Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

(Skkn 2023) xây dựng câu hỏi theo hướng phát huy năng lực tự lực của học sinh trong dạy các bài 14, 16 sinh học 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.84 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
MỤC

NỘI DUNG
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN

TRANG
2

I

Cơ sở lí luận.

2

II

Phương pháp tiếp cận tạo ra sáng kiến

4

III

Mục tiêu

4

CHƯƠNG II: MÔ TẢ SÁNG KIẾN

5


I

Nêu vấn đề của sang kiến kinh nghiệm

5

1

Phân tích đánh giá thực trạng vấn đề

5

2

Tồn tại, hạn chế

5

3

Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế.

6

4

Phân tích và chỉ ra tính cấp thiết cần tạo ra sáng kiến

6


II

Giải pháp để thực hiện sang kiến kinh nghiệm

6

1

Thực trạng của vấn đề

6

2

Các biện pháp thực hiện để xây dựng câu hỏi

11

3

Xác định hiệu quả của những câu hỏi đề xuất

15

III

Khả năng áp dụng, nhân rộng

16


IV

Giải pháp tổ chức thực hiện

17

CHƯƠNG III : KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ

18

I

Kết luận

18

II

Ý kiến đề xuất kiến nghị

18

-1-


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN

Bộ môn sinh học ở trường trung học cơ sở có vai trị rất quan trọng, nó cung
cấp cho người học những kiến thức cơ bản về sinh vật và môi trường. Trên cơ sở

đó giáo dục, khơi dậy những tình cảm, tư tưởng, đạo đức làm chuẩn mực cho
mọi hành vi trong cuộc sống, góp phần phát triển tồn diện nhân cách học sinh.
Trong q trình dạy học mơn sinh học tại trung học cơ sở Lang Sơn bản thân
tôi đã cố gắng đi sâu vào tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của
quá trình dạy và học để từ đó có biện pháp khắc phục cũng như tìm tòi, vận
dụng nhiều biện pháp khác nhau vào việc hướng dẫn học sinh khám phá những
tri thức mới. Từ đó nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn sinh học. Ở trường trung
học cơ sở Lang Sơn, đa số học sinh cịn e ngại và chưa có nhiều sự say mê về bộ
môn sinh học, cho nên việc ghi nhớ các kiến thức về mơn sinh học cịn nhiều
hạn chế. Thực tế đó đặt ra một vấn đề là người giáo viên phải làm sao giúp học
sinh có hứng thú, hiểu, nhớ các nội dung của bài học và biết vận dụng vào thực
tiễn.
Trong q trình dạy học mơn sinh học lớp 6 tôi thấy một vấn đề đặt ra là
trong q trình học tập, đa số học sinh cịn thụ động, mà yêu cầu mới đòi hỏi các
em phải là chủ thể của hoạt động học, nên giáo viên cần hướng cho các em hoạt
động nhiều hơn việc dạy học “nêu vấn đề” hết sức quan trọng. Gây hứng thú
cũng là một biện pháp quan trọng trong việc dạy và học mơn sinh học hiện nay
vì biện pháp này nó thể hiện trên các mặt tư tưởng tình cảm, nhận thức và hành
động trong các hoạt động dạy và học song sự hứng thú trong nhận thức không
phải là sự ngẫu hứng, tuỳ thích mà là sự định hướng có lựa chọn, nhằm mục
đích nắm vững kiến thức học tập một cách sâu sắc và toàn diện đồng thời giúp
người học biết vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống.
Với việc nghiên cứu sáng kiến này, tôi mong muốn sẽ góp phần vào giúp
giáo viên tiến hành một giờ dạy học hiệu quả tốt hơn, học sinh tích cực, chủ
động trong việc tiếp thu lĩnh hội kiến thức bài học nhiều hơn và đây cũng là lí
do tơi chọn chun đề này.
Trong tình hình xã hội hiện nay, với sự bùng nổ của thông tin; khoa học
phát triển như vũ bão đã tác động mạnh mẽ và làm thay đổi lớn đến các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Trước yêu cầu đổi mới của thời đại, đòi hỏi phải đổi mới
mục tiêu, phương pháp dạy học để giải quyết vấn đề cấp bách đặt ra. Việc cải

tiến và đổi mới phương pháp dạy học luôn luôn được Đảng và nhà nước ta hết
sức quan tâm. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị
lần thứ VIII Ban chấp hành Trung ương khóa XI đó là : “ Đổi mới căn bản, tồn
diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”
Như vậy đổi mới phương pháp dạy học không chỉ đơn thuần là dạy những
vấn đề gì mà cịn phải dạy như thế nào. Phải dạy cho học sinh phương pháp tự
-2-


học, phát huy cao độ năng lực tự học của học sinh đáp ứng được mục tiêu giáo
dục đề ra.
Vì vậy đổi mới phương pháp dạy học theo hướng đề cao vai trò chủ thể
hoạt động của học sinh trong học tập là một vấn đề cấp thiết hoàn toàn phù hợp
với xu thế phát triển của thời đại.
Để hình thành kiến thức, kỹ năng, thái độ và phát huy năng lực tự lực tích
cực của học sinh có nhiều phương pháp dạy học khác nhau và có nhiều biện
pháp thực hiện. Một trong những biện pháp có hiệu quả là giáo viên xây dựng hệ
thống câu hỏi theo hướng phát huy năng lực tự lực của học sinh. Khi soạn giáo
án việc xây dựng câu hỏi được giáo viên thường xuyên tiến hành và tiến hành ở
hầu hết các chương các bài với nhiều môn học khác nhau.
Việc xây dựng câu hỏi trong mỗi nội dung là công cụ đắc lực, là phương
tiện sư phạm hữu hiệu thúc đẩy hoạt động nhận thức của học sinh, xây dựng câu
hỏi tốt, tạo điều kiện tốt để bài dạy thành công. Việc thường xuyên xây dựng và
sử dụng câu hỏi sẽ đưa học sinh vào những tình huống có vấn đề cần giải quyết,
mà muốn giải quyết được những vấn đề đó học sinh phải tích cực vận động linh
hoạt, sáng tạo những kiến thức đã có để trả lời.
Vì vậy tăng cường xây dựng câu hỏi là việc làm cần thiết và cấp bách đối
với mỗi giáo viên hiện nay.
Nội dung chương trình sinh học 6 nói chung. Đặc biệt là các bài 14, 16

