Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

khóa luận tốt nghiệp thực trạng thị trường bán lẻ châu á và những kiến nghị đối với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 91 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

---------***---------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:

THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ CHÂU Á
VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Sinh viên thực hiện
Lớp
Khóa
Giáo viên hướng dẫn

: Đỗ Thu Trang
: Anh 8
: 45B
:ThS.Nguyễn Thị Xuân Hường

Hà Nội, tháng 5 năm 2010


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng II.1: Tốc độ tăng trưởng số lượng các cửa hàng bán lẻ (%) 2007 – 2008

15


Bảng II.2: Các quốc gia châu Á được xếp hạng 30 thị trường bán lẻ hấp dẫn
nhất thế giới
29
Bảng III.1: Số lượng cửa hàng bán lẻ theo loại hình tại 6 thành phố lớn nhất
Việt Nam
47


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ I.1: Phân loại hệ thống bán lẻ truyền thống
Biểu đồ II.1: Thị phần (%) của hệ thống bán lẻ truyền thống và hiện đại ở Châu Á
(trừ Nhật Bản)

7

16

Biểu đồ II.2: Số lượng các cơ sở bán lẻ và doanh thu của Tesco trên thị trường
châu Á 2000-2008

23

Biểu đồ II.3: Tỷ lệ tăng trưởng FMCG (%) tính đến tháng 3 năm 2009

28

Biểu đồ II.4: Giá trị các hợp đồng M&A theo khu vực (6/2008-6/2009)

36


Biểu đồ III.1: Số lượng dân cư sống ở các đô thị lớn ở Việt Nam 2004-2009

61

Biểu đồ III.2: Thu nhập khả dụng/đầu người và chi tiêu người dân Việt Nam
2002-2012

62

Biểu đồ III.3: Mức giá thuê trung bình/m2/tháng và mức giá thuê cao
nhất/m2/tháng mặt bằng bán lẻ tại các trung tâm thương mại ở một số thành phố
68

châu Á

HỆ THỐNG CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT


TỪ VIẾT TẮT

THUẬT NGỮ ĐẦY ĐỦ

NGHĨA TIẾNG VIỆT

CPFR

Collaborative Planning,
Forecasting and
Replenishment


Hoạch định, dự báo và bổ
sung theo mơ hình cộng tác

CRM

Customer Relationship
Management

Quản lý quan hệ với khách
hàng

ENT

Economic Needs Test

Kiểm tra nhu cầu kinh tế

FMCG

Fast moving consumer goods

Hàng hóa tiêu dùng nhanh

GATS

General Agreement on Trade
in Services

Hiệp định chung về thương

mại dịch vụ

Global Retail Development

Chỉ số phát triển bán lẻ toàn

Index

cầu

KFTC

Korean Fair Trade
Commission

Ủy ban thương mại lành
mạnh Hàn Quốc

M&A

Merger and Acquisition

Mua lại và sáp nhập

RFID

Radio-Frequency
Identification

Hệ thống nhận dạng tự động

từ xa

WTO

World Trade Organization

Tổ chức Thương mại Thế giới

GRDI


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Châu Á đang nổi lên là châu lục phát triển năng động nhất thế giới. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế của các quốc gia châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ luôn được
ghi nhận thuộc vào những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Sự vươn lên
mạnh mẽ của châu lục từng bị lãng quên này được thể hiện qua nhiều khía cạnh,
trong đó sự phát triển của thị trường bán lẻ là một trong những bức tranh rõ nét
nhất minh chứng cho thời kỳ đỉnh cao của châu Á. Thị trường châu Á trong thời
đại hiện nay không chỉ đi theo những xu thế đã được tạo dựng trên thế giới mà
dần thể hiện vị thế chủ động khi tạo ra những bước ngoặt trong lịch sử phát triển
của nền kinh tế toàn cầu.
Một trong những khuynh hướng nổi bật trong lĩnh vực thương mại toàn
cầu trong thế kỷ 20 chính là sự mở rộng lãnh địa kinh doanh của các tập đoàn
bán lẻ ra khỏi biên giới quốc gia. Và có thể nói rằng, sự kiện các tập đoàn bán lẻ
hàng đầu châu Âu và Bắc Mỹ đặt chân vào thị trường châu Á là một cột mốc
trong lịch sử thương mại thế giới. Thời kỳ trước những năm 1980, tầm ngắm của
các nhà bán lẻ châu Âu chỉ dừng lại ở các quốc gia châu Âu khác. Một số lượng
nhỏ chỉ bắt đầu chú ý đến thị trường Bắc Mỹ và thành công của họ ở khu vực này
khá khiêm tốn. Tương tự, sự xâm chiếm của các doanh nghiệp bán lẻ đến từ Mỹ

hay Canada vào thị trường Châu Âu không mang lại kết quả thành cơng như
mong đợi. Chỉ đến khi các tập đồn bán lẻ ở hai châu lục phát triển nhất thế giới
này bắt đầu tìm kiếm cơ hội và tiến đến thị trường châu Á, khái niệm tồn cầu
hóa khu vực bán lẻ mới thực sự bước sang một trang mới.
Thị trường bán lẻ Việt Nam cũng khơng nằm ngồi xu thế chung. Đây là
thị trường luôn được đánh giá cao và thường xuyên nhận được những dự báo khả
quan về mức độ cũng như tốc độ phát triển trong thời gian tới. Tuy nhiên, thị
trường bán lẻ vẫn đang ở giai đoạn đầu phát triển. Vì vậy, thị trường bán lẻ Việt
Nam vẫn rất cần những định hướng phát triển chi tiết, hợp lý.

