Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Đánh giá tác động của các nhân tố đến thu ngân sách nhà nước trong thời gian qua xu hương thay đổi cơ cấu thu ngân sách khi việt nam ra nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.26 KB, 11 trang )

• Đề tài:Đánh giá tác động của các nhân tố đến thu ngân
sách nhà nước Việt Nam trong thời gian qua.Xu hướng
thay đổi cơ cấu thu ngân sách nhà nước Việt Nam trong
tương lai khi Việt Nam trở thành viên chính thức của
WTO
Lý thuyết :
I. Khái niệm , vai trò , cơ cấu thu ngân sách Nhà nước
1. Khái niệm:
Thu ngân sách nhà nước là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các chủ
thể trong xã hội phát sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung quan
trọng nhất của Nhà nước-quỹ ngân sách- nhằm đẳm bảo thực hiện các chức năng của
Nhà nước về mọi mặt.
2. Vai trò của ngân sách Nhà nước:
- Ngân sách nhà nước là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo cho các nhu
cầu chi tiêu của nhà nước
- Ngân sách nhà nước là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế :
Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích
thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền
Ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng trong việc điều tiết thị trường bình ổn giá
cả, chống lạm phát.
3. Cơ cấu thu ngân sách nhà nước.
- Thu trong cân đối ngân sách:
Là các khoản thu nằm trong hoạch định của Nhà nước nhằm cân đối ngân sách.
VD : Thuế, lệ phí, lợi tức của Nhà nước …
- Thu ngoài cân đối ngân sách:
Trong tình trạng Nhà nước bị bội chi thì Nhà nước phải cá giải pháp bù đắp lại
phần thâm hụt đó vì không thể để tình trạng mất cân đối kéo
VD: Vay trong nước( thông qua phát hành công trái quốc gia, trái phiếu Chính
phủ… để huy động tiền nhàn rỗi trong tầng lớp dân cư
Vay ngoài nước (thông qua vay nợ hoặc viện trợ của các chính phủ, các tổ chức tài
chính quốc tế ).


II. Phân loại
a) Căn cứ vào nội dung kinh tế của các nguồn thu
* Thu thuế
- Thu thuế là sự đóng góp theo nghĩa vụ đối với Nhà nước được quy định bởi pháp
luật do các pháp nhân và thể nhân thực hiện .
- Thuế mang tính chất bắt buộc và không hoàn trả trực tiếp. Thuế được nhà nước áp
đặt bằng quyền lực chính trị được thể chế hóa bằng luật pháp cho nên mọi tổ chức và
cá nhân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành nếu không thực hiện sẽ phải bị xử lý theo
luật pháp.
- Thuế được thiết lập dựa trên nguyên tắc luật định. Nguyên tắc này bắt buộc mọi sự
thiết lập các sắc thuế hay sửa đổi các điều khoản thuế phải do đạo luật quy định
- Thuế làm chuyển đổi quyền sở hữu từ tập thể và cá thể thành sở hữu toàn dân. Việc
chuyển quyền sở hữu này được quy định bởi chức năng quản lý toàn bộ nền kinh tế
quốc dân của nhà nước và biểu hiện sự thống nhất lợi ích giữa nhà nước với các thành
phần kinh tế, các cá nhân trong xã hội .
- Trong nền kinh tế thị trường thuế được coi là công cụ quan trong để điều tiết kinh
tế vĩ mô.
* Các yếu tố cấu thành của thuế
- Tên gọi: Mỗi sắc thuế đều có tên gọi riêng nói lên đối tương tính thuế hoặc nội
dung chủ yếu của sắc thuế.
- Đối tượng nộp thuế : Là người có trách nhiệm phải thanh toán tiền thuế với ngân
sách nhà nước . Người nộp thuế là các tổ chức hoặc cá nhân đăng kí hoạt đông sản
xuất kinh doanh và các hoạt động khác được luật pháp nhà nước công nhận và quy
định nghĩa vụ đóng góp một phần thu nhập vào ngân sách Nhà nước
- Đối tượng tính thuế : Là các khoản thu hoặc thu nhập thuộc các hoạt động sản xuất
kinh doanh và các hoạt động khác được coi là mục tiêu đông viên của ngân sách nhà
nước . Đối tượng tính thuế là khách thể của thuế .
- Thuế suất : Là linh hồn của sắc thuế biểu hiện yêu cầu động viên của đối tượng tính
thuế.
Thuế suất cố định : Là mức thuế được ấn định bằng số tuyệt đối cho các đối tượng