được trình bày theo cách tạo thuận lợi cho việc đổi mới phương pháp dạy học
tăng cường hoạt động tích cực của học sinh, cấu trúc bài rất chặt chẽ vừa đảm
bảo tính hệ thống, vừa mang tính kế thừa, phù hợp với trình độ nhận thức của
học sinh.
Với hệ thống kiến thức có mối liên hệ chặt chẽ như vậy giáo viên có thể
xây dựng được hệ thống câu hỏi một cách đa dạng, phù hợp với trình độ nhận
thức của nhiều đối tượng học sinh. Vì vậy để nâng cao chất lượng dạy học thì
biện pháp xây dựng câu hỏi là rất phù hợp và có tiềm năng lớn, có tính khả thi
cao.
Từ thực tiễn giảng dạy kết hợp với dự giờ của đồng nghiệp tôi nhận thấy
hiện nay giáo viên đã và đang đổi mới phương pháp dạy học thể hiện ở cả khâu
soạn bài và lên lớp.
Tuy vậy muốn đổi mới phương pháp thì cần có những biện pháp cụ thể thì
giáo viên còn lúng túng đặc biệt là biện pháp xây dựng câu hỏi giáo viên thường
sử dụng những câu hỏi có sẵn, nhiều khi chưa sát với đối tượng học sinh, khơng
kích thích phát huy được năng lực tự lực sáng tạo của học sinh, chưa định hướng
vào giải quyết các vấn đề hay, khó mới làm cho học sinh thụ động trong việc
lĩnh hội kiến thức.
Từ thực tế đó với mong muốn nhỏ bé và việc tìm tịi các biện pháp thích
hợp nhằm phát huy tính tích cực, năng lực tự lực, sáng tạo của học sinh là lí do
tôi chọn Sáng kiến kinh nghiệm "Xây dựng câu hỏi theo hướng phát huy năng
-3-


lực tự lực của học sinh trong dạy các bài 14, 16- Sinh học 6" Với việc nghiên
cứu chuyên đề này, tơi mong muốn sẽ góp phần vào giúp giáo viên tiến hành
một giờ dạy học hiệu quả tốt hơn, học sinh tích cực, chủ động trong việc tiếp
thu lĩnh hội kiến thức của bài học.
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN TẠO RA SÁNG KIẾN


Trong việc thực hiện nghiên cứu một vấn đề sáng kiến, chúng ta cần thực
hiện nhiều phương pháp, trong sáng kiến này tôi cũng sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu như: Tìm hiểu các thơng tin, tài liệu, điều tra thực tế, thống kê,
phân tích, đánh giá, phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phương pháp thực
nghiệm sư phạm trên đối tượng học sinh lớp 6 trường trung học cơ sở Lang Sơn.
Những phương pháp tiếp cận này đã giúp tơi hồn thành sáng kiến kinh nghiệm
"Xây dựng câu hỏi theo hướng phát huy năng lực tự lực của học sinh trong
dạy các bài 14, 16- Sinh học 6".
III. MỤC TUÊU

Tên sáng kiến kinh nghiệm đã nói rõ phần nào về đối tượng, phạm vi
nghiên cứu của sáng kiến. Trình bày những vấn đề về vai trị của giáo viên trong
dạy học môn sinh học để nâng cao chất lượng của bộ môn và những biện pháp
giúp bồi dưỡng cho học sinh lịng u thích bộ mơn sinh học trong chương trình
trung học cơ sở.
Đồng thời người giáo viên phải xác định được đối tượng người học và tìm
hiểu cũng như nắm bắt, phân tích được thực trạng để từ đó có những cách thức,
biện pháp trong đổi mới phương pháp dạy học, tránh nhàm chán trong tiết học,
tạo hứng thú học tập bộ mơn.
Ngồi ra sáng kiến cịn đề cập một số cách thức và biện pháp bồi dưỡng
phát triển kĩ năng tự học và từ đó dễ dàng ghi nhớ kiến thức của bộ mơn sinh
học.
Từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ mơn sinh học ở nơi tơi
đang cơng tác ở đó là trường trung học cơ sở Lang Sơn.
Khi chọn hướng nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm "Xây dựng câu hỏi
theo hướng phát huy năng lực tự lực của học sinh trong dạy các bài 14, 16Sinh học 6" với mục đích giúp học sinh nhớ, hiểu nội dung bài học. Qua đó u
thích mơn học để từ đó phát huy hơn nữa vai trò trung tâm của học sinh. Đồng
thời giúp các em rèn luyện khả năng phân tích, tổng hợp, đánh giá một kiến thức
bộ mơn sinh học.
Ngồi ra với mục đích để trao đổi với đồng nghiệp để cùng nhau tìm tịi,

xây dựng cho câu hỏi ngày càng hồn thiện hơn trong quá trình áp dụng sáng
kiến này.

-4-


CHƯƠNG II : MÔ TẢ SÁNG KIẾN
I. NÊU VẤN ĐỀ CỦA SÁNG KIẾN.

1. Phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề
Bộ môn sinh học ở trường phổ thông với nhiệm vụ cung cấp một khối
lượng kiến thức tương đối phong phú cần đặt ra yêu cầu cao mới thực hiện được
nhiệm vụ đó, mặt khác do đặc trưng của bộ mơn sinh học nó gây ra nhiều khó
khăn cho q trình nhận thức của các em học sinh.
Đa số học sinh có cố gắng trong q trình tiếp thu bài giảng cũng như hình
thành và rèn luyện kĩ năng của mình.
Một số học sinh có khả năng tiếp thu nhanh kiến thức đồng thời các em có
ý thức tốt việc học bộ môn sinh học.
Chất lượng dạy học môn sinh học hiện nay đặt ra vấn đề cần suy nghĩ. Số
lượng học sinh say mê u thích mơn sinh học cịn ít.
Có nhiều phụ huynh và học sinh coi mơn sinh học là một môn học “phụ”.
Nhận thức của các em học sinh về bộ môn, các em không nhớ hoặc nhớ khơng
chính xác về các đặc điểm cấu tạo và hình thái.
2. Các tồn tại, hạn chế
Việc học sinh chưa tích cực học mơn sinh học nói trên là đúng nhưng
không phải do bản thân bộ môn sinh học gây ra mà chính là do quan niệm và
phương pháp dạy học của chúng ta chưa đáp ứng được nhu cầu của người học
hay nói cách khác là giáo viên chưa gây được hứng thú học tập trong giờ học bộ
môn sinh học.
Mặc dù đa số giáo viên đều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy

và học bộ môn sinh học, song khi lên lớp hầu hết giáo viên giảng bài các kiến
thức bài giảng đều trùng khớp với sách giáo khoa khơng có sự cải tiến về
phương pháp dạy học.
Cách dạy đôi khi nêu kiến thức của bài học nên học sinh không tập trung
trong việc học tập.
Trong khi đó một số thầy cơ giáo khi lên lớp ở các giờ học vẫn còn lúng
túng trong việc truyền thụ kiến thức cơ bản cho học sinh.
Lý do khác nữa dẫn đến học sinh khơng ham thích học tập bộ mơn sinh học
là do chúng ta cịn thiếu nhiều phòng thực hành, phòng chức năng đồng thời còn
hạn chế trong kinh nghiệm dạy học, trong sử dụng phương pháp dạy học đặc thù
của bộ mơn nên từ đó chưa gây cho học sinh hứng thú thực sự để nâng cao chất
lượng bộ môn, trong khi nhà trường hiện nay vẫn còn thiếu nhiều phương tiện
dạy học cụ thể như: băng đĩa Video, mơ hình tranh ảnh tư liệu về bộ mơn sinh
học đặc biệt là phịng thực hành bộ môn sinh học.

-5-


Nhìn chung cơ sở vật chất của nhà trường cịn nhiều hạn chế nên đã một
phần nào đó ảnh hưởng đến hiêu quả dạy học của các mơn học nói chung và
mơn sinh học nói riêng.
Kết quả học tập bộ mơn ở nhiều em cịn thấp do học sinh chưa biết cách
học tập bộ mơn, khả năng tự học cịn yếu.
Học chủ yếu mang tính trả bài đối phó.
Học sinh cịn ngại học các mơn thuộc lịng, chưa thực sự chăm chỉ chưa
phát huy hết năng lực của người học, chưa có phương pháp tự học có hiệu quả.
3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế:
Về phía giáo viên, trước đây khi dạy tôi chủ yếu giúp học sinh hiểu được
nội dung trong sách giáo khoa. Coi nhẹ việc hệ thống kiến thức cho các em.
Khi phát huy vai trò của học sinh trong dạy học chủ yếu là qua hệ thống

câu hỏi, thảo luận nhóm, hỏi đáp, trao đổi.
Nhưng chỉ vậy thì tính độc lập với giáo viên của các em vẫn chưa cao, chưa
phát huy được khả năng phản biện của người học.
Về phía học sinh, vốn kiến thức còn hạn chế, nên đã ảnh hưởng đến khả
năng hiểu khái niệm hình thái cấu tạo cảu các cơ quan.
Có nhiều ngun nhân, song tơi chỉ trình bày một cách ngắn gọn một số
nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến tình trạng đó.
Thứ nhất, trong nhận thức chung, chúng ta cịn xem nhẹ mơn học mơn
sinh học, coi môn sinh học là “môn phụ”. Cho nên học sinh chưa thật sự ý thức
trong việc học tập bộ môn sinh học này.
Thứ hai, chương trình học và việc giảng dạy bộ mơn sinh học cịn nhiều
vấn đề tồn tại: chúng ta thấy rằng từ sau đổi mới chương trình và sách giáo khoa
thì “dung lượng” kiến thức nhiều mà “thời lượng” thì q ít từ đó dẫn đến
phương pháp giảng dạy thiên về đọc chép, mà ít chú ý đến rèn luyện phát triển
khả năng tư duy thực hành của học sinh.
chế.

Thứ ba, nhiều giáo viên bộ môn sinh học năng lực chuyên môn cịn hạn

4. Phân tích, đánh giá và chỉ ra tính cấp thiết cần tạo ra sáng kiến.
Đứng trước thực trạng như vậy, bản thân tơi thấy cần phải có những
phương pháp giúp học sinh nâng cao khả năng tích cực học tập bộ mơn từ đó
bồi dưỡng cho học sinh lịng u mến mơn học. Đồng thời nâng cao chất lượng
dạy và học bộ môn sinh học ở trường trung học cơ sở hiện nay.
II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN SÁNG KIẾN

1. Thực trạng của vấn đề
1.1. Khái niệm về câu hỏi
-6-



Khái niệm về câu hỏi đã xuất hiện từ thời triết học cổ Hy Lạp, Arixtot là
người đầu tiên đã phân tích câu hỏi dưới góc độ logic ơng cho rằng đặc trưng
của câu hỏi là buộc người bị hỏi phải lựa chọn cách hiểu này hay cách hiểu khác
(câu hỏi lựa chọn).
Nghiên cứu của Arixtot được cụ thể hoá theo công thức sau:
Câu hỏi = cái đã biết + cái chưa biết (cần tìm)
Câu hỏi thuộc phạm trù khả năng chứa đựng cả hai yếu tố: sự có mặt của cái
không rõ và nguyện vọng nhu cầu của người muốn hỏi.
Câu hỏi là một dạng cấu trúc ngôn ngữ, diễn đạt một yêu cầu, một đòi hỏi,
một mệnh đề diễn đạt bằng ngôn từ nhằm yêu cầu giải quyết.
Tuy có nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm câu hỏi nhưng đều có
điểm chung làm thành đặc trưng của câu hỏi: Sự xuất hiện cái không rõ và một
yêu cầu phải giải quyết.
Sự tương quan giữa cái đã biết và chưa biết thúc đẩy việc mở rộng hiểu
biết của con người. Để hiểu biết thêm về vấn đề nào đó con người phải xác định
rõ cái mình đã biết và cái mình chưa biết từ đó mới đặt câu hỏi: cái gì ? như thế
nào ? vì sao? lúc này câu hỏi thực sự trở thành nhiệm vụ của quá trình nhận
thức. Câu hỏi chịu ảnh hưởng của động cơ, nhu cầu hiểu biết của con người
ngày càng lớn thì việc đặt ra câu hỏi ngày càng nhiều. Vì vậy trong câu hỏi ln
chứa đựng động cơ, nhu cầu của con người muốn hỏi. Trong dạy học việc xác
định những điều đã biết, chưa biết hoặc còn đang nghi ngờ để đặt ra những câu
hỏi phù hợp là điều khơng thể thiếu.
1.2. Vai trị của câu hỏi
Câu hỏi là phương tiện dùng trong dạy và học, là nguồn để hình thành
kiến thức, kỹ năng cho học sinh.
Khi tìm được câu trả lời là người học đã tìm ra được kiến thức mới, rèn
được kỹ năng xác định mối quan hệ, đồng thời sử dụng được những điều kiện đã
cho, như vậy là vừa củng cố kiến thức, vừa nắm vững và mở rộng kiến thức.
Câu hỏi là phương tiện để rèn luyện và phát triển tư duy.