1


Xuất phát từ thực tế đó, em chọn đề tài: “Thực trạng thị trường bán lẻ
châu Á và những kiến nghị đối với Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu
Thứ nhất, khái quát về mặt lý luận, phân tích những đặc điểm chính của
thị trường châu Á hiện nay cũng như những xu thế phát triển mới trong tương lai.
Một số thị trường tiêu biểu cũng được phân tích nhằm rút ra những bài học cho
những thị trường phát triển sau. Bên cạnh đó, khóa luận cũng đưa ra những đánh
giá về những tập đoàn bán lẻ lớn đến từ châu lục khác hay những tập đoàn bán lẻ
mạnh nhất châu Á thơng qua việc tìm hiểu những yếu tố quyết định thành cơng
của những tập đồn này.
Thứ hai, từ những phân tích đánh giá rút ra trên thị trường châu Á, rút ra
những kinh nghiệm cho sự phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam trong quá
trình quy hoạch, phát triển thị trường theo hướng hiện đại hóa.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của bài khóa luận là các hoạt động, xu hướng bán lẻ
đang diễn ra trên thị trường châu Á nói chung và thị trường bán lẻ Việt Nam nói
riêng. Đặc biệt trên thị trường Việt Nam, các nghiên cứu dành sự chú ý cho

những ảnh hưởng từ việc trở thành thành viên của WTO đến thị trường Việt
Nam.
Phạm vi nghiên cứu tập trung nhiều vào thị trường Đông Á và Đông Nam
Á, bao gồm 10 quốc gia ASEAN, Trung Quốc, Hồng Kơng, Đài Loan và Hàn
Quốc. Nghiên cứu của bài khóa luận không bao gồm Nhật Bản do thị trường bán
lẻ ở quốc gia này đã phát triển khá lâu và hiện nay đã được xếp vào một trong
những thị trường có dấu hiệu bão hịa.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp
phân tích – tổng hợp, kết hợp lý luận với thực tiễn, phân tích, đánh giá nhằm rút
ra những bài học kinh nghiệm hợp lý.

2


5. Kết cấu khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục thuật ngữ viết tắt và tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn của em được chia làm ba phần:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận chung về thị trường bán lẻ.
Chƣơng 2: Thực trạng thị trường bán lẻ châu Á.
Chƣơng 3: Thị trường bán lẻ Việt Nam và những kiến nghị nhằm phát
triển thị trường trong tương lai.

Trong q trình hồn thành luận văn tốt nghiệp, em đã nhận được sự
hướng dẫn nhiệt tình cũng như những ý kiến đóng góp vơ cùng q giá của Thạc
sỹ Nguyễn Thị Xuân Hƣờng. Em xin gửi tới cô lời cảm ơn chân thành và sâu
sắc nhất. Luận văn của em khơng tránh khỏi những thiếu sót do đề tài tương đối
rộng trong khi khn khổ của bài khóa luận lại hạn chế. Em rất mong nhận được
sự thông cảm và góp ý từ phía các thày cơ và các bạn.


3


CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ
TRƢỜNG BÁN LẺ
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ PHÂN LOẠI THỊ TRƢỜNG BÁN LẺ
1. Các khái niệm về bán lẻ
1.1 Thị trƣờng bán lẻ


Thị trường bán lẻ: được hiểu là thị trường trên đó người bán (cá nhân hay

các cơng ty, gọi chung là nhà bán lẻ) bán sản phẩm trực tiếp đến người mua
(người tiêu dùng cuối cùng).


Dịch vụ bán lẻ: Theo tài liệu số MTN.GNS/W/120 được xây dựng trong

vòng đàm phán Urugoay dựa trên hệ thống phân loại sản phẩm của Liên Hợp
Quốc thì bán lẻ là một trong bốn nhóm dịch vụ chính của dịch vụ phân phối.
Dịch vụ phân phối được quy định bao gồm:
 Dịch vụ đại lý hoa hồng
 Dịch vụ bán buôn
 Dịch vụ nhượng quyền thương mại
 Dịch vụ bán lẻ
1.2 Nhà bán lẻ
1.2.1 Nhà bán lẻ:
Nhà bán lẻ là người bán sản phẩm (hàng hóa hay dịch vụ) đến khách hàng.
Khách hàng mua sản phẩm vì mục đích tiêu dùng của cá nhân hay gia đình mình.
Bán lẻ là khâu kinh doanh cuối cùng trong chuỗi phân phối hàng hóa/dịch vụ của

nhà sản xuất đến người tiêu dùng. Nhà sản xuất tạo ra sản phẩm và phân phối đến
cho các nhà bán buôn. Nhà bán buôn lại phân phối sản phẩm nhận từ nhà sản
xuất đến các nhà bán lẻ khác. Cuối cùng, nhà bán lẻ sẽ bán lại sản phẩm đến

4


người tiêu dùng. Trong chuỗi phân phối, nhà bán buôn có thể đồng thời hoạt
động như nhà bán lẻ và ngược lại.
1.2.2 Chức năng của nhà bán lẻ trên thị trường:


Tập hợp và cung cấp một chuỗi các loại hàng hóa/dịch vụ khác nhau
Nhà bán lẻ sẽ gom sản phẩm từ các nhà bán buôn và bán lại cho người

tiêu dùng. Sản phẩm mang các nhãn hiệu khác nhau với số lượng, chủng loại,
kích cỡ, màu sắc đa dạng. Tuy vậy, mỗi nhà bán lẻ thường tập trung vào một số
lĩnh vực nhất định.


Chia nhỏ sản phẩm
Nhà bán buôn phân phối sản phẩm theo từng lô hàng hay kiện hàng với số

lượng lớn. Nhà bán lẻ có nhiệm vụ chia nhỏ những sản phẩm này phục vụ nhu
cầu tiêu dùng cá nhân.


Lưu trữ hàng tồn kho
Một chức năng quan trọng của nhà bán lẻ là lưu trữ hàng hóa phục vụ nhu


cầu người tiêu dùng. Thông qua chức năng này, nhà bán lẻ giúp người tiêu dùng
giảm thiểu chi phí dự trữ hàng hóa. Khoản đầu tư cho việc dự trữ hàng hóa của
người tiêu dùng do đó có thể chuyển thành các khoản đầu tư khác mà người tiêu
dùng có thể hưởng lãi suất như khoản tiền gửi tiết kiệm.


Cung cấp dịch vụ hỗ trợ
Bên cạnh chức năng chính là bán hàng hóa, nhà bán lẻ cịn cung cấp cho

khách hàng những dịch vụ khiến cho việc mua sắm của họ trở nên dễ dàng và
thuận lợi hơn như việc trưng bày một số mẫu thử sản phẩm mới cho khách hàng
dùng miễn phí hay ở một tầm cao là cho khách hàng vay tiền để mua hàng của họ
Với tất cả chức năng trên của mình, nhà bán lẻ đã thực hiện được nhiệm
vụ quan trọng nhất là làm gia tăng giá trị hàng hóa và dịch vụ mà khách hàng
nhận được.