tính thuế.
Thuế suất tỉ lệ : Là mức thuế được ấn đình bằng số tương đối hay tỉ lệ % trên đối
tượng tính thuế.
Thuế suất lũy tiến : Là một hình thức biến tướng của thuế suất tỷ lệ , nó có đặc
điểm đối tượng tính thuế càng lớn tỉ lệ thuế suất càng cao .
- Đơn vị tính thuế : Là đơn vị được sử dụng làm phương tiện tính toáng đối tượng
tính thuế.
- Giá tính thuế : Là giá cá lưu thông của hàng hóa, tài sản , súc vật … làm căn cứ để
tính thuế.
- Ưu đãi miễn giảm thuế : Là số thuế được quy định phải huy động vào ngân sách
nhà nước nhưng được nhà nước dành lại cho người nộp một phần hay toàn bộ để sử
dụng cho một thời gian nhất đinh.
- Thủ tục thu nộp thuế: Gồm những quy định về trách nhiệm và cách thức nộp thuế
vào ngân sách của đối tương nộp thuế trước cơ quan thuế và cơ quan hữu quan như
qui định về thời gian phương pháp thu nộp , thanh toán các khoản thuế, quyền hạn
trách nhiệm của các bên liên quan trong quan hệ thu nộp , chế độ trách nhiệm vật chất
của người nộp trước cơ quan tài chính nhà nước.
* Phân loại thuế:
- Căn cứ vào tính chất điều tiết của thuế.
Thuế trực thu: Đánh trực tiếp vào thu nhập của người chịu thuế:
VD: Thuế thu nhạp doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân….
Thuế gián thu: Đánh vào người tiêu dung thông qua giá cả hàng hóa và dịch vụ
VD: Thuế GTGT, TTDB…
- Căn cứ vào đối tượng tính thuế :
Thuế đánh vào hoạt động sản xuât kinh doanh: Thuế doanh thu, GTGT.
Thuế đánh vào sản phẩm hàng hóa: Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu.
Thuế đánh vào thu nhập: Thuế lợi tức,, thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân.
Thuế dánh vào việc sử dụng tài sản của nhà Nhà nước: Thuế tài nguyên, thuế sử
dụng đất nông nghiệp.
Thuế đánh vào tài sản: Thuế nhà đất, thuế tài sản.

* Lệ phí:
Là khoản thu mang tính chất bắt buộc,nhưng có tính chất đối giá, nghĩa là lệ phí thực
chất là một khoàn mà dân chúng trả cho Nhà nước khi họ được hưởng thụ những dịch
vụ mà do Nhà nước cấp.
Lệ phí là một khoản thu mang tính chất bù đắp, mức thu lệ phí được đặt ra trên
cơ sở đáp ứng nhu cầu bù đắp,mức thu lệ phí được đặt ra trên cơ sở đáp ứng yêu cầu
bù đắp chi phí các dich vụ công cộng của Nhà nước.
Thu từ lợi tức cổ phần nhà nước: hà nước thực hiện đầu tư vốn vào hoạt động sản
xuất kinh doanh bằng hình thức mua hoặc góp cổ phần để hình thành lên các doanh
nghiệp cổ phần mà ở đó Nhà nước với tư cách là một cổ đông, Khi các doanh nghiệp
cổ phần hoạt đông kinh doanh có lợi nhuận, số lợi nhuận được chia cho các cổ đông
theo lượng vốn góp và nhà nước sẽ được hưởng một phần .
* Thu từ bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước.
- Thực chất đây là khoản thu mang tính chất thu hồi vốn và có một phần mang tính
chất phân phối lại
- Khoản thu này vừa có tác dụng tăng nguồn thu cho ngân sách, vừa có tác dụng
nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản quốc gia
* Thu từ hợp tác lao động với nước ngoài và khoản thu khác:
- Các nước đông dân,tiềm năng lao động lớn sẽ là các nước xuât khẩu lao động tạo
lên 1 khoản thu cho ngân sách Nhà nước.
- Thực chất của khoản thu này là khoản tiền thu hồi của quốc gia đã bỏ ra những chi
phí ban đầu để bảo vệ, rèn luyện nuôi dưỡng, đào tạo người lao động, đồng thời cũng
là khoản tiền mà ngươi lao động trích ra từ tiền công của mình cho Tổ quốc.
b. Căn cứ vào tính chất phát sinh của khoản thu.
• Thu thường xuyên : Là những khoản thu phát sinh thường xuyên.
• Thu không thường xuyên: Là những khoản thu chỉ phát sinh vào từng thời
điểm.
c. Căn cứ vào tính chất cân đối ngân sách.
B. Ảnh hưởng của các nhân tố tới thu ngân sách
1. GDP bình quân đầu người: Là một chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng của một quốc

