháp và lịch sử. Chương này có 2 phần:
1. Tìm hiểu sự phát triển của chính sách đối với trẻ em và quyền trẻ em trên
2 thế kỷ qua, xem xét công tác xã hội với trẻ em trong bối cảnh của
khuynh hướng chính sách rộng lớn hơn.
2. Những hiểu biết đương đại về quyền trẻ em làm nền tảng cho công tác xã
hội với trẻ em.
1.1. Trẻ em và quyền trẻ em :
♣
D ựa theo”Social Work with children” c ủa Marian Brandon, Gillian Schofield v à Liz Trinder, Mac. Press
LTD, 1998
12
Trẻ em có nghĩa là gì, tuổi thơ là gì, đều được hình thành do xã hội, và mỗi xã
hội hình thành những ý nghĩa này một cách khác nhau. Mặc dù các sự kiện sinh học
cơ bản của đời người có thay đổi chút ít theo thời gian nhưng không có gì cố định
trong cách mà xã hội ứng phó với những khác biệt về sinh học này. Theo James và
Prout (1990) :
Sự non nớt của trẻ em là một sự kiện sinh học của đời người nhưng những
cách hiể
u biết sự non nớt này và làm cho nó quan trọng lại là một sự kiện văn
hóa.
Sự giải thích của Disneyland Western của người da trắng về tuổi thơ an toàn
khác với thực trạng của từng quốc gia . Mọi xã hội đều có những tư tưởng và luật lệ
khác nhau về thời gian của tuổi thơ. Các xã hội tạo điều kiện cho trẻ em tham gia vào
việc lấy các quyết định v
ề chúng đều khác nhau. Có một số xã hội không bao giờ
bằng lòng cho trẻ tham gia. Vì thế sự hiểu biết về sự hình thành tuổi thơ cũng khác
nhau, tạo ra những mong đợi và diễn dịch khác nhau về hành vi của trẻ em. Trong
quá khứ, các nhà sử học về tuổi thơ đã tranh luận mạnh mẽ về ý nghĩa của tuổi thơ.
Nhà sử học pháp Philippe Aries khởi xướng cuộc tranh luận trong những năm 1960
b
ằng cách tuyên bố rằng tình trạng tách biệt của tuổi thơ không thực sự tồn tại trước
thế kỷ 17, mà trẻ em được đối xử như người lớn thu nhỏ. Trên thực tế, có thể có
nhiều dạng tuổi thơ, với những khác biệt ở ý nghĩa thế nào là trẻ em giữa các tầng
lớp và khu vực. Các thái độ mâu thuẫn đối với trẻ em vẫn còn phổ biến, trẻ em lần
lượt được xem như những thiên thần nhỏ ngây thơ và những quỷ nhỏ từ bản chất có
thể làm những điều tệ hại nhất cho đến khi được người lớn xã hội hóa đầy đủ.
Việc thay đổi ý nghĩa của tuổi thơ, đôi khi mâu thuẫn, rõ ràng trong tài liệu xã
hội học và lịch sử được phản ảnh trong sự phát triển chính sách chăm sóc trẻ
em, vừa
phản ảnh vừa đưa ra những giải thích khác nhau về tuổi thơ. Sự hiểu biết về quyền
trẻ em có liên quan chặt chẽ tới các khuynh hướng tri thức và chính trị rộng lớn hơn.
Thí dụ như một trong những chủ đề quan trọng nhất của thời đại là tăng quyền lực,
13
và điều này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự diễn dịch đương đại về quyền trẻ em như
quyền tham gia.
Trong phần sau đây nhân viên xã hội sẽ xem xét hai yếu tố này - bối cảnh
chính trị xã hội và những tư tưởng khác nhau về trẻ em và tuổi thơ - đã tạo ra những
hiểu biết khác nhau về quyền trẻ em trong luật pháp và thực tế.
1.2. Quan đ
iểm ban đầu: Trẻ lao động tự do và cứu trợ trẻ em
Ở thế kỷ 19, một khái niệm phổ biến và giống nhau hơn về tuổi thơ đã hình
thành. Lúc đó, số trẻ em đã đóng góp vào lợi tức gia đình thông qua việc trả lương và
không trả lương. Trái lại, tuổi thơ “lý tưởng” đã hình thành từ từ trên nền tảng trên
“lý tưởng trong khuôn khổ” của gia đình trung lư
u đầu thế kỷ thứ 19 (Hendrick
1990). Lý tưởng này là thời tuổi thơ mà trẻ em được xem như khác với người lớn về
tính chất và bản chất vì nếu không trẻ em có thể dễ dàng trở nên hung bạo, và nguy
hiểm nếu như chúng được phép trở thành như người lớn và bước vào thế giới của
người lớn. Khi thế kỷ thứ 19 đã phát triển, một loạt các biện pháp bảo vệ tr
ẻ em
được đưa ra để trả lại cho trẻ em sự phụ thuộc và đưa chúng ra khỏi thế giới công
việc của người lớn sang thế giới trường học và gia đình của đứa trẻ.