5


Từ những khía cạnh đã phân tích ở trên, chúng ta có thể định nghĩa hoạt
động bán lẻ là hoạt động kinh doanh làm gia tăng giá trị đối với hàng hóa hay
dịch vụ bán cho người tiêu dùng vì mục đích sử dụng của cá nhân hay gia đình.
Hoạt động bán lẻ không chỉ diễn ra trong các cửa hàng mà còn bao gồm các hoạt
động bán hàng qua điện thoại, qua mạng Internet, các dịch vụ chăm sóc, làm đẹp,
v.v.
2. Những đặc điểm của thị trƣờng bán lẻ
Trên thị trường bán lẻ, hàng hóa được bán đến tay người tiêu dùng cuối
cùng. Người này mua hàng theo nhu cầu và sử dụng cho bản thân hay gia đình
mà khơng bán lại nhằm mục đích kinh doanh hay bất cứ mục đích sinh lời nào
khác. Đây được coi là đặc điểm cơ bản phân biệt thị trường bán lẻ với các thị

trường giao dịch hàng hóa khác.
Thị trường bán lẻ cung cấp hàng hóa với những chủng loại đa dạng, nhãn
hiệu và có thể phục vụ mọi đối tượng khách hàng sinh sống ở các vùng địa lý
khác nhau. Hàng hóa trên thị trường bán lẻ có thể được phân thành hai loại:
 Nhóm các sản phẩm lương thực, thực phẩm và các loại hàng hóa liên quan
(food sector), bao gồm: lương thực (gạo, ngũ cốc, bột mì,…); thực phẩm (tươi
sống hay đã qua chế biến); đồ uống (rượu, bia, nước giải khát); .v.v.
 Nhóm các sản phẩm phi thực phẩm (non-food sector), bao gồm: đồ điện tử
dân dụng hay gia dụng; hóa mỹ phẩm, sản phẩm chăm sóc sức khỏe hay sắc
đẹp; các sản phẩm thời trang: hàng dệt, may, da giày…; văn phòng phẩm;
sách báo; đồ chơi; máy tính và các phần mềm máy tính; .v.v.
3. Phân loại các loại hình thức bán lẻ trên thị trƣờng
Cách phân chia cơ bản nhất và được sử dụng nhiều nhất khi phân tích hay
nghiên cứu thị trường bán lẻ là phân loại dựa vào mơ hình kinh doanh. Theo đó
thị trường bán lẻ bao gồm hai hình thức kinh doanh chính:

6


3.1 Hệ thống bán lẻ truyền thống

Hệ thống bán lẻ
truyền thống

Chợ

Các cửa hàng độc lập:
+ tiệm tạp hóa
+ cửa hàng bán sỉ


Đại lý của nhà sản
xuất, phân phối

Biểu đồ I.1: Phân loại hệ thống bán lẻ truyền thống

Trong các mô hình bán lẻ truyền thống, chợ là hình thức bán lẻ sơ khai
nhất, tồn tại từ khi loài người bắt đầu thoát khỏi thời kỳ tự cung tự cấp và bắt đầu
biết trao đổi những thứ mình sản xuất thừa, không dùng đến. Trong xã hội hiện
đại ngày nay chợ vẫn tồn tại ở các quốc gia phát triển nhất tới các quốc gia kém
phát triển.
3.2 Hệ thống bán lẻ hiện đại
Theo công ty nghiên cứu thị trường thuộc tập đoàn IBM (Hoa Kỳ) năm
2007, Euromonitor và Nielsen 2008, hệ thống kinh doanh bán lẻ hiện đại gồm
những mơ hình chính sau:
3.2.1 Trung tâm mua sắm (department store)
Trung tâm mua sắm là một tổ hợp thương mại lớn bao gồm các gian hàng
bán lẻ hàng hóa hay cung cấp dịch vụ. Tất cả những gian hàng này được bố trí
dưới cùng một mái vòm, cung cấp đa dạng các chủng loại mặt hàng từ các mặt
hàng tiêu dùng thiết yếu tới các hàng hóa lâu bền, bao gồm: quần áo, sản phẩm
dệt may, giày dép, đồ điện tử, đồ chơi, nội thất, phần mềm máy tính, trang sức,
mỹ phẩm, dụng cụ thể thao, v.v. Trung tâm mua sắm lớn nhất trên thế giới hiện

7


nay là trung tâm Shinsegae Centum City của tập đoàn Shinsegae (Hàn Quốc) đặt
tại thành phố Busan.
3.2.2 Đại siêu thị (hypermarket)
Đại siêu thị là các mơ hình kinh doanh bán lẻ có quy mơ lớn nhất với tổng
diện tích sàn vào khoảng 30.000 mét vuông. Số mặt hàng bày bán có thể lên tới

25.000. Các mặt hàng lương thực, thực phẩm chiếm từ một phần ba đến hai phần
ba tổng số sản phẩm bày bán. Tại các đại siêu thị, người tiêu dùng có thể mua
sắm các mặt hàng khác khơng nằm trong nhóm lương thực, thực phẩm như mỹ
phẩm, các sản phẩm chăm sóc sức khỏe.
3.2.3 Siêu thị (supermarket)
Siêu thị được xây dựng trên mơ hình người mua sắm tự phục vụ. Diện tích
sàn của các siêu thị nằm trong khoảng từ 5.000 đến 30.000 mét vuông. Số loại
sản phẩm bày bán vào khoảng 15.000. Khoảng hai phần ba các sản phẩm bày bán
trong siêu thị là lương thực, thực phẩm. Thơng thường các siêu thị cịn cung cấp
thêm quầy đồ ăn sẵn và hiệu bánh mỳ.
3.2.4 Cửa hàng tiện ích (convenience store)
Các cửa hàng tiện ích là các mơ hình cửa hàng bán lẻ quy mơ nhỏ. Diện
tích mỗi cửa hàng thường dưới 3000 mét vuông, số các mặt hàng bày bán dưới
5000 loại. Các cửa hàng này thường mở ở những nơi giao thông thuận lợi, tập
trung dân số, giờ hoạt động thường muộn hơn các loại hình khác. Sản phẩm bày
bán chủ yếu là các mặt hàng tiêu dùng hàng ngày và giá cả thường cao hơn so
với hàng hóa trong siêu thị.
3.2.5 Cửa hàng giảm giá (discount store):
Là hệ thống các cửa hàng cho phép khách hàng tiếp cận với những chủng
loại hàng hóa giá rẻ, ở vị trí khá thuận lợi về giao thơng. Đặc điểm của mơ hình
kinh doanh này là chi phí mặt bằng thấp, số lượng nhân lực giới hạn, tiết kiệm
đầu tư vào marketing. Hàng hóa được trưng bày với số lượng khá đa dạng. Mỗi
thời điểm, cửa hàng sẽ giảm giá một số loại mặt hàng nhất định. Diện tích mỗi