gia, phản ánh khả năng tiết kiệm tiêu dùng và đầu tư của một nước. GDP bình quân
đầu người là một nhân tố khách quan quyết định mức động viên của ngân sách nhà
nước.
Nền kinh tế đang có dấu hiệu chuyển biến tích cực, xu hướng phục hồi rõ nét. Thế
nhưng giữa những lạc quan vẫn xen nhiều lo lắng khi nhiều chỉ tiêu không thực hiện
bền vững của tăng trưởng . Tăng trưởng GDP quý 3/2009 đạt mức 5.76% cao hơn rất
nhiều con số 4.5% đạt được trong quý 2/2009. Chốt lại, tốc độ tăng trưởng 9 tháng
đầu năm 2009 đạt 4.56% ( số liệu tổng cục thống kê) và mục tiêu tăng GDP khoảng
5% trong năm 2009 dường như đã nằm trong tay.
Nhưng xét trên những động lực kéo bật nền kinh tế vươn lên khỏi suy giảm trong 9
tháng qua, nhiều chỉ tiêu không đạt bền vững tăng trưởng. Khoảng hơn 60% dân số
đang “ cống hiến” chỉ bằng1.75% tăng trưỏng của khu vực sản xuất nông , lâm ngư
nghiệp trong 9 tháng qua. Trong khi đó, tình hình thiên tai ngày càng phức tạp, sản
xuất nông nghiệp được cho là đã đạt ngưỡng không the tạo ra sức tăng đốt biến. Trong
khi đó, khu vực công nghiệp và xây dựng, đòn bẩy cho mục tiêu tiến lên nền kinh tế
công nghiệp hoá vào năm 2020 của Việt Nam , vẫn chưa thể hiện được vai trò đầu
tàu. Kết quả sản xuất 9 tháng của khu vực này chỉ đạt mức tăng trưởng 4.48% thấp
hơn mức độ tăng trưởng chung của cả nước.
Nhìn vào thực tế các ngành công nghiệp,vấn đề con nghiêm trọng hơn. Công
nghiệp chế biến đạt tăng trưởng thấp nhất,chỉ 2% và thấp hơn cả tốc độ tăng trưởng
của ngành lâm nghiệp ( 2.5%) và thuỷ sản ( 2.7 ).
Phần động lực đang ở lĩnh vực không khuyến khich tăng trưởng về lượng . Ví dụ
như công nghiệp khai thác tăng tới 8.2% , hay những lĩnh vực phát triển theo sau
chính sách kich cầu như xây dựng tăng 9.7% , lĩnh vực tài chính, ngân hàng , bảo
hiểm tăng 8.1% mức bán lẻ( bao gồm cả phần chi tiêu chính phủ) tăng 10.2% đã loại
trừ yếu tố giá… Nhưng lĩnh vực vốn đang bị xem là sự méo mó trong phân bổ nguồn
lực, và chỉ phục hồi do chính sách giải cứu mạnh tay của Việt Nam.
Tốc độ tăng trưởng cao nhất là ngành dịch vụ là mức 8.4% thuộc lĩnh vực vận tải
bưu điện, du lịch cũng chưa phản ánh đúng mức những đóng góp thực sự. Khi đó một
số nước trong khu vực du lịch quốc tế tăng trong 9 tháng đầu năm, Việt Nam lại giảm