Luật pháp kiểm soát lao động trẻ em và việc giới thiệu giáo dục phổ cập ở thế
kỷ thứ 19 đã nhận ra nhu cầu cần được bảo vệ của trẻ và hi
ểu rằng trẻ em có quyền
đó. Học tập làm cho mối liên kết giữa tuổi thơ và lao động yếu đi. Vì trường học dần
dần chiếm chỗ của lao động và học tập chính quy trở thành bắt buộc (khoảng 1900
khắp Châu Âu), thái độ về vị trí và vai trò của trẻ em cũng thay đổi. Tuổi thơ có thể
kéo dài lâu hơn và trẻ em có thể trở nên phụ thuộc hơn. Lần đầ
u tiên đối với các bậc
cha mẹ là có thể không xem trẻ là người đóng góp cho gia đình và tài sản kinh tế.
Lúc bấy giờ hàng hóa được mong đợi là sẽ từ cha mẹ đến con cái thay vì từ con cái
đến cha mẹ.
14
Khi các tổ chức công tác xã hội / an sinh nhi đồng đang phát triển thì mối
quan tâm nổi bật là “cứu vớt” trẻ em để trẻ em có thể hưởng được tuổi thơ. Tất cả
các hội thiện nguyện, như TS. Barnardos đã dành hết thời gian cho việc cứu trẻ em
ra khỏi môi trường xấu, ảnh hưởng xấu của người lớn và cha mẹ không tốt và cung
ứng cho chúng một sự khởi đầu thuận lợ
i nơi mà chúng đáng được gọi là trẻ em
(Cleaver và Fretrean 1995 ; Colton và các đồng tác giả 1995). Mục đích của việc cứu
giúp trẻ em là tái xã hội hóa trẻ em trong tầng lớp lao động ra khỏi tình trạng suy đồi
về mặt đạo đức.
Mặc dù thế kỷ 19 đã chứng kiến một sự chuyển biến quan trọng trong tư
tưởng về trẻ em và tuổi thơ nhưng mức độ thúc đẩy chuyển biến còn hạn chế. Về
chính sách chăm sóc trẻ, thế kỷ thứ 19 được mô tả là tốt nhất bằng cái mà Lorraine
Fox Harding (1991) gọi là “quan điểm gia trưởng và tự do”, dựa vào sự bảo đảm tính
riêng tư của gia đình và sự can thiệp tối thiểu của nhà nước vào gia đình. Từ quan
điểm này đã có một chỗ nhỏ cho chính sách an sinh : tất cả trách nhiệm trao cho gia
đình. Cleaver và Fretrean (1995) tranh luận rằng sự can thiệp phầ
n lớn thu hẹp trong
những tình huống bên ngoài gia đình. Vai trò của nhà nước trong chăm sóc trẻ bị chi
phối bởi Luật người nghèo đã minh họa cho giá trị tự do của sự can thiệp tối thiểu,
điều này nhằm giảm chi phí và cũng nhằm gìn giữ sự thiêng liêng của đời sống gia
đình. Khi sự can thiệp xảy ra là nó nhằm cứu giúp trẻ em khỏi sự khốn đốn và nghèo
khó tuyệt đối (Cleaver và Fretrean 1995). Mãi cho đến năm 1889, Hội quốc gia
phòng ngừa bạo lực đối với trẻ em được thành lập thì gia đình và những điều vụn vặt
riêng tư thuộc về mối quan hệ gia đình có thể là mục tiêu của sự xem xét phần nào.
Trong gia đình, các quyết định của nội bộ gia đình về nuôi nấng trẻ v.v là trách
nhiệm của những thành viên có quyền lực nhất trong gia đình, đó là cha mẹ, nhất là
ngườ
i cha. Thật ra, mãi cho tới 1886 lần đầu tiên luật pháp Anh đặt sự an sinh của
đứa trẻ lên hàng đầu, trước sự thực hiện và mong ước của cha mẹ (Hoggest 1993).
Cho đến cuối thế kỷ 19, đời sống đối với đa số trẻ em rất khác với trẻ em
trước đó. Sự phát triển chính trị và khoa học, y khoa đã đảm bảo cuộc sống đối với
phần lớn trẻ em chứ không chỉ đấu tranh cho sự sống còn. Năm 1901 số trẻ em chết
15
là 161 trên 1000 đứa trẻ sinh ra và giữa 1928 và 1931 thì hạ xuống còn 66 trên 1000
trẻ sinh ra (Hardymart 1983).