8


cửa hàng loại này thường từ 300 đến 1000 mét vng sản. Mơ hình kinh doanh
này có thể được tìm thấy ở những khu vực cho thuê diện tích sàn với giá rẻ hay
tầng hầm của các trung tâm mua sắm lớn.

3.2.6 Cửa hàng mỹ phẩm, sản phẩm chăm sóc sức khỏe, sắc đẹp (drugstore)
Là các cửa hàng bán lẻ chuyên bán các loại thuốc (thường là thuốc bán
không cần kèm đơn thuốc) và các sản phẩm chăm sóc sức khỏe như thực phẩm
chức năng,.. Ngoài ra, ở các cửa hàng loại này, người tiêu dùng có thể tìm thấy
các loại hàng hóa mỹ phẩm như dầu gội, sữa tắm, mỹ phẩm hay các sản phẩm
làm đẹp. Ở một số nơi, bánh kẹo và báo, tạp chí cũng được trưng bày để phục vụ
khách hàng.


Ngồi ra cịn có một số cách phân loại khác, nhƣ:
Dựa vào cơ sở bán lẻ thì có hai hình thức bán lẻ là:
-

Bán lẻ có cửa hàng (tại các siêu thị, chợ, cửa hàng tiện ích,…)

-

Bán lẻ khơng có cửa hàng (bán hàng qua điện thoại, catalog, internet, qua
máy bán hàng tự động,.v.v)
Dựa vào loại hình sở hữu có ba hình thức bán lẻ (theo Retailing

management – Levy):
-

Hình thức bán lẻ do tư nhân làm chủ

-

Hình thức bán lẻ do cơng ty làm chủ


-

Hình thức bán lẻ nhượng quyền

II. VAI TRÒ CỦA THỊ TRƢỜNG BÁN LẺ
1. Thị trƣờng bán lẻ đóng vai trị là cầu nối giữa nhà sản xuất và ngƣời tiêu
dùng
Hàng hóa sản xuất ra có thể được phân phối trực tiếp đến tay người tiêu
dùng hoặc thông qua các kênh trung gian. Hình thức phân phối qua trung gian
cịn gọi là phân phối gián tiếp.

9


Trong nền sản xuất chun mơn hóa hiện nay, kênh phân phối trực tiếp
ngày càng trở nên ít phổ biến do doanh nghiệp sản xuất phải dành một khoản đầu
tư tương đối lớn cho hoạt động phân phối. Hình thức này không thể phù hợp với
các doanh nghiệp quy mô vừa hoặc nhỏ. Trong khi đó, phương thức phân phối
hàng hóa gián tiếp lại thể hiện rõ ưu thế của mình. Bằng việc đưa hàng hóa do
doanh nghiệp mình sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng thông qua các
trung gian, doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí và thời gian. Nhà bán lẻ
đóng vai trị là người trung gian cuối cùng trong khâu phân phối hàng hóa đến
tay người tiêu dùng. Tùy thuộc vào đặc điểm, tính chất của sản phẩm, quy mơ
của doanh nghiệp sản xuất, nhà bán lẻ có thể đóng vai trị là trung gian duy nhất
hay là một trong các trung gian trong q trình phân phối hàng hóa từ khi xuất
kho nhà sản xuất đến khi bán được cho người tiêu dùng cuối cùng.
2. Thị trƣờng bán lẻ giúp cung cấp thông tin từ ngƣời tiêu dùng đến nhà sản
xuất và ngƣợc lại
Trên thị trường bán lẻ, người bán và người mua có mối quan hệ trực tiếp.
Họ gặp gỡ và giao dịch với nhau. Nhờ đó, người bán lẻ thu được những thơng tin

sơ cấp về khách hàng của mình. Nhà bán lẻ có cơ hội tìm hiểu và nghiên cứu
những nhu cầu của người tiêu dùng qua đó tìm cách đáp ứng được những nhu cầu
đó. Thơng qua việc bán hàng đến người tiêu dùng cuối cùng, nhà bán lẻ có thể
thu thập được những phản hồi của khách hàng về chất lượng sản phẩm, mẫu mã,
bao bì đóng gói,… Từ đó họ có thể truyền tải đến người sản xuất
Trong quá trình tiếp cận trực tiếp với người tiêu dùng cuối cùng, nhà bán
lẻ hồn tồn có khả năng tìm hiểu những nhu cầu có thể xuất hiện trong tương lai
và giúp nhà sản xuất bắt kịp được những xu hướng thị trường để lên chiến lược
mở rộng sản xuất.
Ngược lại, nhà sản xuất cũng có thể thơng qua thị trường bán lẻ để nghiên
cứu thái độ của thị trường khi đón nhận một sản phẩm hay kế hoạch sản xuất mới
trong tương lai.

10


Tóm lại, thơng tin chính là chìa khóa dẫn đến thành công cho bất cứ doanh
nghiệp trong bất cứ ngành nào. Và nhờ vào những thông tin trên thị trường bán
lẻ, nhà sản xuất có thể điều chỉnh kế hoạch sản xuất, cải tiến sản phẩm theo
hướng thỏa mãn tối đa thị hiếu người tiêu dùng. Người tiêu dùng, nhờ vào việc
nghiên cứu những biến động trên thị trường cũng có thể điều chỉnh hành vi mua
sắm của mình theo hướng có lợi nhất với chi phí thấp nhất và tiết kiệm được thời
gian.
3. Thị trƣờng bán lẻ phản ánh tình hình sản xuất, kinh doanh và mức sống
của ngƣời dân trong một quốc gia
Sự tồn tại của thị trường bán lẻ là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và
phát triển của các ngành sản xuất trong xã hội. Mục đích của bất cứ ngành sản
xuất nào là tạo ra sản phẩm và bán đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Do vậy, sự
hoạt động của thị trường bán lẻ tạo điều kiện cho các ngành sản xuất, kinh doanh
tồn tại và hoạt động bình thường.