Khi trả lời câu hỏi học sinh phải phân tích xác định mối quan hệ, so sánh,
đối chiếu những điều đã cho và những điều cần tìm địi hỏi phải suy nghĩ logic.
Người học phải ln ln suy nghĩ do đó tư duy được sự phát triển cũng
qua việc tìm câu trả lời mà lôi cuốn thu hút người học vào nhiệm vụ nhận thức
do đó người học ln cố gắng.
Câu hỏi phát huy năng lực tự lực nếu được giáo viên sử dụng thành cơng
cịn có tác dụng gây được hứng thú nhận thức khát vọng tìm tịi dựa trên năng
lực tự lực cho học sinh.

-7-


Cho phép giáo viên thu được thông tin ngược về chất lượng lĩnh hội kiến
thức của học sinh. (không chỉ là chất lượng kiến thức mà cả về chất lượng tư
duy).
Những thông tin này giúp giáo viên điều chỉnh quá trình dạy học một cách
linh hoạt.
Câu hỏi phát huy năng lực tự lực được sử dụng phổ biến thích hợp cho
hầu hết các bài và thường được sử dụng phối hợp với các phương pháp dạy học
khác góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
1.3. Các loại câu hỏi
Câu hỏi vô cùng đa dạng, trong dạy học câu hỏi được sử dụng trong nhiều
trường hợp.
Tuy nhiên trong dạy học không phải với nội dung nào của bài học đều có
sẵn những câu hỏi phù hợp với mọi đối tượng học sinh.
Vì vậy trong những trường hợp khác nhau giáo viên phải tự xây dựng câu
hỏi để hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu để phát hiện kiến thức. Khi lựa chọn
và xây dựng câu hỏi giáo viên phải nắm vững các dạng câu hỏi.
Câu hỏi chỉ phát huy được tác dụng dạy học khi ta sử dụng câu hỏi phù
hợp với mục tiêu bài học đồng thời vừa sức đối với học sinh.

Có những câu hỏi sau:
1.3.1. Câu hỏi để kiểm tra kết quả thực hiện mục tiêu bài học, bao gồm có
những loại sau:
Câu hỏi để kiểm tra sự ghi nhớ kiến thức đã học.
Câu hỏi để kiểm tra sự nắm vững bản chất của kiến thức (nghĩa là nêu lại,
giải thích nội dung kiến thức đã hội đỉnh).
Câu hỏi kiểm tra vận dụng kiến thức vào giải quyết một nhiệm vụ nhận
thức mới.
Câu hỏi để kiểm tra sự nắm vững nội dung của kiến thức nghĩa là xác
định được vai trị, ý nghĩa của kiến thức trong lí luận và thực tiễn.
Câu hỏi để kiểm tra thái độ, hành vi sau khi học tập bao gồm một chủ đề
nào đó.
1.3.2. Câu hỏi để hình thành, phát triển năng lực nhận thức bao gồm
nhưng loại câu hỏi sau:
Câu hỏi rèn kĩ năng quan sát.
Câu hỏi rèn kĩ năng phân tích.
Câu hỏi rèn kĩ năng tổng hợp.
Câu hỏi rèn kĩ năng so sánh.
-8-


1.3.3. Dựa vào các giai đoạn của quá trình dạy học để sử dụng câu hỏi bao
gồm các vấn đề sau:
Câu hỏi hình thành kiến thức mới: là câu hỏi phải có vấn đề yêu cầu hoạt
động tư duy, hệ thống câu hỏi phải có tính logic và nhất định hình thành kiến
thức mới.
Câu hỏi củng cố hình thành kiến thức mới: Câu hỏi này thường có tính
khái qt hướng vào vấn đề trọng tâm có tính chất khắc sâu, hệ thống hóa kiến
thức.
Câu hỏi kiểm tra đánh giá: loại câu hỏi nay phải có tính tổng hợp và tập

trung vào kiến thức trọng tâm.
1.3.4. Dựa vào mối quan hệ của câu hỏi, bài tập cần xác định người ta
chia ra:
Câu hỏi định tính.
Câu hỏi định lượng.
1.3.5. Dựa vào cách trình bày, trả lời người ta chia ra:
Câu hỏi tự luận: loại câu hỏi này thường hỏi theo hướng cụ thể.
Câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
1.3.6. Dựa vào nội dung mà câu hỏi phản ánh người ta chia ra:
Câu hỏi nêu ra các sự kiện.
Câu hỏi xác định dấu hiệu bản chất.
Câu hỏi xác định mối quan hệ.
Câu hỏi xác định ý nghĩa lí luận hay thực tiễn của kiến thức.
Câu hỏi xác định cơ chế.
Câu hỏi xác định phương pháp khoa học.
Dựa vào nhiều tiêu chuẩn khác nhau để phân loại nên câu hỏi ở loại này
có thể thuộc về loại khác
Trong dạy học người ta thường sử dụng các câu hỏi để người học tự hình
thành và hình thành nhân cách. Do đó 6 loại câu hỏi nêu trên được sử dụng trong
dạy học môn sinh học.
Tuy vậy: Câu hỏi để phát huy năng lực tự lực của học sinh trong dạy các
bài 14, 16 có thể áp dụng các loại câu hỏi sau:
1.4. Các loại câu hỏi phát huy năng lực tự lực
1.4.1. Câu hỏi kiểm tra kiến thức.
Mục đích của dạng câu hỏi này là kiểm tra sự ghi nhớ kiến thức đã học,
nắm vững được bản chất kiến thức, giải thích và vận dụng kiến thức đã học vào
-9-