2. CHẾ ĐỘ GIA TRƯỞNG CỦA NHÀ NƯỚC VÀ BẢO VỆ TRẺ EM CỦA
PHƯƠNG TÂY
Khoảng cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 ở phương Tây đã có một thay đổi lớn,
dù không hoàn toàn, từ các cách tiếp cận tự do đến an sinh nhi đồng với một khái
niệm mới về tuổi thơ kèm theo. Về chính sách chăm sóc trẻ, Fox Harding (1991) gọi
là “chế độ gia trưởng của quốc gia và bảo vệ trẻ em” đã đặt cơ sở trên sự can thiệp
rộng lớn của nhà nước vào gia đình nhằm bảo vệ trẻ em khỏi sự thiếu chăm sóc của
cha mẹ (như các nhà chuyên nghiệp đã giải thích). Xây dựng trên sự phát triển của
thế kỷ 19, tuổi thơ được xem như một giai đoạn riêng biệt và dễ bị
tổn thương trong
đời sống, cần đến sự bảo vệ và quyết định của người lớn. Một quan điểm chung về
trẻ em là trẻ có khả năng hạn chế về tự quyết và lấy quyết định. Sự khác biệt chủ yếu
trong thế kỷ 20 là sự tham gia của các nhân viên xã hội và những nhà chuyên môn
khác, ngày càng ở bên cạnh các bậc cha mẹ như những người quyết đị
nh và bảo vệ
của trẻ em, vì nhà nước và các chuyên gia chăm sóc trẻ em ngày càng đòi quyền
chỉnh đốn gia đình. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học xã hội và y khoa đã
cung ứng kiến thức an sinh nhi đồng để làm nền tảng cho công tác này. Các nhà xã
hội học, nhất là những người từ ngành tâm lý trẻ em đang nổi lên, càng ngày càng tỏ
ra quan trọng trong việc giải thích những hạn chế của đời sống gia đình “bình
thường” và tuổi th
ơ “bình thường”. Bất chấp nhiều sự bất đồng ý kiến, tác phẩm của
Burt, Isaacs, Klein, Winnicott và Bowlby rất có ý nghĩa vì lần đầu tiên làm nổi bật sự
quan trọng của đời sống tâm lý của đứa trẻ và vai trò của gia đình và cha mẹ
(Hendrick 1990).
Đạo luật trẻ em 1948 đã quy định bổn phận của chính quyền địa phương trong
việc thúc đẩy những lợi ích tốt nhất cho trẻ em và cung ứng những “cơ hội để phát
triển nhân cách và khả năng của trẻ”. Công tác của Sở trẻ em đã được thành lập,
chuyển đổi từ dịch vụ cứu vớt, chửa trị của thế kỷ 19 sang sự cổ vũ gần như vô hạn
16
về việc thúc đẩy sự an sinh của trẻ em bằng cách làm việc với gia đình như một tổng
thể (Colton và các đồng tác giả 1995 : 7). Khái niệm “phòng ngừa“ đã được hình
thành trong thập niên 1950 đã được đẩy mạnh qua công tác xã hội cá nhân, đã chứng
tỏ rằng hầu hết các Sở Trẻ em đang cố gắng ngăn cản việc nhận trẻ em vào nhà chăm
sóc đặc biệt (Packman 1993). Đạo luật Thiế
u niên và trẻ em 1963 giao cho chính
quyền địa phương bổn phận giúp đỡ gia đình của những trẻ em không ở trong nhà
chăm sóc đặc biệt của chính quyền địa phương.
2.1. Sự tham gia và phương thức tham gia
Thập niên 1970 có lẽ là thời kỳ cao độ chế độ gia trưởng của nhà nước trong
an sinh nhi đồng. Từ lúc đó, công tác xã hội an sinh nói chung đã phải tự định nghĩa
lại nhằm đáp ứng những thách thức và phê phán từ bên trong lẫn bên ngoài. Sự phát
triển lũy tiến trong chi phí cộng đồng bị cắt giảm bất ngờ do khủng hoảng kinh tế
giữa thập niên 1970. Từ đó trở đi an sinh nhi đồng được cơ cấu trong bối cảnh thiếu
thốn về mặt kinh tế Quyền lực của chế độ an sinh và chủ nghĩa tập thể đã được
thiết lập sau thế chiế
n thứ 2 đã bị đẩy lùi bởi đợt thủy triều của chủ nghĩa tự do và cá
nhân mới tràn tới. Càng ngày sự can thiệp giúp đỡ càng quan liêu và áp đặt. Quyền
được tranh luận ngày càng nhiều để ủng hộ cho tự do cá nhân và gia đình.