Thị trường bán lẻ không chỉ giải quyết đầu ra, tiêu thụ sản phẩm cho q
trình sản xuất mà cịn làm gia tăng GDP của quốc gia. Doanh thu bán lẻ trên mỗi
thị trường thể hiện sức khỏe của một nền kinh tế: quy mơ, tình hình phát triển
hay những xu hướng trong nền kinh tế đất nước đó. Bên cạnh đó, những chuyển
dịch trên thị trường bán lẻ còn cho thấy sự thay đổi trong mức sống của người
dân. Thị trường bán lẻ tăng trưởng tốt đồng nghĩa với thu nhập trung bình của
người dân quốc gia đó đang tăng lên, sức mua cải thiện, chất lượng đời sống
nâng cao. Ngoài ra, bán lẻ cũng là khu vực thu hút lực lượng lao động lớn, góp
phần tạo ra cơng ăn việc làm cho một tỷ lệ lớn người lao động trên thế giới.
4. Thị trƣờng bán lẻ đóng vai trị quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã
hội
Bốn khâu trong quá trình tái sản xuất xã hội gồm: sản xuất – phân phối –
trao đổi – tiêu dùng. Thị trường bán lẻ là khâu trung gian giữa sản xuất và tiêu

11


dùng. Do đó nó đảm bảo một khâu quan trọng của q trình tái sản xuất trên.
Khơng có các hoạt động của thị trường bán lẻ thì quá trình tái sản xuất khơng thể
diễn ra được do đó khơng thể mở rộng phát triển nền kinh tế.

12


CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG BÁN LẺ
CHÂU Á
I. CÁC XU THẾ NỔI BẬT TRÊN THỊ TRƢỜNG BÁN LẺ CHÂU Á HIỆN
NAY
1. Hệ thống bán lẻ hiện đại dần thay thế các cửa hàng truyền thống
1.1 Thay đổi trong hành vi tiêu dùng của ngƣời dân châu Á

Sự phát triển của hệ thống bán lẻ hiện đại xuất phát từ những thay đổi sâu
sắc trong xã hội các quốc gia châu Á.
Thứ nhất, thu nhập trung bình của châu lục này đã tăng lên một cách đáng
kể kéo theo sự xuất hiện của tầng lớp trung lưu và thượng lưu với số lượng ngày
càng lớn.
Thứ hai, và cũng là nguyên nhân quan trọng hơn cả chính là sự thay đổi về
vai trò của người phụ nữ trong xã hội. Nếu những năm đầu của thế kỷ 20, tỷ lệ
phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động trên cả châu Á chưa đến 20% thì trong
thập kỷ đầu của thế kỷ 21, số lượng phụ nữ làm việc đã xấp xỉ số lượng nam giới.
Ở một số nước Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan, … trung bình tỷ lệ nữ giới trên
nam giới trong lực lượng lao động là khoảng 91-93/100. Chính vì sự thay đổi
mang tính cách mạng đó, xu hướng tiêu dùng trong xã hội châu Á cũng thay đổi
mạnh mẽ. Khi ngày càng nhiều phụ nữ đi làm, họ có khuynh hướng tiết kiệm thời
gian mua sắm và nấu nướng của mình. Do vậy, những thực phẩm đã qua chế biến
ngày càng trở nên phổ biến.
Bên cạnh đó, việc sử dụng rộng rãi của tủ lạnh và các dụng cụ điện tử hiện
đại khác trong gia đình cho phép người dân có thể đi chợ hàng tuần, thay vì hàng
ngày như thời kỳ trước đây. Hơn nữa, do sự phát triển của các phương tiện cá
nhân và hệ thống đường xá, cơ sở hạ tầng được xây dựng và nâng cấp đã tạo điều

13


kiện cho người tiêu dùng, đặc biệt là phụ nữ có thể lựa chọn mua sắm ở các khu
vực xa trung tâm với số lượng hàng hóa mua sắm lớn hơn nhiều lần.
Theo các bản nghiên cứu thị trường của Nielsen được tiến hành vào năm
2008 và 2009, người dân ở hầu hết các đô thị lớn của các quốc gia châu Á
thường đi mua hàng ở các đại siêu thị trung bình hai đến ba lần/tháng. Mục đích
mua sắm của họ thường phục vụ cho việc dự trữ thực phẩm, mua lương thực sử
dụng hàng ngày hay các đồ dùng, sản phẩm chăm sóc sức khỏe. Theo Nielsen

2009, Hàn Quốc nơi 96% dân cư thành thị đến siêu thị mua sắm hàng tháng giữ
tỷ lệ cao nhất so với các quốc gia châu Á còn lại.
Một nguyên nhân khác tạo nên sự thay đổi trong thói quen mua sắm của
người châu Á xuất phát từ chính sự điều chỉnh của các mơ hình bán lẻ hiện đại.
Người châu Á, khác với người phương Tây, vốn có thói quen sử dụng những
thực phẩm tươi sống nên mơ hình bán lẻ truyền thống như chợ từ lâu đã trở thành
một phần không thể thiếu trong cuộc sống của người dân ở đây. Nhận thức được
điều đó, các siêu thị và đại siêu thị đã dần dần giới thiệu và xây dựng các quầy
bán hàng tươi sống như thịt gia súc, gia cầm, rau xanh để đáp ứng thị hiếu tiêu
dùng ở châu lục này. Hiện nay, cũng theo Nielsen, tỷ lệ người dân Trung Quốc
mua thực phẩm tươi sống từ chuỗi các đại siêu thị đang đứng đầu toàn châu Á
khi mơ hình bán lẻ này được chọn là địa điểm mua sắm thường xuyên hàng tươi
sống cho hơn 60% người dân Trung Quốc hiện đang sinh sống ở các đô thị
(Nielsen 2009).
1.2 Sự xuất hiện và phát triển của các mơ hình bán lẻ hiện đại
1.2.1 Lịch sử ra đời của các cửa hàng bán lẻ hiện đại
Tuy thói quen tiêu dùng của người châu Á chỉ thay đổi mạnh từ khoảng
nửa sau thế kỷ 20 nhưng trên thực tế, mơ hình các cửa hàng mua sắm hiện đại đã
xuất hiện ở Trung Quốc từ đầu thế kỷ 20. Cửa hiệu mua sắm đầu tiên này được
xây dựng theo ý tưởng của một thương nhân Trung Quốc sống ở Australia. Một