tới 16%.
Tốc độ tăng trưởng đột biến của một số ngành kinh tế, thực chất đang phải dựa
dẫm vào nguồn cung tiền từ chính sách tài chính nới lỏng. Do nhiều chính sách kích
cầu đầu tư và tiêu dùng, đầu tư toàn xã hội 9 tháng đầu năm nay đạt tăng trưởng khá
cao, tổng vốn thực hiện đạt 483.2 nghìn tỷ đồng tăng 14.4% so với cung kì. Tuy
nhiên, tăng chi tiêu đang lệch về phía nguồn cung tài chính cho nền kinh tế của chính
phủ. Trong khi đầu tư ngân sách nhà nước tăng 45.5% , khu vực ngoài nhà nứoc chỉ
tăng 12.6% và khu vực FDI giảm 11.2%. Đây là biểu hiện của việc thiếu khả năng huy
động nguồn lực từ xã hội cho đầu tư. Bên cạnh đó, tổng dư nợ cho vay nền kinh tế từ
hệ thống ngân hàng thương mại đã tăng 26% so với cùng kì năm trước, vốn cho vay
hỗ trợ lãi suất bằng Việt Nam đồng đã đạt đến 405 nghìn tỷ đồng, theo số liệu của Vụ
chính sách tiền tệ ( Ngân hàng Nhà nước) tính đến 24/9/2009.
Nhưng dường như “ dư địa “ cho việc tiếp tục tăng cung tiền để xa thêm tăng
trưởng bị chặn lại. Bởi lẽ dư nợ tín dụng đã cơ bản cán đích 30% tăng trưởng. Trong
khi đó , dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đã cận ngày hết giá trị hiệu lực chính sách.
Trong khi đó, việc tăng cung tiền vào nền kinh tế đang gây ra những sức ép lớn đến
lạm phát trong thời gian tới. “ CPI 9 tháng đã tăng 0.62% , như vậy là tăng rất cao. Xu
hướng tăng còn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến như tăng trưởng tín dụng đang ở mức
cao, giá thế giới do tác động của phục hồi kinh tế, có thể tăng và ảnh hưởng đến nước
ta, giá dầu thô từ nay tới cuối năm còn nhiều yếu tố chưa lường trước được. Nếu lạm
phát tăng tốc trong các tháng cuối năm xảy ra, tăng trưởng GDP lại có lực cản mới,
bởi vì CPI bình quân năm chính là thương số trong tính toán GDP
Và những biểu hiện đáng lo ngại của cán cân tổng thể đangcó dấu hiệu thâm hụt, hệ
thống tài chínhđối mặt với rủi ro nợ quá hạn nếu cắt giảm gói kích cầu….
Làm cho cán cân thu,chi ngân sách Nhà nước cũng lệch lạc. Tổng thu ngân sách
tính từ đầu năm đến 15/9 ước đạt 274.4 nghìn tỷ đồng, giảm 12.1 % so với cung kỳ
năm 2008. Trong khi đó chi ngân sách đã lên tới 330 tỷ đồng
Đã có những khuyến cáo nên thận trọng với nhũng rủi ro vĩ mô có thể xuất hiện rất
nhanh trong thời gian tới. Và điều chỉnh chính sách phải cân nhắc giữa tăng trưởng và
ổn định

Giải pháp : Trong 4 tháng còn lại của năm 2009 các bộ ngành địa phương cần thực
hiện các giải pháp chính sách được đề ra:
Thứ nhất : Thực hiện hiệu quả các biện pháp kích thích kinh tế,tháo gỡ khó khăn,
thúc đẩy phát triển sản xuất, sản xuất và kinh doanh, phấn đấu đạt chỉ tiêu và tăng
trưởng kinh tế
Thứ 2 : Tăng cường quản lý, sử dụng hiệu quả, thúc đẩy giải ngân các nguồn vốn
đầu tư, khuyến khích tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư phát
triển.
Thứ 3 : Điều hành linh hoạt chính sách tài chính tiền tệ, có các giải pháp kịp thời
nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn ngừa tái lạm phát.
Thứ 4 : Tiếp tục thực hiện các giải pháp an sinh xã hội.
Thư 5 : Làm tốt công tác chỉ đạo điều hành.
2. Tài ngưyên thiên nhiên
Kinh tế hoá để tăng đóng góp của ngành tài nguyên cho nguồn thu ngân sách Nhà
nước và GDP. Đóng góp của khu vực tài nguyên thiên nhiên cho ngân sách là thuế đất
đai , các loại thuế / phí môi trường , thuế khai thác , sử dụng tài nguyên và một số hoạt
động thu khác. Tuỳ theo từng quốc gia và từng giai đoạn khác nhằm cách thức và
phần đóng góp này là khac nhau. Việt Nam với chế độ sở hữu nhà nước tài nguyên
thiên nhiên thì thu ngoài thuế, phí còn có các khoán thu về giao quỳên sử dụng, cho
thuê đất đai, tài nguyên. Số thu tư bán tài nguyên thiên rất lớn so với thuế và phí. Tuy
nhiên những khoản thu này không bền vững như thuế phí vì đất đai và tài nguyên đều
có giới hạn và không tái tạo được. Có thể tóm tắt về các lĩnh vực này như sau:
Từ đất đai: Là loại thuế có từ lâu đời,mặc dù chiếm tỷ trọng không cao trong tổng
GDP và nguồn thu quốc gia nhưng gần đây thuế đất đai mới được sử dụng như ;là một
công cụ hữu hiệu để tăng nguồn thu và giúp cân đối ngân sách, đặc biệt tại các quốc
gia đang phát triển như Việt Nam. Vào những năm gần đây xu hướng đóng góp từ
thuế đất đai trong tổng thu ngân sách đã tăng nhanh chóng từ quá trình phát triển kinh
tế , đất đai được chuyển đổi ngày càng hiệu quả cho các mục đích mang lại lợi ích lớn
nhất trên các mảnh đất và hệ thống thuế dựa trên hệ số giá trị mà các mảnh đất mang
lại. Vì vậy thuế đất nói chung là gia tăng