giải quyết nhiệm vụ mới hoặc xác định ý nghĩa của kiến thức trong lí luận và

trong thực tiễn.
1.4.2. Câu hỏi hình thành phát triển năng lực nhận thức.
Các phần nội dung bài học của SH6 đều có phần cung cấp thông tin, hoặc
hướng dẫn học sinh thu thập các thơng tin (là các sự vật hiện tượng, q trình,
các thí nghiệm.) Giáo viên cần xây dựng câu hỏi rèn luyện kĩ năng quan sát,
phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp để phát triển năng lực nhân thức.
1.4.3. Câu hỏi hình thành kiến thức mới.
1.4.4. Câu hỏi để củng cố hoàn thiện kiến thức.
1.4.5. Câu hỏi trắc nghiệm.
1.4.6. Câu hỏi liên hệ thực tế.
Ngồi những câu hỏi trên cịn có nhiều cách phân loại khác. Mỗi cách đều
có ý nghĩa riêng, có vai trị khác nhau đối với q trình dạy học. Từ cách phân
loại trên ta thấy rằng câu hỏi đều có vai trị rất quan trọng đối với quá trình dạy
học.
1.5. Cách tiến hành điều tra
Qua tiến hành khảo sát thực trạng dạy học sinh học nói chung và thực
trạng xây dựng câu hỏi theo hướng phát huy năng lực tôi đã tiến hành điều tra,
quan sát sư phạm, dự giờ trao đổi với các đồng nghiệp và tham khảo ý kiến cuối
cùng xin ý kiến đóng góp của 10 giáo viên của trường trung học cơ sở Lang Sơn
và cụm chuyên môn tại trường.
1.6. Kết quả
Câu hỏi 1: Khi dạy các bài 14, 16- Sinh học 6 thầy (cô) đã xây dựng
những dạng câu hỏi phát huy năng lực tự lực nào dưới đây:
Dạng câu hỏi do giáo viên xây
dựng
- Câu hỏi hình thành kiến thức
mới
- Câu hỏi củng cố và hoàn thiện
kiến thức mới
- Câu hỏi liên hệ thực tế

- Câu hỏi hình thành phát triển
năng lực nhận thức
- Câu hỏi kiểm tra kiến thức
- Câu hỏi trắc nghiệm
- Câu hỏi khác

Bài 14
Nội dung
chính
1
2
3

1

2

1

1

3

1

Bài 16
Nội dung chính
3

1

1
1

1

4

1
1

2
2

3
5
-10-


Câu hỏi 2: Xin thầy (cơ) vui lịng cho biết việc xây dựng câu hỏi phát huy
năng lực tự lực của học sinh có ý nghĩa như thế nào đối với quá trình dạy học
Kết quả theo bảng thống kê:
Vai trò của việc
xây dựng câu hỏi
- Quan trọng
- Khá quan trọng
- Bình thường
- Khơng quan trọng

Số người
(10)

5
4
1
0

Tỷ lệ
(%)
50, 0
40, 0
10, 0
0

Ghi chú

Câu hỏi 3: Xin thầy cô cho biết để xây dựng câu hỏi thầy (cơ) đã có
những biện pháp gì?
Phần lớn các giáo viên được hỏi đều trả lời có xây dựng câu hỏi nhưng
chủ yếu dựa vào câu hỏi có sẵn. Số ít các thầy cơ (thường là giáo viên giỏi) đã ít
nhiều sử dụng một số biện pháp xây dựng câu hỏi.
1.7. Nhận xét kết quả
Qua kết quả nêu trên tơi có thể nhận thấy: Phần lớn giáo viên đã có ý
thức xây dựng câu hỏi theo hướng phát huy năng lực tự lực của học sinh, giáo
viên đã nhận thấy vai trò to lớn của câu hỏi phát huy năng lực tự lực trong hoạt
động nhận thức của học sinh.
Tuy nhiên việc xây dựng câu hỏi chỉ là hình thức, giáo viên khơng quan
tâm biện pháp xây dựng hoặc không xây dựng được biện pháp câu hỏi, mà giáo
viên xây dựng phần lớn là những câu hỏi có sẵn, chưa thực sự phù hợp với từng
đối tượng học sinh chưa thực sự phát huy năng lực tự lực của các em.
Giáo viên xây dựng câu hỏi chưa có định hướng lý luận, có quy trình cụ
thể nào cho nên chất lượng câu hỏi còn hạn chế

1.8. Nguyên nhân của thực trạng trên
Do rất nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng nguyên nhân cơ bản nhất là
giáo viên chưa có cơ sở lý thuyết để chỉ đạo, giáo viên chưa hiểu được quy trình,
biện pháp để xây dựng câu hỏi nên hệ thống câu hỏi mà giáo viên xây dựng chất
lượng chưa cao.
Nếu có cơ sở chỉ đạo, có quy trình tất thì chắc chắn chất lượng các câu
hỏi sẽ cao hơn.
2. Các biện pháp thực hiện để xây dựng câu hỏi
2.1. Quy trình xây dựng câu hỏi theo hướng phát huy năng lực tự lực
của học sinh
2.1.1. Nguyên tắc chung
- Câu hỏi tập trung vào vân đề nghiên cứu.
-11-


- Câu hỏi mang tích chất nêu vấn đề, buộc học sinh phải ln ở trạng thái
có vấn đề.
- Hệ thống câu hỏi - lời giải đáp thể hiện một cách logic chặt chẽ, các
bước giải quyết một vấn đề lớn tạo nên nội dung trí dục chủ yếu của bài, là
nguồn tri thức cho học sinh.
- Trong nhiều trường hợp giáo viên nên nêu ra nhiều câu hỏi gây sự tranh
luận. Trong cả lớp, tạo điều kiện phát triển tính độc lập tư duy của học sinh, lập
luận theo quan điểm riêng của mình.
2.1.2. Để thiết kế được câu hỏi cần thực hiện theo quy trình sau:
Các bước
tiến hành
1
2
3
4