14


số cửa hàng mua sắm hiện đại như Wing On và Sincere ở Thượng Hải mở cửa từ
trước năm 1949 vẫn duy trì hoạt động đến thời điểm này. Các trung tâm mua sắm
hiện đại bắt đầu được xây dựng với số lượng lớn trên khắp châu lục vào khoảng
những năm 1980 và bùng nổ vào khoảng những năm 1990 của thế kỷ trước.
Số lượng các cửa hàng bán lẻ hiện đại xuất hiện ở châu Á ngày một tăng.
Đặc biệt, cùng với q trình tồn cầu hóa và hội nhập, các nền kinh tế châu Á đã

và đang đón nhận những làn sóng đầu tư nước ngồi mạnh mẽ vào khu vực bán
lẻ hiện đại. Trong ba mơ hình kinh doanh bán lẻ hiện đại là đại siêu thị, siêu thị
và cửa hàng tiện ích thì mơ hình thứ ba được ghi nhận là tăng trưởng mạnh nhất
trong những năm vừa qua và được dự đoán sẽ tiếp tục tăng trong tương lai gần.
1.2.2 Vị trí của hệ thống bán lẻ hiện đại trên thị trường hiện nay
Hệ thống bán lẻ hiện đại ngày một thể hiện ưu thế vượt trội so với hệ
thống bán lẻ truyền thống. Tính đến thời điểm tháng 3 năm 2009, theo Nielsen
2009, số lượng các cửa hàng bán lẻ hàng tiêu dùng truyền thống trên khắp châu
Á chỉ tăng 1% lên khoảng hơn 12.3 triệu. Số lượng các cửa hàng bán lẻ hiện đại
tăng đến 16% trong năm 2009. Tốc độ tăng trưởng về số lượng chuỗi cửa hàng
bán lẻ truyền thống và hiện đại ở một số quốc gia được thể hiện trong bảng sau:

QUỐC GIA

HỆ THỐNG
BÁN LẺ
TRUYỀN
THỐNG

HỆ THỐNG
BÁN LẺ
HIỆN ĐẠI

Hàn Quốc

-10

+7

Đài Loan


-9,5

0

Trung Quốc

-4

+13

Ấn Độ

+5

+18

Singapore

-6

+1

Malaysia

+3

+5

Bảng II.1: Tốc độ tăng trƣởng số lƣợng các cửa hàng bán lẻ (%) 2007 – 2008

Nguồn: Nielsen 2009

15


Thị phần hệ thống bán lẻ hiện đại giành được cũng khơng ngừng tăng lên.
Tính đến hết năm 2007, hệ thống bán lẻ hiện đại đã giành thị phần lớn hơn các
loại hình bán lẻ truyền thống. Cụ thể ở một số nước châu Á: ở Hàn Quốc, thị
phần của hệ thống bán lẻ truyền thống giảm xuống từ 15.9% trong năm 2008
xuống chỉ còn 13.9% năm 2009 trong khi đó ở Đài Loan, hệ thống này chỉ nắm
giữ hơn 6% thị phần. Biểu đồ sau cho thấy sự thay đổi về thị phần của hai mơ
hình bán lẻ truyền thống và hiện đại trên khắp châu Á nói chung.

65

61

59

56

54

52

50

48

47


35

39

41

44

46

48

50

52

53

2000

2001

2002

2003

2004

2005


2006

2007

2008

Hệ thống bán lẻ hiện đại

Hệ thống bán lẻ truyền thống

Biểu đồ II.1: Thị phần (%) của hệ thống bán lẻ truyền thống và hiện đại ở
Châu Á (trừ Nhật Bản)
Nguồn: Nielsen 2009
2. Sự hiện diện và tầm ảnh hƣởng của các tập đoàn bán lẻ hàng đầu Âu Mỹ
ngày càng lớn
2.1 Tình hình mở rộng của các tập đồn bán lẻ toàn cầu ra khắp châu Á
Châu Á vươn lên là khu vực phát triển nhanh nhất và năng động nhất thế
giới. Khu vực này ngày càng thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư nước
ngoài, đặt biệt là các nền kinh tế được coi là những con rồng châu Á (Hàn Quốc,
Singapo, Đài Loan, Hồng Kông). Ngành công nghiệp bán lẻ châu Á trong những
năm gần đây luôn phát triển với tốc độ nhanh hơn tốc độ phát triển trung bình

16


của ngành bán lẻ toàn cầu và thu hút lượng vốn đầu tư nước ngoài khổng lồ. Thị
trường châu Á thực sự chứng kiến sự đổ bộ của những nhà bán lẻ toàn cầu vào
những năm 1980 khi tập đoàn bán lẻ lớn nhất của Pháp là Carrefour bắt đầu hiện
diện ở Đài Loan. Đặc biệt từ khi chính phủ Trung Quốc bắt đầu nới lỏng những