Từ tài nguyên khác. Tất cả các quốc gia đều khai thác , sử dụng tài nguyên thiên
nhiên như rừng, khoáng sản, thuỷ sản, mặt nước,nước ngầm để phát triển kinh tế. Đối
với người nghèo thì những tài nguyên này càng có vai trò quan trọng ( rừng, thuỷ
sản). Như vậy,vai trò quản lý tài nguyên của khu vực chính phủ là rất quan trọng
nhằm giúp duy trì được sinh kế lâu dài sử dụng bền vững nguồn tài nguyên
Thu thuế khai thác tài nguyên thiên nhiên: Là một công cụ đang được sử dụng phổ
biến để đạt các mục tiêu trên. Việc xác định thuế cho tưng loại tài nguyên cụ thể là rất
phức tạp nhưng nguyên tắc chung là dựa trên lợi nhuận mà đơn vị khai thác thu về,
các chi phí xã hội từ việc khai thác tài nguyên và hệ thống tài sản áp dụng cho từng
đối tượng . Doanh thu từ thuế tài nguyên cũng là nguồn thu đáng kể cho ngân sách
Nhà nước. Một mặt tăng nguồn thu cho chính phủ, mặt khác hạn chế khai thác không
hiệu quả,tạo ra động lực giúp tài nguyên bền vững hơn. Tại các quốc gia đang phát
triển cũng giao động và chiếm khoảng 5 – 15% tổng nguồn thu ngân sách.
Việt Nam là quốc gia có tốc độ phát triển cao trung bình khoang 7,5% trong suốt 10
năm qua cùng với quá trình cải cách và hội nhập kinh tế . Tăng trưởng kinh tế một
mặt mang lại phúc lợi xã hội gia tăng cho toàn dân và toàn xã hội nói chung nhưng
mặt khác gây ô nhiễm môi trường và suy thoái tài nguyên với tốc độ nhanh hơn, đe
dọa sự phát triển bền vững và những thành quả của tăng trưởng. Nhà nước đã hình
thành khung chiến lược và các khuôn khổ pháp lý dựa trên nguyên tắc “ người gây ô
nhiễm trả tiền” và “ người hưởng lợi trả tiền “ cũng như sử dụng các công cụ kinh tế
trong quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường , huy động nguồn tài chính cho bảo vệ
môi trường , nâng cao nhận thức thay đổi hành vi xâm phạm môi trường.
Tuy nhiên,có thể nói phần đóng góp này hiện nay của ngành tài nguyên thiên nhiên
ngân sách và tăng trưởng kinh tế là chưa phản ánh đúng nguồn lực của tài nguyên
thiên nhiên của đất nước. Mặc dù Việt Nam đã áp dụng các khoản thu từ tài nguyên
thiên nhiên như : Tiền thu sử dụng đất , tiền thuê đất, các khoản thuế, phí về đất
Cơ hội đóng góp trong tương lai: Những định hướng phát triển bền vững tại Việt
Nam cũng như sự đóng góp hiện tại của tài nguyên thiên nhiên cho GDP và nguồn thu
ngân sách, có thể thấy rằng nếu biết quản lý và khai thác nhiều hơn nữa tài nguyên
thiên nhiên thì trong tương lai gần tài nguyên thiên nhiên có nhưng đóng góp lớn hơn