5

Nội dung thực hiện
- Xác định rõ và đúng mục tiêu của câu hỏi
- Liệt kê những cái cần hỏi và sắp xếp những cái cần hỏi theo
một trình tự phù hợp với các hoạt động học tập
- Diễn đạt các câu hỏi
- Xác định những nội dung cần trả lời
- Chỉnh sửa lại nội dung và hình thức diễn đạt để đưa câu hỏi vào sử
dụng

2.1.3. Giải thích quy trình
2.1.3.1. Xác định rõ và đúng mục tiêu câu hỏi
Nghĩa là muốn học sinh trả lời ở múc độ nào về kiến thức, tư duy, kĩ năng
như vậy giáo viên phải hiểu mục tiêu bài dạy, biện pháp tổ chức thực hiện bài
dạy năng lực của học sinh.
2.1.3.2. Liệt kê cái cần hỏi và sắp xếp những cái cần hỏi theo một trình tự
nhất định phù hợp với các trình tự hoạt động học tập
Trong mỗi nội dung mỗi bài có nhiều thơng tin kiến thức, giáo viên có thể
xây dựng nhiều câu hỏi dựa vào các thông tin, kiến thức đó. Việc xây dựng và
sử dụng câu hỏi phát huy năng lực tự lực chỉ có hiệu quả khi được xây dựng và
đặt vào đúng vị trí với nội dung và mục đích phù hợp. Vì vậy hệ thống câu hỏi
phải sắp xếp theo một trình tự logic nhất định (phù hợp với nội dung bài dạy và
theo trình tự hoạt động các hoạt động học tập) để hình thành nên kiến thứ mới,
rèn luyện nên các thao tác tư duy, hình thành nên kĩ năng, kĩ sảo, các câu hỏi
phát huy năng lực tự lực phải có tính kế thừa hỗ trợ nhau tạo nên tri thức hoàn
chỉnh.
2.1.3.3. Diễn đạt cái cần hỏi
- Mỗi câu hỏi đều chứa đựng hai nội dung: Điều đã biết và điều cần tìm.
Điều đã biết và điều cần tìm. Điều đã biết và điều cần tìm có quan hệ với nhau,

điều đã biết và điều cần tìm là cơ sở để suy ra điều cần tìm, hay điều cần tìm là
hệ quả của điều đã biết.
-12-


- Điều đã biết là những thông tin được nêu trong sách giáo khoa hay
những kiến thức vẫn được thu nhận trước đó, điều đã biết thể hiện qua kênh chữ
hoặc kênh hình.
- Điều cần tìm là mối quan hệ giữa các hiện tượng hay đặc điểm bản chất,
hay xác định kỹ năng ứng dụng, phương pháp luận hay nguyên nhân giải thích.
Dựa vào đó giáo viên có thể diễn đạt trong câu hỏi theo trình tự khác nhau: Điều
đã biết điều cần tìm hay điều ngược lại.
2.1.3.4. Xác định nội dung cần trả lời
Tìm nội dung trả lời để xác định câu hỏi có trả lời được hay khơng? Câu
trả lời có phù hợp với trình độ của học sinh hay không? Nếu không cần sửa lại
như thế nào?
2.1.3.5. Chỉnh sửa lại nội dung và hình thức diễn đạt câu hỏi để đưa vào
sử dụng.
Đây là khâu cuối cùng, câu hỏi lúc này giống như viên ngọc đã được gọt
rũa cẩn thận để đưa vào sử dụng nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
2.2. Xây dựng câu hỏi để dạy bài 14, 16- sinh học 6
2.2.1 Các câu hỏi để dạy bài 14 (Thân dài do đâu)
Nội dung 1- Sự dài ra của thân.
Thí nghiệm làm trước 2 tuần, các nhóm báo cáo kết quả
Thí nghiệm và thảo luận các câu hỏi sau:
2.2.1.1 So sánh chiều cao của hai nhóm thân trong thí nghiệm ngắt ngọn
và khơng ngắt ngọn
2.2.1.2. Hãy cho biết thân cây dài ra do bộ phận nào?
2.2.1.3. Xem lại bài 8, giải thích tại sao thân dài ra được?
Nội dung 2- Giải thích các hiện tượng thực tế.

Hoạt động theo nhóm, các nhóm thảo luận, giải thích từng hiện tượng
thực tế ở sách giáo khoa theo câu hỏi.
2.2.1.4. Trình bày thí nghiệm để biết cây dài do bộ phận nào?
2.2.1.5. Bấm ngọn tỉa cành có lợi gì?
2.2.1.6. Những ngọn cây nào thì bấm ngọn ? những cây nào thì tỉa cành ?
Cho ví dụ ?
2.2.1.7. Giải thích vì sao người ta lại làm như vậy.
Nội dung 1- Kết luận và kiểm tra đánh giá
2.2.1.8. Qua bài học em rút ra được những điều gì?
2.2.1.9. Đánh dấu nhân (x) vào những thân cây dài ra nhanh.
-13-