quy định hạn chế đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực thương mại bán lẻ, thị trường
Châu Á liên tục đánh dấu sự có mặt của những đại gia bán lẻ hàng đầu thế giới.
Tính đến thời điểm hiện tại, cả năm tập đồn bán lẻ hàng đầu thế giới (xét về quy
mô doanh số) là: Wal-mart (Hoa Kỳ), Carrefour (Pháp), Tesco (Anh), Metro và
Schwarz (Đức) đều đã hoạt động ở Châu Á.
Vào những năm 90 của thế kỷ 20 và những năm đầu của thế kỷ 21, các
nước Đông Á bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore ln là
những đích ngắm hấp dẫn nhất đối với các nhà bán lẻ thế giới. Sau sự xuất hiện
của Carrefour, Trung Quốc tiếp tục là điểm đến của Wal-mart và trở thành thị
trường chính của tập đồn bán lẻ này ở châu Á.
Sang đến những năm đầu của thế kỷ 21, xu hướng đầu tư vào Trung Quốc
vẫn tiếp tục duy trì và phát triển. Bên cạnh đó, các nhà bán lẻ tồn cầu đã bắt đầu
chuyển hướng sang một số thị trường mới nổi khác: các tiểu vương quốc Ả rập
thống nhất, Ấn Độ và các nước Đông Nam Á (ASEAN). Các tiểu vương quốc Ả
Rập thống nhất với thu nhập quốc dân tính trên đầu người được xếp vào loại cao
trên thế giới và các chính sách thương mại ngày càng được điều chỉnh theo
hướng mở cửa đã thu hút một số lượng không nhỏ các nhà bán lẻ phương Tây,
đặc biệt là về lĩnh vực bán lẻ các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ. Các tập đoàn bán lẻ
từ châu Âu và Bắc Mỹ cũng ngày càng chú trọng hơn đến thị trường Đông Nam
Á đầy tiềm năng. Khu vực này được coi là một trong những khu vực năng động
nhất trong châu lục và nhanh chóng phục hồi sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu
năm 2008. Tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới là Wal-mart hiện đã lên kế hoạch
xâm nhập thị trường này trong khoảng thời gian 5 năm tới.

17


2.2 Lợi thế của các tập đoàn lớn từ Âu, Mỹ
2.2.1 Tài chính
Các tập đồn bán lẻ lớn nhất của thế giới hiện diện trên thị trường châu Á

đều có lợi thế vượt trội về vốn. Chỉ tính riêng 4 đại gia đứng đầu danh sách 250
nhà bán lẻ toàn cầu là Wal-mart, Carrefour, Metro và Tesco đã có tổng doanh thu
vào khoảng gần 730 tỷ đô la trong năm 2008 với lợi nhuận thuần khoảng 20,6 tỷ
đô. Chỉ riêng Wal-mart đã có doanh thu bán lẻ năm 2008 là hơn 407 tỷ đơ la.
Trong khi đó, tập đồn bán lẻ AS Watson của Hồng Kơng là tập đồn bán lẻ
đứng đầu châu Á xét về quy mô doanh số thu được từ hoạt động bán lẻ cũng chỉ
đạt 15 tỷ đô la (Deloitte 2010, tr.13). Bên cạnh lợi thế vượt trội về mặt tài chính,
các tập đồn bán lẻ tồn cầu này cịn sở hữu hàng chục năm kinh nghiệm hoạt
động trên thị trường quốc tế. Đây là điểm mà phần lớn nhà bán lẻ châu Á chưa có
được.
Tài chính và kinh nghiệm là những lợi thế cạnh tranh ban đầu mà những
đại gia bán lẻ trên thế giới sở hữu khi thâm nhập vào thị trường châu Á. Nguồn
vốn khổng lồ là điều kiện ban đầu giúp các tập đồn bán lẻ này xây dựng các
chiến lược thơn tính các thị trường châu Á. Tiềm lực tài chính hùng hậu cho phép
những tập đồn này có thể xác định thua lỗ từ 5 đến 7 năm, thậm chí là 10 năm
khi bắt đầu hoạt động ở một thị trường mới. Bên cạnh đó, nguồn vốn khổng lồ
giúp các tập đồn này có thể đầu tư lớn vào các hoạt động marketing xúc tiến bán
hàng, đầu tư cho nguồn nhân lực chất lượng cao do có khả năng chi trả những
mức lương hết sức cạnh tranh và xây dựng các chương trình chăm sóc khách
hàng thực sự hấp dẫn. Nguồn lực tài chính cịn cho phép các tập đồn bán lẻ này
ứng dụng những công nghệ quản lý hàng đầu, tăng hiệu quả hoạt động. Cơng
nghệ hiện đại chính là lợi thế vượt trội thứ hai giúp các tập đồn này thành cơng
trên thị trường châu Á.

18


2.2.2 Công nghệ
Công nghệ, cùng với kinh nghiệm quản lý tiên tiến chính là bí quyết dẫn
đến thành cơng của các nhà bán lẻ đến từ châu Âu và Bắc Mỹ khi mở rộng địa

bàn hoạt động sang các quốc gia châu Á. Hầu hết các nhà bán lẻ, đặc biệt trong
lĩnh vực kinh doanh thời trang, đều tiến hành việc thu thập thông tin trực tiếp
ngay từ điểm bán hàng. Thơng tin này ngay sau đó sẽ được nhà bán lẻ tổng hợp
và xử lý và trao đổi với chính với những nhà cung cấp sản phẩm. Các kế hoạch
sản xuất cũng như xử lý hàng tồn kho nhanh chóng được xây dựng. CPRF - một
hệ thống tân tiến được nhiều nhà bán lẻ phương Tây lựa chọn, trong đó có cơng
ty thời trang Zara đến từ Tây Ban Nha cho phép nhà bán lẻ hợp tác với nhà cung
ứng đưa ra những dự báo và thử nghiệm tính khả thi trước khi áp dụng.
Một công nghệ hiện đại khác được nhiều tập đoàn hàng đầu như Wal-mart
(Mỹ) hay Metro (Đức) sử dụng là RFID. Đây là một hệ thống nhận dạng tự động
từ xa được tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới này áp dụng từ năm 2006. Mọi kiện
hàng phân phối đến các trung tâm bán lẻ của Wal-mart trên khắp thế giới đều
được gắn một con chip máy tính siêu nhỏ. Con chip này cho phép truyền tải mọi
thông tin về lô hàng và từng sản phẩm trong lơ hàng đến với các máy tính chủ.
Việc gắn chip này khơng tốn nhiều chi phí, tiết kiệm sức lao động và đặc biệt có
thể chống trộm cướp, phát hiện hàng bị hư hỏng hay những thiếu sót trong q
trình vận chuyển.
Trong cơng tác quản lý khách hàng, rất nhiều nhà bán lẻ phương Tây đã
áp dụng hệ thống CRM. Hệ thống hiện đại hỗ trợ hiệu quả cho các doanh nghiệp
trong việc đưa ra các chiến lược, chương trình hướng tới đội ngũ khách hàng
thân thiết, một nguồn mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp trong bất cứ hoàn
cảnh nào. Ưu điểm của hệ thống này là nó thích hợp với mọi loại hình kinh
doanh, từ các hàng bán đồ ăn nhanh bình dân tới các trung tâm thương mại xa xỉ.
Ngoài ra, các tập đoàn bán lẻ toàn cầu liên tục lắp đặt các thiết bị ngay
trong các khu bán hàng của mình để hỗ trợ khách hàng và nhân viên. Ở một số
địa điểm bán hàng tại châu Á, Metro đã lắp đặt những máy scan tinh vi cho phép