nữa trong công cuộc hội nhập của đất nước
3 . Tỷ suất doanh lợi
Với những tín hiệu lạc quan của nền kinh tế trong nhưng tháng gần đây, chuẩn bị
cho giai đoạn hậu khung hoảng là cần thiết đối với những doanh nghiệp Việt Nam khi
nền kinh tế phuc hồi. Một cuộc khảo sát mới đây của phòng Thương Mại và Công
nghiệp Việt Nam cho thấy khoảng 91% số doanh nghiệp vẫn ổn định sản xuất, 51%
doanh nghiệp lớn vẫn đầu tư mở rộng quy mô, 56% doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng
thị trường
Tuy nhiên , vấn đề hiện nay đang đặt ra là: Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam phải
xác định được những nguy cơ, thách thức mới sẽ xuất hiện trong thời gian tới , nhất là
nền kinh tế thế giới vượt qua khủng hoảng và kinh tế trong nước tăng trưởng trở lại.
Giải quyết vấn đề này đồng thời nắm bắt được cơ hội sẽ là những yếu tố mang lại
thành công cho các chủ thể kinh tế sau khủng hoảng.
Nguy cơ và thách thức:
Khi nền kinh tế thế giới phục hồi các nền kinh tế lớn sẽ tái cơ cấu , dòng vốn đầu tư
có sự chuyển dịch . Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam cần có sự nghiên cứu kỹ thị
trường ,ngành hàng để có thể tranh thủ các cơ hội của quá trình tái cơ cấu kinh tế quốc
tế mang lại,nhất là định hướng về dòng đầu tư nước ngoài.
Qua khủng hoảng các doanh nghiệp cần nhận biết được nhưng yếu kém trong nội
tai của doanh nghiệp của mình, tiến hành các biện pháp cải cách công nghệ, quản lý,
tài chính, nhân lực…và định ra chiến lược phát triển mới. Do suy thoái mà hàng hoá
nên hầu hết các nước trên thế giới đều có chính sách bảo hộ nên kinh tế trong nước,
dẫn đến tình trạng hàng xuất khẩu gặp khó khăn trong việc chiếm lĩnh thị trường nước
ngoài, ngay cả ở những thị trường truyền thống. Hiện trong nước đang bị hàng hoá
ngoai nhập giá rẻ chiếm lĩnh, các doanh nghiệp của chúng ta quá chú trọng vào hàng
hoá xuất khẩu nên đang đứng trước nguy cơ thất bại ngay trên sân nhà.
Hướng đi cho doanh nghiệp:
Nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp cần tiếp tục
đẩy mạnh các biện pháp tái cấu trúc lai doanh nghiệp ở cả hai cấp độ: Tái cấu trúc gắn
liền với thay đổi cơ cấu chủ sở hữu và tái cấu trúc không gắn liền với thay đổi chủ sở

hữu.
Tái cấu trúc gắn liền với thay đổi chủ sở hữu tong thường dưới hình thức mua, bán
sáp nhập doanh nghiệp… và đây cũng là xu hướng chung đang diễn ra trên thế giới
nhằm hình thành các doanh nghiệp mới đủ mạnh đồng thời vẫn duy trì được các mặt
tích cực, các dòng sản phẩm của doanh nghiệp cũ.
Còn tái cấu trúc không gắn liền với thay đổi cơ cấu chủ sở hữu bao gồm các hoạt
động cải tổ nội bộ của doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của một số bộ
phận cho phù hợp với chiến lược phát triển chung của doanh nghiệp như: Xây dựng
hoặc điều chỉnh chiến lược kinh doanh, phát triển những kĩ năng mới, tạo sự tìm tòi và
đổi mới trong nội bộ doanh nghiệp như: Xây dựng hoặc điều chỉnh chiến lược kinh
doanh, phát triển nhưng kĩ năng mới, tạo sự tìm tòi và đổi mới trong nội bộ doanh
nghiệp, cam kết với khách hàng, cộng đồng về chất lượng sản phẩm, dịch vụ…
Cộng đồng doanh nghiệp cần tận dụng khủng hoảng để đổi mới công nghệ và nâng
cao nguồn nhân lực. Trong giai đoan khủng hoảng, giá máy móc, thiết bị, công nghệ
thế giới rẻ hơn rất nhiều. Tận dụng trong thời kì khủng hoảng thu hút nguồn nhân lực
có trình độ cao từ nước ngoài, nhất là Việt kiều để phục vụ cho quá trình tái cấu trúc
Với nền kinh tế nước ta xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao trong những năm qua, thì
xuất khẩu là vấn đề cần nhận được sự quan tâm lớn của cộng đồng doanh nghiệp.
Vì vậy: Các doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng thương hiệu cho các mặt hàng có
lợi thế với các nước khác để đảm bảo thi phần vững chắc cho nhóm hàng tại các thị
trường, và chú trọng phát triển thị trường trong nước vẫn cần được coi là hướng đi cơ
bản và lâu dài cho doanh nghiệp Viêt Nam. Khi phát triển thị trường trong nước cần
chú trọng cả thị trường tiêu thụ và khuyến khích việc sản xuất và sử dụng thị trường
hàng hoá, dịch vụ đầu vào sản xuất trong nước. Nhưng để thành công các doanh
nghiệp cần hướng tới là 2/3dân số cả nước ở thị trường nông thôn.
4) Mức độ trang trải chi phí của nhà nước
Ngân sách Nhà nước cùng lúc chịu hai áp lực nặng nề: nguy cơ thất thu cao do
khủng hoảng tài chính thế giới, và nhu cầu cho các chương trình kich cầu lớn hơn bao
giờ hết
Thất thu bao nhiêu?