Công tác xã hội với trẻ em trên 20 năm qua được nổi bật nhờ tăng cường tập
trung vào chi tiết thủ tục chặt chẽ, tìm hiểu chấn thương hay ngược đãi là ch
ủ đề
chính. Từ những cái chết của trẻ do bạo hành trong gia đình đã đưa đến những cuộc
tranh luận khởi đầu cho sự phê phán về công tác xã hội “hỗ trợ”. Ngược đãi trẻ em
được “nhận diện, tiên đoán và ngăn ngừa” (Parton 1991 : 58) theo phương cách khoa
học hơn. Đồng thời, phương hướng của phần lớn công tác với trẻ em được chuyển từ
công tác phòng ngừa trẻ em tạ
i gia đình sang việc đảm bảo an toàn cho “cha mẹ về
mặt tâm lý”.
Cuộc điều tra Cleveland khi đánh giá sự can thiệp của nhà chuyên môn trong
trường hợp nghi ngờ có sự lạm dụng tình dục trẻ em không giống như cuộc điều tra
17
về cái chết của trẻ, qua đó người ta cho rằng hoạt động của nhà chuyên môn quá
nhiệt tình và kết quả là sự than phiền của cha mẹ. Trẻ em cần được bảo vệ khi có sự
can thiệp sai lầm. Sự bảo vệ trẻ em phải được tiến hành theo cách thức không vi
phạm quyền của cha mẹ và nếu không thì những đau buồn không cần thiết sẽ đến với
chính đứa trẻ
mà nhân viên xã hội muốn giúp đỡ. (Minister of State Tong Newton,
Parton 1991 : 114).
Báo cáo Cleverland về sau đưa đến sự thay đổi quan trọng trong công tác đối
tác với cha mẹ. Cư xử với trẻ em “như một con người” thay vì như là một “đối tượng
của sự quan tâm”, sự hiểu biết chủ quan của đứa trẻ về thế giới của riêng trẻ trước
tiên phải được thăm dò và được hiểu rõ. An sinh của trẻ em không thể ch
ỉ được thúc
đẩy bằng sự ứng dụng tiến trình khoa học và sự đánh giá.
Trái ngược với bối cảnh mà nhân viên xã hội hiểu biết về sự xuất hiện của hai
quan điểm chăm sóc trẻ em khác được nhận ra bởi Fox Harding, cả hai đều nhấn
mạnh sự tham gia. Giống như quan điểm tự do bỏ mặc, “quan điểm quyền cha mẹ”
coi trọng s
ự toàn vẹn của ranh giới gia đình và chống lại sự can thiệp bên ngoài vào
các vấn đề của gia đình. Không giống quan điểm tự do, quan điểm này nhấn mạnh ở
vai trò giúp đỡ tiềm ẩn của nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ hỗ trợ cho cha
mẹ thực hiện vai trò của họ. Trọng tâm đặt vào đơn vị gia đình như một tổng thể hơn
là phầ
n chia nó ra nhiều thành viên hình thành gia đình. Sự đòi lại quyền quyết định
cho cha mẹ từ các nhân viên chuyên nghiệp được coi trọng hơn sự tôn trọng tính độc
lập của đứa trẻ.
Quan điểm thứ 4 là một quan điểm hiểu biết nhiều về cuộc tranh cãi đương
thời về quyền trẻ em được Fox Harding gọi là “quyền của trẻ em và sự giải phóng
của trẻ em”. Tr
ọng tâm chuyển đổi từ nhu cầu của trẻ em cần được sự bảo vệ của cha
mẹ sang quyền trẻ em tham gia và độc lập. Quan điểm này nói lên một khái niệm
tuổi thơ trái ngược. Trẻ em được xem như là nhóm bị áp bức, bị phân biệt đối xử
(một cách sai lầm) trên cơ sở tuổi tác. Thay vào đó, các tác giả trong quan điểm này
nhấn mạnh đến sự hợp lý, khả năng và sức mạnh của trẻ em và giảm thiểu sự khác
18
biệt giữa trẻ em và người lớn hoặc sự lệ thuộc và sự dễ bị tổn thương của trẻ em. Ở
đây trẻ em trở thành tác nhân độc lập, với những lợi ích riêng biệt trong gia đình. Trẻ
em không thể và không cần dựa vào cha mẹ hay nhân viên chuyên nghiệp để hành
động vì lợi ích tốt nhất của chúng mà phải nói và hành động vì chính trẻ.