19



khách hàng thanh tốn khơng cần sự có mặt của nhân viên thu ngân và tiết kiệm
thời gian chờ đợi trong những thời điểm quá đông khách đến mua sắm. Sắp tới,
tập đoàn bán lẻ lớn nhất của Đức này đang lên kế hoạch sẽ thử nghiệm hỗ trợ
khách hàng trong khi mua sắm bằng cách cung cấp cho họ một máy tính nhỏ
giúp họ nhanh chóng tìm được mặt hàng cần mua và nơi đặt món hàng đó.
2.3 Sự hiện diện của một số tập đoàn bán lẻ Âu Mỹ lớn nhất tại châu Á
2.3.1 Carrefour
Người khổng lồ đến từ Pháp Carrefour là tập đoàn bán lẻ phương Tây đầu
tiên thâm nhập thị trường châu Á. Vào năm 1989, tập đồn này đã bắt tay với
một cơng ty cổ phần của Đài Loan là Uni President Enterprises Corporation. Sau
khi gặt hái được những kinh nghiệm từ các hoạt động kinh doanh ở thị trường
Đài Loan, Carrefour nhanh chóng mở rộng phạm vi sang các quốc gia châu Á
khác, bao gồm các quốc gia tiểu vương quốc Ả Rập và một số nước Nam Á như
Pakistan (Wikipedia 2010).
Năm 2007 đánh dấu một cột mốc trong lịch sử phát triển của đại gia bán lẻ
lớn thứ hai thế giới này ở châu Á khi tập đoàn cho ra đời 36 đại siêu thị ở châu
lục này. Tính riêng ở Trung Quốc con số đại siêu thị được xây dựng trong năm
2007 đã là 22. Đây là số lượng lớn chưa từng thấy trong một năm (Wikipedia
2010).
Nhân tố dẫn đến thành công của nhà bán lẻ này khi mở rộng hoạt động
sang các nước khác nói chung và châu Á nói riêng chính là ở cách quản lý linh
hoạt và đặc biệt là việc phân cấp quản lý theo đó cho phép người lãnh đạo trên
mỗi thị trường được toàn quyền ra những quyết định liên quan tới việc điều chỉnh
kế hoạch kinh doanh sao cho phù hợp với tập quán và truyền thống của từng thị
trường cụ thể. Vì vậy, thành công của Carrefour trên thị trường châu Á theo như
quản lý tập đoàn này tổng kết là do họ đã thích nghi được với tình hình đặc trưng
của châu lục. Carrefour theo đuổi chiến lược kinh doanh với các mô hình bán lẻ
vơ cùng phong phú, từ các đại siêu thị đến các cửa hàng tiện ích. Bằng cách đa

20



dạng hóa hệ thống cửa hàng bán lẻ của mình, Carrefour đã tận dụng được tính
kinh tế của chi phí bằng việc chia xẻ chi phí cho các hoạt động hậu cần,
marketing, nghiên cứu,… giữa các mơ hình kinh doanh khác nhau.
2.3.2 Wal-mart
Tập đồn bán lẻ có trụ sở đặt tại bang Arkansas (Hoa Kỳ) này là nhà bán
lẻ lớn nhất thế giới với doanh thu hàng năm lên tới 400 tỷ đô la Mỹ. Số lượng lao
động làm việc cho Wal-mart gần 2 triệu người (tính đến hết năm 2008), trong đó
có đến 500.000 lao động ở các thị trường ngồi nước Mỹ. Thơng qua hơn 2500
cửa hàng của mình ở nước ngồi, Wal-mart phục vụ cho khoảng hơn 140 triệu
khách hàng mỗi tuần (Wal-mart Corporate 2010).
Trên thị trường châu Á, người khổng lồ này tập trung chính vào hai thị
trường là Nhật Bản và Trung Quốc. Wal-mart bắt đầu kinh doanh trên thị trường
quốc gia đông dân nhất thế giới vào năm 1996. Liên tục sau đó, tập đồn này mở
thêm các cửa hàng bán lẻ của mình ở Hàn Quốc (1997) và Nhật Bản (2002). Và
chỉ sau 10 năm, nhà bán lẻ này đã có hơn 50 trung tâm bán lẻ (supercenter) chỉ
tính trên thị trường Trung Quốc. Cùng trong năm 2006, Wal-mart đã thành công
trong việc mua lại tập đoàn bán lẻ lớn nhất ở Trung Quốc vào thời điểm đó là
Trust-Mart và trở thành nhà bán lẻ số một trên thị trường này. Các trung tâm bán
lẻ của Wal-mart ở Trung Quốc trưng bày và bán hơn 20.000 chủng loại sản
phẩm, bao gồm cả đồ điện tử, thiết bị gia dụng bên cạnh các loại lương thực, thực
phẩm khác (Wal-mart Corporate 2010). Thành công của nhà bán lẻ trên thị
trường có sức mua lớn nhất toàn cầu này là đã biết kết hợp những ưu điểm của
mơ hình kinh doanh siêu thị và các khu trung tâm mua sắm. Loại hình trung tâm
bán lẻ của Wal-mart ở Trung Quốc tạo cho khách hàng sự thuận lợi trong việc
mua sắm hàng hóa tiêu dùng hàng ngày cũng như những thiết bị lâu bền sử dụng
trong gia đình chỉ với việc đi đến một địa điểm trong cùng một khoảng thời gian.
Các trung tâm bán lẻ này cịn giúp Wal-mart tiết kiệm được chi phí nhân cơng
một cách đáng kể. Thay vì phải thuê số lượng lao động tương ứng với một siêu

thị và một trung tâm mua sắm, bằng việc thiết lập các trung tâm bán lẻ, số lượng

21


×