Năm 2009 mức bội chi này có thể lên tới gần 145 nghìn đồng nếu căn cứ vào mức bội
chi 87.3 nghìn tỷ đồng tương ứng với 4.82% GDP cho năm nay mà quốc hội thông
qua cuối năm ngoái. Đây là mức bội chi chính thức lớn nhất trong nhiều năm nay
nhằm đối phó với nguy cơ suy giảm các nguồn thu ngân sách Nhà nước do tác động
của suy thoái kinh tế toàn cầu
Vậy nguồn thu nào sẽ sụt giảm, và nguồn ngân sách có thể thất thu bao nhiêu so với
tổng thu dự kiến là 389.9 tỷ đồng . Câu trả lời chính xác vào cuối năm tài chính này
nhưng những dự báo của các nhà kinh tế, các nhà quản lý cho thấy thì tình hình không
mấy sáng sủa.
Thu ngân sách trong năm nay sẽ giảm khoảng 53.314 tỷ đồng do suy giảm từ 3
nguồn thu chủ yếu là thu nội địa ( giảm 29.654 tỷ đồng) thu từ dầu thô ( giảm 12.740
tỷ đồng) và thu xuất nhập khẩu ( giảm 10.920 tỷ đồng ). Nhưng cũng có nhiều dự báo
bi quan hơn giảm thu ngân sách 130 ngàn tỷ đồng theo kịch bản xấu và 49 ngàn tỷ
đồng theo kịch bản tốt.
Bội chi bấy nhiêu ?
Ngay cả khi Chính phủ duy trì chi tiêu dự toán ( gồm 112, ngàn tỷ đồng cho đầu tư
phát triển và 305,00 ngàn tỷ cho chi thường xuyên) thì bội chi ngân sách thực tế là
7,76% GDP căn cứ vào mức hụt thu 53,314 ngàn tỷ đồng. Tuy vậy, giữ được những
con số này là không dễ dàng khi số chi thực tế luôn cao hơn dự toán. Ví dụ,
thực tế chi tăng 20,7% năm 2008 và 12,9 năm 2007. Điều này chứng tỏ kỷ luật chi
ngân sách chưa được duy trì chặt chẽ. Do chi ngân sách quá cao nên dù tăng thu ngân
sách thâm hụt ngân sách luôn ở mức 5% GDP. Đây là một tỷ lệ quá cao, dẫn đến rủi ro
lớn về khả năng trả nợ trong tương lai
Trong ngắn hạn. Chính phủ có thể thúc đẩy mức tăng trưởng đang trùng xuống
thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô mở rộng. Tuy nhiên, chính sách tài khóa mở
rộng nhiều khả năng sẽ làm tăng thâm hụt ngân sách và gánh năng nợ công. Sau này,
sau này Chính phủ sẽ thấy khó khăn trong việc kiềm chế thâm hụt ngân sách do phải
thanh toán các khoản vay.
Xu hướng thay đổi cơ cấu ngân sách khi gia nhập WTO
Những yêu cầu cơ bản của WTO :

Về chính sách thuế và hải quan:
Chính sách thuế xuất nhập khẩu: Thuế suất thuế nhập khẩu phải được điều chỉnh
theo hướng ngày càng giảm và đảm bảo nguyên tắc MFN( không phân biệt đối xử
giữa hang nhập khẩu của các quốc gia khác nhau) ; thuế nhập khẩu là công cụ duy
nhất để bảo hộ sản xuất trong nước và không nhằm mục đích thu ngân sách.
Áp dụng thuế Hải quan theo hợp đồng ngoại thương theo đúng quy định của Hiệp
định về Hải quan.
Chính sách thuế nội địa : Đảm bảo nguyên tắc MFN và nguyên tắc đãi ngộ quốc
gia ( không phân biệt đối xử giữa hàng hóa và dịch vụ trong nước với hàng hóa, dịch
vụ nhập khẩu).
Chính sách ngân sách: Thu ngân sách nhà nước từ hoạt động xuất nhập khẩu chỉ
thu để đảm bảo mức bảo hộ cần thiết; phí và lệ phí liên quan đến xuất nhập khẩu chỉ
thu bằng với chi phí cung cấp dịch vụ. Các khoản chi trực tiếp của ngân sách Nhà
nước cho trợ cấp, hộ trợ xuất khẩu , cho doanh nghiệp Nhà nước sẽ phải xóa bỏ. Ngay
cả khi hoạt động mua sắm của Chính phủ cũng chị sự điều chỉnh của các quy định của
WTO về đấu thầu công khai và bình đẳng.
Trở thành thành viên của WTO và thực hiện cam kết này đặt ra thách thức đòi hỏi
nỗ lực lớn của ngành Tài chính nói riêng cũng như các cơ quan quản lý Nhà nước đặc
biệt trong bối cảnh hệ thống luật pháp chính sách chế độ quản lý trong nước còn thiếu
đồng bộ, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, thậm chí còn nhiều lĩnh vực còn chưa có
văn bản quy định như lĩnh vực tư vấn môi giới tài chính, tư vấn thuế… đồng thời các
thể chế kinh tế và đặc biệt là hệ thống doanh nghiệp trong nước cả doanh nghiệp quốc
doanh và doanh nghiệp tư nhân còn yếu, sức cạnh tranh kém . Điều này đòi hỏi trong
thời gian ngắn phải có bước cải cách mang tính cách mạng trong điều hành và quản lý
Nhà nước nói chung và quản lý kinh tế nói chung và cơ cấu thu ngân sách nói riêng sẽ
phải thay đổi cho phù hợp với cơ chế thi trường :
Hoàn thiện cơ cấu thu ngân sách để thực hiện có hiệu quả các cam kết hội
nhập
Tiếp tục cơ cấu lại chi NSNN , lựa chọn đúng các trọng điểm chi NSNN phục vụ có
hiệu quả chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Đẩy mạnh phân cấp quản lý NSNN, tăng