Ở cấp độ chính sách và thực hiện, quan điểm quyền trẻ em càng ngày rõ ràng
trong thập niên 1980. Một loạt các phát triển dẫn đến trẻ em được có quyền như là
con người đúng nghĩa. Hệ thống “người giám hộ” đã cung ứng một nhân viên làm
việc độc lập nhân danh trẻ em làm việc ở tòa án. Do vậy trẻ em được công nhận như
những con người độc lập với những quyền lợi của mình cần đến sự đại diện và tư
vấn. Những kỹ thuật trị liệu bằng vui chơi và xây dựng mối quan hệ được phổ biến
qua các tài liệu như bộ tài liệu giảng dạy BAAF “Tiếp xúc với trẻ em” (1984) và qua
các tác giả như Fahlberg (1988) và Oaklander (1978). Mục đích của những tài liệu
này là khuyến khích nhân viên đóng vai trò tích cực nhiều hơn nữa trong việc giúp
đỡ trẻ em bày tỏ những cảm xúc bên trong của chúng (Aldgate và Simmonds 1988 :
14). Trong khi Những quyết định của Công tác xã hộ
i trong chăm sóc trẻ em
không có chỗ đặc biệt cho quan điểm của trẻ em vào năm 1985 thì 3 năm sau đó một
hướng dẫn Đánh giá bảo vệ trẻ em tiếp theo của sở y tế Bảo vệ trẻ em : sách hướng
dẫn cho nhân viên xã hội thực hiện sự đánh giá toàn diện (1988) có nhiều tuyên
bố rõ ràng hơn về nhu cầu tư vấn trẻ em và về quyền của chúng :
Trẻ
em và thanh thiếu niên đến với nghề nghiệp giúp đỡ vì họ và gia đình họ
trải qua những khó khăn, họ có quyền nhận sự can thiệp và giúp đỡ nhạy bén.
Họ có quyền được tư vấn và quan điểm của họ phải được quan tâm, cũng như
tuổi tác, sự hiểu biết của họ về những vấn đề và những quyết định có ảnh
hưởng đến
đời sống của họ. (Sở y tế : 1988 : 9).
Tuy nhiên trong thực hiện, đa số nhân viên xã hội đã dành ít thời gian với trẻ
em. Trong khi một số nhân viên xã hội thời trước Đạo luật trẻ em 1989 đã thực hành
những kỹ năng công tác xã hội cá nhân với trẻ em thì hầu hết các nhân viên xã hội
hiếm khi nhìn trẻ em như chúng nó là. Quyết định của công tác xã hội trong chăm
19
sóc trẻ (HMSO 1985) đã bình luận rằng nhân viên xã hội dường như thiếu thời gian
và kỹ năng để làm việc trực tiếp với trẻ em và công việc này được dành cho những
người khác :
Hầu như không có chứng cớ rõ ràng để thấy rằng nhân viên xã hội tham gia
nhiều trong tiếp xúc trực tiếp với trẻ em Những người chăm sóc ban đầu
của trẻ em, cha mẹ nuôi hộ và nhân viên ở các trung tâm nuôi dưỡng được
xem là có nhiề
u cơ hội hơn. Trường hợp nào cần đến những kỹ năng này thì
nhân viên xã hội thường chuyển đến cho một nhà chuyên môn có hiểu biết về
phát triển trẻ em, sức khỏe hay giáo dục (văn phòng Trẻ em quốc gia, trong
HMSO 1985 : 14).
Do vậy, cho tới thập niên 1980 một loạt vấn đề và mối quan tâm đã ảnh
hưởng đến chính sách chăm sóc trẻ em và công tác xã hội với trẻ em. Một loạt những
tư tưởng đã hình thành về cách thức làm thế nào để có cách bảo vệ trẻ em tốt nhất
cùng lúc với những nguồn lực chịu sức ép nghiêm trọng và nhân viên xã hội chịu sự
giám sát kỹ càng của quần chúng. Tiến đến cuối thế kỷ, sáng kiến về quyền của cha
mẹ và quyền của trẻ em xuất hiện không mấy dễ dàng cùng với sự nhấn mạnh về thủ
tục hóa trong công tác xã h
ội.
2.2. Về quyền trẻ em
Trong khoảng thời gian của thập niên 1970 và 1980, đã có một sự phát triển đầy ý
nghĩa về quyền trẻ em. Ở cấp độ lý thuyết, các tác giả bắt đầu xem xét khái niệm
quyền của trẻ em : ở cấp độ chính quyền hai sự triển khai quyền trẻ em có nhiều ý
nghĩa vào cuối thập niên 1980 là Công Ước Quốc Tế và Quyền Trẻ em và Đạo Luật
Trẻ em 1989.
Thảo luận về quyền trẻ em có vẻ bị mắc trong vòng lẩn quẩn : giữa trẻ em có
khả năng, không có khả năng, giữa sự giải phóng và chế độ gia trưởng, giữa sự độc
lập và an sinh, giữa người giải phóng và người chăm sóc. Đối với “những người giải
20
phóng”, sự khác biệt giữa người lớn và trẻ em ít được nói ra, kết quả dẫn đến là trẻ
em cần phải được đối xử tương tự như người lớn. Tự quyết định là tất cả. Đối với
“người chăm sóc” trẻ em được xem là khác với người lớn về tính chất. Trẻ có ít khả
năng và dễ bị tổn thương hơn người lớn và do vậ
y đòi hỏi sự bảo vệ đặc biệt và các
quyết định được những người lớn chăm sóc trẻ đưa ra. (Archad 1933 : 55).