a- Mồng tơi

d- Đậu ván

h- ổi

b- Mướp

e- Tre

i- Nhãn

c- Bí

g- Mít

k- Bạch đàn


2.2.1.10. Hãy đánh dấu vào  cho ý trả lời đúng nhất của các câu hỏi
sau đây.
* Thân dài ra do :
 Sự lớn lên và phân chia tế bào.
 Chồi ngọn.
 Mô phân sinh ngọn.
 Sự phân chia tế bào ở mô phân sinh ngọn.
2.2.2. Các câu hỏi để dạy bài 16 (Thân to ra do đâu)
Nội dung 1- Mở bài
2.2.2.1. Vậy thân to ra nhờ bộ phận nào ?
2.2.2.2. Thân cây gỗ trưởng thành có cấu tạo như thế nào ?
Nội dung 2- Tầng phát sinh
2.2.2.3. Quan sát H16.1, Cấu tạo của thân trưởng thành có gì khác với cấu
tạo trong của thân non ?
2.2.2.4. Theo em nhờ bộ phận nào mà thân to ra được (vỏ trụ giữa, cả vỏ
và trụ giữa ) ?
2.2.2.5. Vỏ cây to ra nhờ bộ phận nào ?
2.2.2.6. Trụ giữa to ra nhờ bộ phận nào ?
2.2.2.7. Thân cây to ra nhờ đâu ?
Nội dung 3- Vòng gỗ hàng năm
Quan sát H16.2
2.2.2.8. Vịng gỗ hành năm là gì? Tại sao có vịng gỗ sẫm và vịng gỗ
sáng màu?
2.2.2.9. Làm thế nào để đếm được tuổi cây?
Nội dung 4- Kết luận và kiểm tra đánh giá
2.2.2.10. Qua bài học em rút ra những kết luận gì?
2.2.2.11. Cây gỗ to ra do đâu?
2.2.2.12. Có thể xác định tuổi của cây gỗ bằng cách nào?
2.2.2.13. Em hãy tìm ra sự khác nhau cơ bản giữa dác và ròng ?

2.2.2.14. Người ta thường dùng phần nào của gỗ để làm vật liệu xây
dựng ?
-14-


3. Xác định hiệu quả của những câu hỏi đề xuất
3.1. Phương pháp xác định
Sau khi xây dựng câu hỏi theo hướng phát huy năng lực tự lực, khi dạy các
bài 14, 16 và trong khi soạn bài tôi đã xây dựng một hệ thống câu hỏi cụ thể ở
các bài đó như sau:
Bài 14 - Thân dài do đâu: bao gồm 10 câu hỏi.
Từ câu 3.2.1.1 - 3.2.1.10.
Bài 16 - Thân to ra do đâu: Bao gồm 14 câu hỏi.
Từ câu 3.2.2.1 - 3.2.2.14.
Ngoài bài soạn, xây dựng hệ thống câu hỏi tơi cịn tiến hành điều tra tham
khảo trên tổng số 10 giáo viên ở các trường trong cụm. Để xác định hiệu quả của
những câu hỏi đã xây dựng.
Xin thầy (cô) cho biết trong các câu hỏi của bài bài 14 (3.2.1.1 – 3.2.1.10),
và bài 16 (3.2.2.1- 3.2.2.14) những câu hỏi nào tốt, những câu hỏi nào khá có
thể sử dụng hiệu quả trong giảng dạy, câu hỏi nào chưa tốt (do sai hay học sinh
không trả lời được)
3.2. Kết quả sau khi điều tra
Sau khi tham khảo ý kiến của giáo viên về hiệu quả của những câu hỏi đã đề
xuất, tôi tập hợp thu được kết quả của bảng thống kê dưới đây:
Số được giáo viên sử dụng
Bài dạy

Bài14: Thân dài
do đâu.
Bài16: Thân to ra

do đâu.
Tổng

Kết quả tốt

Kết quả khá

Số câu hỏi chưa tốt
Câu hỏi học
sinh không trả
Câu hỏi sai
lời được
Số
Số
%
%
lượng
lượng

Số lượng

%

Số lượng

%

7

70,0


3

30,0

0

0,0

0

0,0

9

64,3

4

28,6

1

7,1

0

0,0

16


66.7

7

29.2

1

4.1

0

0,0

Từ kết quả thu được thông qua thống kê tôi nhận thấy hiệu quả của những
câu hỏi phát huy năng lực tự lực đã xây dựng là rất lớn.
Số câu hỏi được giáo viên đánh giá là rất tốt đem lại hiệu quả cao trong khi
dạy là 66.7%, Số câu hỏi được đánh giá ở mức khá là 29.2%, số câu hỏi chưa tốt
chỉ chiếm 4.1%.
Song phần lớn số câu hỏi giáo viên cho là chưa tốt (những câu hỏi học sinh
không trả lời được) tuy chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ song đấy cũng là thực tế. Về trình độ
của học sinh hiện nay chưa thực sự đồng đều hoặc câu hỏi do giáo viên nêu ra
-15-


chưa thực sự cơ đọng dễ hiểu, hoặc q khó, do vậy không phải học sinh nào
cũng trả lời được.
III. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG, NHÂN RỘNG


Qua thực tiễn dạy học môn sinh học ở  trường phổ thông, tôi nhận thấy
rằng cách học của đa số học sinh trong môn sinh học là hết sức thụ động, thầy
cô giảng dạy như thế nào là về nhà học thuộc lịng “máy móc” như thế, ít chịu
nghiên cứu tìm tịi, dẫn đến những kết quả không mong đợi, học sinh ngày càng
ngán học môn sinh học và kết quả học tập, thi cử ngày càng khơng cao. 
Với tình hình như vậy, trong dạy học tôi đã vận dụng nhiều phương pháp
nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh cũng như hướng dẫn đổi mới phương
pháp học tập cho học sinh.
Qua nghiên cứu tài liệu, học hỏi và rút kinh nghiệm từ bản thân tôi thấy
rằng việc tự giác học tập của học sinh là rất quan trọng, đồng thời tự học cũng
phải có phương pháp, khi tơi  đưa những phương pháp đã nêu trên hướng dẫn
học sinh tự học thì học sinh rất hứng thú và kết quả ngày càng đáng khích
lệ. Trong thực tế những phương pháp trên đã góp phần đáng kể vào việc rèn
luyện khả năng tự học của học sinh trung học cơ sở nhất là với học sinh lớp 6.
Trong học kỳ I năm học 2018-2019, tôi đã rèn kĩ năng cho học sinh qua
các tiết dạy. Với giải pháp này, tôi đã được kết quả cụ thể như sau.
Khi chưa áp dụng giải pháp, hầu hết khả năng tự học của các em học sinh
còn rất hạn chế:
Năm học

Khối

2017-2018

6

Tổng số
học sinh

48


Khả năng tự học

Khó khăn khi

của học sinh

tự học

TS

%

TS

%

26

54,2

22

45,8

Khi tôi áp dụng và triển khai sáng kiến: Khả năng tự học của các em học
sinh được cải thiện đáng kể, cụ thể:
Học kỳ I Năm
học
2018-2019