cường tính chủ động của các cấp chính quyền địa phương, thực hiện cơ chế tự chủ tài
chính đối với đơn vị thụ hưởng ngân sách, tăng cường kiểm soát chi , đảm bảo chi
ngân sách tiết kiệm , hiệu quả.
Cân đối chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển , chi trả nợ, dự trữ , viện trợ phù
hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kì và đảm bảo an ninh tài
chính quốc gia
Chính sách thuế :
Tiếp tục rà soát toàn bộ các sắc thuế đã được ban hành, đối chiếu với các nguyên
tắc hội nhập và lộ trình cho phù hợp. Đối với từng sắc thuế cụ thể trong hệ thống
chính sách thuế , việc giảm thuế nhập khẩu trong khuôn khổ thực hiện cam kết về tự
do hóa thương mại cũng đòi hỏi những điều chỉnh phù hợp trong toàn bộ hệ thống
thuế gián thu. Đồng thời liên quan tới vấn đề hội nhập, tăng cường thu hút vốn đầu tư
nước ngoài , việc cải cách hệ thống thuế trực thu cũng cần được thực hiện. Hướng cải
cách các sắc thuế sẽ thực hiện như sau:
Thuế suất nhập khẩu: Tiếp tục khuyến khích tối đa xuất khẩu, bảo hộ hợp lý có
chọn lọc, có thời hạn đối với hang hóa trong nước, thực hiện các cam kết quốc tế.
Các sắc thuế nội địa: Tiếp tục xóa bỏ phân biệt đối xử giữa hàng hóa sản xuất trong
nước và hàng nhập khẩu về thuế tiêu thụ đặc biệt để đảm bảo nguyên tắc đối xử quốc
gia với các lịch biểu thuế phù hợp. Tiếp tục hoàn thiện sửa đổi thuế GTGT để góp
phần bù đắp số thu giảm khi cắt giảm thuế nhập khẩu và góp phần kích thích sản xuất
phát triển tăng đầu tư. Thuế thu nhập cá nhân cần mở rộng diện đánh thuế, hạ thấp và
giảm mức thuế suất để đảm bảo quản lý thu thuế được dễ dàng, mở rộng diện khấu trừ
thuế để đảm bảo cân bằng và phù hợp với điều kiện thực tế. Bên cạnh những chính
sách miễn giảm cho nhiều ngành, nhiều lĩnh vực để khuyến khích đầu tư chung như
hiện nay , các biện pháp ưu đãi có thời hạn cần được tập trung cho một số lĩnh vực,
ngành ưu tiên theo đúng định hướng của chiến lược công nghiệp hóa, tiến tới về lâu
dài, đảm bảo chính sách trung lập và công bằng, tạo cơ sở cho việc phân bố nguồn lực
đầu tư được điều chỉnh theo đúng những quy luật của nền kinh tế thị trường , đặc biệt
của tự do hóa thương mại, đầu tư, dịch vụ khi Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết
mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục ban hành một số sắc thuế mới

như thuế tài sản, thuế bảo vệ môi trường…
Về phí, lệ phí :
Sắp xếp lại theo hướng tiếp tục rà soát, bãi bỏ các loại phí, lệ phí không hợp lý.
Thống nhất mức thu phí với tổ chức,cá nhân trong nước và tổ chức và cá nhân nước
ngoài. Xây dựng mức thu phí và lệ phí không phù hợp, giảm chi phí đầu vào cho sản
xuất kinh doanh, cho xuất khẩu.
Nhóm 8.

×