Trẻ em nhiều khi được định nghĩa và đối xử như thể chúng là người lớn thu
nhỏ chứ không có những đặc điểm trẻ em. Sự phức tạp và nhạy cảm về phát
triển tình cảm, thể chất và trí tuệ trở nên đơn giả
n hóa trong nhận thức và
việc hướng dẫn lấy quyết định theo kiểu thông thường (King và Piper 1995 :
144).
Các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực tuổi thơ ngày càng nhận thức sự phức tạp
về đời sống của trẻ em và mức độ trẻ em nhìn cũng như được nhìn về thế giới xã hội
của chúng (xem thí dụ James và Prout 1996). Trẻ em khác nhau về tuổi tác, giới,
chủng tộc và khuyết tật. Khả nă
ng của trẻ em để định hình thế giới của chúng cũng
khác nhau tùy thuộc vào tình huống mà đứa trẻ sống. Cơ sở của trẻ em khác nhau về
thế giới vui chơi theo kiểu trẻ bị áp đặt và có cái nhìn theo đời sống trong lớp học
hay trong gia đình (James và Prout 1996). Tuy nhiên, ngay cả trong gia đình cuộc
nghiên cứu kỹ lưỡng cho thấy những mong đợi khác nhau của cha mẹ về trẻ em cùng
lứa tuổi tạo ra nhiều mức độ độc lập rất khác nhau ở trẻ em (Solberg 1990).
2.3. Các thuyết về quyền hội nhập
Hai thuyết nổi tiếng về quyền trẻ em thuộc về Michael Fretrean (1983) và
John Eekelaar (1986). Dù có những điểm trùng lắp đáng kể giữa hai thuyết nhưng có
thể nêu ra những nét đại cương của cả hai lý thuyết này vì chúng đặc biệt có ích cho
việc hình thành những khái niệm cơ bản về quyền.
a. Lý thuyế
t về chủ nghĩa kiểm soát người dân theo kiểu gia trưởng tự do
của Michael Fretrean
21
Fretrean ủng hộ tầm quan trọng của việc nghĩ đến trẻ em như những người có
quyền sở hữu quyền của mình hơn là vì yêu thương hay từ thiện. Lý thuyết về quyền
của ông được xây dựng trên việc đảm bảo rằng trẻ em cần phải tham gia trong việc
lấy quyết định càng nhiều càng tốt, kết hợp với chủ nghĩa quyền gia trưởng tự
do,
dựa trên cơ sở.
Với tư cách là trẻ em, loại hành động hay hành vi nào nhân viên xã hội mong
muốn được bảo vệ dựa trên giả định rằng nhân viên xã hội muốn thành người
lớn độc lập một cách hợp lý và có khả năng quyết định về những hệ thống kết
quả như một con người có lý trí và tự do. Nhân viên xã hội sẽ chọn những
nguyên tắc khuyến khích trẻ em tr
ở thành người lớn độc lập. (Fretrean 1983 :
57).
Trên cơ sở này, Fretrean đưa ra 4 loại quyền :
• Quyền an sinh. Đây là loại quyền rõ ràng nhất và chỉ ra một loạt những đòi hỏi
“tuổi thơ hạnh phúc” như đã được định ra trong Bản tuyên bố Liên hiệp quốc về
Quyền trẻ em (nay được thay bằng Công ước quốc tế). Những đòi hỏi này bao
gồm quyề
n được học hành, dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe, và không phân
biệt đối xử.
• Quyền được bảo vệ. Trái với quyền an sinh, loại thứ hai này liên quan tới việc
bảo vệ trẻ em khỏi sự nguy hại, chẳng hạn như ngược đãi, thiếu chăm sóc và bóc
lột, lạm dụng. Quyền được bảo vệ là quyền cho trẻ em được hưởng tiêu chuẩn
chăm sóc tối thi
ểu. Quyền này dựa trên giả định rằng trẻ em là nhóm dễ bị tổn
thương cần sự bảo vệ của cha mẹ hoặc của nhà nước nếu cha mẹ không làm
được.