Khối

6

Tổng số
học sinh
53

Khả năng tự học

Khó khăn khi

của học sinh

tự học

Số lượng

%

Số lượng

%

41

77,4

19


22,6

Như vậy, kiến thức, kĩ năng trình bày của học sinh được nâng lên đồng
thời đa số các em học sinh có hứng thú với mơn học.
-16-


Bên cạnh đó các em có kiến thức, kĩ năng cơ bản đã giúp các em tự tin và
đăng ký học.
Qua việc nghiên cứu sáng kiến tôi thấy rằng: Muốn giảng dạy đạt hiệu quả
cao thì người giáo viên phải thường xuyên tiếp tục đổi mới cách thức tổ chức
dạy, tiếp cận cái mới, cái tiên tiến và bản thân cũng phải tích cực tự đổi mới, đổi
mới từ tư tưởng đến hành động.
Đồng thời với việc đó thì những tài liệu, tư liệu tham khảo là vô cùng quan
trọng và khơng thể thiếu.
Tích cực dự giờ thăm lớp, trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp, giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ.
Việc thực hiện nghiên cứu thực nghiệm và giảng dạy theo sáng kiến kinh
nghiệm thực sự đem lại cho tôi nhiều bài học quý báu mà cái quý nhất, đáng giá
nhất là chất lượng bộ môn không ngừng được nâng lên, kết quả đó được thể hiện
rõ trong bảng khảo sát thực nghiệm và kết quả giảng dạy.
Hơn thế nữa, nhờ việc áp dụng sáng kiến mà đã góp phần nâng cao chất
lượng môn sinh học tại trường trung học cơ sở Lang Sơn.
IV. GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN.

Sáng kiến "Xây dựng câu hỏi theo hướng phát huy năng lực tự lực của
học sinh trong dạy các bài 14, 16- Sinh học 6" đã được tổ Khoa học tự nhiên
trường trung học cơ sở Lang Sơn thống nhất áp dụng với đối với đối tượng học
sinh trường trung học cơ sở từ năm học 2018-2019, trước tiên là với bộ môn

sinh học khối 6.
Sáng kiến này, được áp dụng để giúp học sinh nâng cao khả năng tự học và
ghi nhớ kiến thức môn sinh học trong các tiết học. Sáng kiến kinh nghiệm cũng
được áp dụng để bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi môn sinh học lớp 8 và lớp 9
đã đạt hiệu quả.
Bản thân tôi sẽ cố gắng tiếp tục nghiên cứu để sáng kiến được hoàn thiện
hơn, giúp sáng kiến phát huy hiệu quả trong giảng dạy mơn sinh học và có thể
áp dụng hiệu quả với các môn học khác.

-17-


CHƯƠNG III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN

Sau một thời gian nghiên cứu và thực hiện Sáng kiến kinh nghiệm này, tôi
đã tổng kết và rút ra những kết luận như sau:
- Xác định được cơ sở lý luận và cơ sỏ thực tiễn trong quá trình giảng dạy
với việc xây dựng câu hỏi phát huy năng lực tự lực làm cơ sỏ để đề xuất những
biện pháp xây dựng câu hỏi.
- Trước mỗi bài học, mỗi mục giáo viên cần nêu lên mục tiêu cần đạt,
điều đó giúp học sinh hình dung được nội dung bài học.
- Sự động viên, khích lệ của thầy cơ là rất cần thiết. Từ đó có thể là những
lời khen, cũng có thể là những điểm số.
- Kết hợp nhiều phương pháp, biện pháp dạy học khác nhau. Sử dụng
phương tiện dạy học cho phù hợp, để các bài dạy đạt kết quả tốt hơn.
- Những biện pháp trên được tôi rút ra từ thực tế cũng như thông qua trao
đổi với đồng nghiệp, có thể vẫn cịn hạn chế. Vậy tơi mong được tiếp thu ý kiến
đóng góp của Ban giám hiệu, Hội đồng khoa học nhà trường và Hội đồng khoa
học của Phòng giáo dục và đào tạo để từ đó có thể trao đổi, rút kinh nghiệm giúp

tôi nâng cao chất lượng giảng dạy ở bộ môn sinh học.
II. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ

Để việc dạy và học mơn sinh học lớp 6 nói riêng và bộ mơn sinh học
trung học cơ sở nói chung đạt hiệu quả cao, tơi có một số đề xuất sau:
- Với các nhà trường: Cần có đủ đị dùng thiết bị dạy học để phục vụ tốt
hơn cho việc dạy và học bộ môn sinh học, nhất là các bài thực hành sinh học.
Thường xuyên tổ chức các chuyên đề, sinh hoạt nhóm chun mơn để
giáo viên học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với nhau, giúp nhau cùng tiến bộ.
- Đối với giáo viên: Cần nghiên cứu kĩ nội dung và chương trình sách
giáo khoa, tham khảo kiến thức thực tiễn, soạn giáo án cụ thể và chi tiết, thiết kế
hệ thống câu hỏi thu hút các đối tượng học sinh tham gia.
Tích cực học hỏi và tham gia các chun đề sinh hoạt tổ, nhóm chun để
nâng cao trình độ tay nghề.
Hướng dẫn học sinh về nhà tích cực học bài và làm bài tập đầy đủ./.
Hạ Hòa, ngày 10 tháng 5 năm 2019
NGƯỜI THỰC HIỆN

Hoàng Kim Thức
-18-


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung
ương khố XI.
2. Nguyễn Như Ất
“Tìm hiểu chiến lược giáo dục 2001 - 2010”
3. Đinh Quang Báo, Nguyễn Đức Thành
“Lý luận dạy học sinh học” phần Đại cương
NXB Giáo dục - Hà Nội, 1996.

4. Trần Bá Hoành
“Đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS”
NXB Giáo dục Hà Nội - 2000
5. Trần Bá Hoành, Trịnh Nguyên Giao
“Phát triển các phương pháp dạy học tích cực” trong bộ môn sinh học
NXB Giáo dục, Hà Nội - 2000
6. Sinh học 6 - Sách giáo viên
Nhà xuất bản Giáo dục.
7. Thiết kế bài giảng sinh học 6
Nhà xuất bản ĐH quốc gia Hà Nội.
8. Sinh học 6 - Sách giáo khoa
Nhà xuất bản Giáo dục.

-19-


-20-



×