• Quyền được đối xử như người lớn. Fretrean thuyết phục rằng sự đối xử khác
nhau giữa trẻ em và người lớn dựa trên sự khác biệt tuyệt đối về tuổi tác là phân
22
biệt đối xử. Ông cho rằng trẻ em cần được đối xử như người lớn dựa trên nền
tảng công bằng xã hội. Ông không theo lập trường chủ nghĩa giải phóng của các
tác giả thập niên 1970, những người đã hủy bỏ tất cả sự phân biệt giữa trẻ em và
người lớn. Thay vào đó ông cho rằng sự khác biệt về tuổi tác cần phải được xem
xét liên tục, nhữ
ng quyết định về khả năng của từng cá nhân trẻ phải được thực
hiện từng trường hợp một. Như nhân viên xã hội sẽ thấy, đây là cách tiếp cận
tương tự với sự hình thành khả năng theo Gillick đã được phát triển trên thập kỷ
qua.
• Quyền chống lại cha mẹ. Loại quyền thứ tư này đặt cha mẹ vào vai trò của người
đại diện cho trẻ em. Fretrean cho rằng trong những quyết định chính yếu thì
quyết định của cha mẹ cần có quyền lực và ảnh hưởng nhưng chỉ khi nó phù hợp
với sự lượng giá “khách quan” xem những quyết định đó có ngang hàng với “sản
phẩm xã hội ban đầu” của trẻ em hay không, đó là những gì mà bất cứ một người
nào có lý trí cũng muốn theo đuổi. Nếu không thì một cơ quan bên ngoài phải
thay thế vai trò đại diện của cha mẹ.
b. Lý thuyết về quyền trẻ em của John Eekelaar
Cũng như Fretrean, John Eekelaar (1986) hình thành một khuôn mẫu về quyền dựa
trên việc suy đoán “nhìn lại cái gì đứa trẻ đã từng muốn khi nó đạt tới vị trí trưởng
thành” (1981 : 170). Eekelaar nhận diện 3 loại quyền lợi làm nền tảng cho quyền :
• Quyền lợi cơ bản nói đến tiêu chuẩn chăm sóc tối thi
ểu (thể chất, tình cảm, trí
tuệ). Cha mẹ / người chăm sóc được yêu cầu phòng ngừa để tránh những nguy
hại đến sự phát triển của trẻ em. Nơi nào cha mẹ không hoàn thành được trách
nhiệm của mình, thí dụ trong những trường hợp ngược đãi hay bỏ bê, thì nhà
nước có thể can thiệp.
23
• Quyền lợi phát triển đòi hỏi cha mẹ và nhà nước đảm bảo rằng tất cả mọi trẻ em
đều có cơ hội như nhau để tiếp cận tối đa với những nguồn lực sẵn có trong thời
tuổi thơ.
• Quyền độc lập nói đến “sự tự do lựa chọn cách sống và quan hệ xã hội theo
khuynh hướng không bị kiểm soát bởi uy quy
ền của thế giới người lớn, dù đó là
cha mẹ hay cơ sở chăm sóc”. Eekelaar cho rằng quyền độc lập dù quan trọng
cũng phải đi sau quyền phát triển và cơ bản dựa trên cơ sở là trẻ em, khi chúng là
người lớn, sẽ ủng hộ quyền căn bản và phát triển trước quyền độc lập nếu có sự
xung đột, mâu thuẫn giữa các quyền.
Khuôn mẫu quyền tr
ẻ em được hình thành do Fretrean và Eekelaar thật thú vị
bởi vì họ nhấn mạnh đến loại quyền mà trẻ em được hưởng. Trẻ em có quyền độc lập
và tham gia cũng như phát triển và bảo vệ. Cả hai đều nhận ra quyền độc lập và
những quyền khác có thể đụng nhau và họ cho rằng trong những trường hợp như thế
sự quyết định của người lớn về điề
u tốt nhất cho trẻ sẽ có giá trị hơn ước muốn của
trẻ. Như nhân viên xã hội sẽ thấy Công ước của Liên hiệp quốc và Đạo luật trẻ em
1989 sẽ lại cho trẻ em “quyền an sinh” và quyền tham gia, sau cùng thì quyền an
sinh là quyền có quyền lực và ảnh hưởng nhất.
c. Công ước của Liên Hiệp Quốc
Sau 10 năm bàn thảo và cân nhắc, Công ước được Đại Hội Đồng Liên hiệp
Qu
ốc chấp thuận vào ngày 20 tháng 10 năm 1989. Cho đến nay, Công ước đã được
phê chuẩn bởi hơn 150 quốc gia trên khắp thế giới ; đó là một Công ước quốc tế
được phê chuẩn nhanh nhất và rộng rãi nhất. Công ước gồm 41 điều khoản về các
vấn đề ảnh hưởng đến trẻ em. Những quyền này được chia thành 4 nhóm : quyền
được chăm sóc hay bảo vệ, tham gia, chống phân biệt đối xử và quyề
n được phát
triển tốt nhất. (Hammarberg 1995).
d. Quyền an sinh/được bảo vệ
24
Điều khoản 3 của Công ước của Liên Hiệp quốc quy định quyền an sinh và
được bảo vệ của trẻ em. Điều khoản có hai thành phần chủ yếu. Thành phần thứ nhất
nhấn mạnh rằng nhà nước và các định chế tư nhân phải có sự quan tâm trước tiên vì
lợi ích tốt nhất của trẻ em trong công tác của họ. Thành phần thứ hai là nhà nước
đảm bảo rằng trẻ em được bảo vệ và chăm sóc đầy đủ, quy định có liên quan tới
quyền và bổn phận của người chăm sóc trẻ. Điều khoản 19 đòi hỏi nhà nước phải có
biện pháp về pháp luật, quản trị, giáo dục và xã hội thích hợp để bảo vệ trẻ em chống
lại sự bóc lột lạm dụng, ngược đãi, bỏ bê của cha mẹ hay người chăm sóc. Nó cũng
đòi hỏi nhà nước phải có các thủ tục hữu hiệu để ngăn ngừa, nhận diện, điều tra và
trị liệu những trường hợp nêu trên.
e. Quyền được phát triển tốt nhất
Công ước của Liên Hiệp Quốc còn đi xa hơn những nỗ lực bảo vệ trẻ em,
điều khoảng 6.2 đòi hỏi nhà nước thúc đẩy sự phát triển tốt nhất của trẻ
em :
Các quốc gia thành viên phải đảm bảo đến mức tối đa có thể được sự sống
còn và phát triển của trẻ em.
Công ước nhận ra rằng trẻ em được chăm sóc tốt nhất trong gia đình của
chúng (Điều khoản 5 và 18) nhưng đòi hỏi nhà nước phải cung cấp “sự hỗ trợ thích
hợp” cho người chăm sóc và phát triển các dịch vụ chăm sóc trẻ em (Điều khoả
n
18.2). Sự bất bình đẳng to lớn trong an sinh vẫn còn tiếp tục giữa các nước nghèo và
nước giàu cho nên không phải nước nào cũng sẽ có thể cung ứng được các chính
sách xã hội hỗ trợ cho trẻ em ; những gì điều khoản 4 đòi hỏi là các chính phủ chịu
trách nhiệm có những biện pháp để thúc đẩy quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của trẻ
em ở “mức tối đa của các tài nguyên sẵn có của họ”.
f. Quyền tham gia.
25
Công ước Liên Hiệp Quốc thúc đẩy mạnh mẽ quyền trẻ em tham gia vào việc
lấy quyết định, dù rằng mức độ bày tỏ quan điểm của trẻ sẽ thay đổi tùy theo độ tuổi
và sự trưởng thành của trẻ. Điều khoản 12 nói rằng :
Các quốc gia thành viên phải đảm bảo cho trẻ em có đủ khả năng hình thành
quan điểm riêng của mình, được quyền bày tỏ những quan đ
iểm đó về tất cả
mọi vấn đề có tác động đến trẻ em, những quan điểm của trẻ em phải được
coi trọng một cách thích đáng phù hợp với độ tuổi và độ trưởng thành của trẻ
em.
Công ước Liên Hiệp Quốc đưa ra một loạt quyền riêng tư khác, các quyền
củng cố vị thế của đứa trẻ như một chủ thể độc lập hơn là khách thể thụ động, và là
một thành tố cần thiết của quyền trẻ em. Các quyền này gồm quyền có bản sắc (tên
và quốc tịch lúc sinh ra ; Điều khoản 7 và 8), quyền tự do bày tỏ ý kiến và thông tin
(Điều khoản 13), quyền tự do tư tưởng và hội họp (Điều khoản 14 và 15), quyền
riêng tư (Điều khoản 16) và quyền về văn hóa (
Điều khoản 30).
g. Quyền không phân biệt đối xử
Công ước Liên Hiệp Quốc đưa ra 2 quy định quan trọng về sự phân biệt đối
xử. Đầu tiên đòi hỏi những quyền được tuyên bố trong Công ước Liên Hiệp Quốc áp
dụng cho tất cả mọi trẻ em không phân biệt (Điều khoản 2). Để tăng cường sự thực
hiện này Công ước Liên Hiệp Quốc đư
a ra những quy định cụ thể về những nhóm trẻ
em đặc biệt chịu thiệt thòi :
Các quốc gia thành viên thừa nhận rằng trẻ em khuyết tật về tinh thần hay thể
chất cần được hưởng một cuộc sống trọn vẹn và tử tế trong những điều kiện
đảm bảo nhân phẩm, thúc đẩy khả năng tự lực, và tạo điều kiện d
ễ dàng cho
trẻ tham gia tích cực vào cộng đồng. (Điều khoản 23.1).
và