TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG RỬA TIỀN Ở MỸ
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Kim Oanh
Lớp : Anh 12
Khóa : 45D
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Tường Anh
Hµ Néi - 05/2010
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG
CHỐNG RỬA TIỀN 3
1.1. Rửa tiền 3
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động rửa tiền 3
1.1.1.1. Khái niệm 3
1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động rửa tiền 8
1.1.2. Hậu quả của nạn rửa tiền 16
1.1.2.1. Làm tổn thương các thị trường mới nổi 17
1.1.2.2. Làm suy yếu khu vực kinh tế tư nhân 18
1.1.2.3. Làm suy yếu toàn bộ thị trường tài chính 19
1.1.2.4. Làm mất sự kiểm soát của các chính sách kinh tế 19
1.1.2.5. Làm sai lệch và mất ổn định về mặt kinh tế 20
1.1.2.6. Gây tổn hại đến ngân sách quốc gia 20
1.1.2.7. Gây rủi ro cho những nỗ lực tư nhân hóa 21
1.1.2.8. Gây nguy cơ tổn hại về mặt danh tiếng 21
1.1.2.9. Gây ảnh hưởng đến đời sống xã hội 22
1.2. Phòng chống rửa tiền 22
1.2.1. Sự cần thiết của hoạt động phòng chống rửa tiền 22
1.2.2. Văn bản pháp lý cơ bản về phòng chống rửa tiền 23
1.2.2.1. Nhóm khuyến nghị về hệ thống pháp lý (từ khuyến nghị 1 đến
khuyến nghị 3) 26
1.2.2.2. Nhóm khuyến nghị về các biện pháp được các định chế tài chính
và phi tài chính thực hiện để ngăn ngừa rửa tiền và tài trợ cho khủng bố
(từ khuyến nghị 4 đến 25) 26
1.2.2.3. Nhóm khuyến nghị liên quan đến việc tổ chức và những biện
pháp cần thiết khác để chống rửa tiền và tài trợ cho khủng bố (từ khuyến
nghị 26 đến 34) 27
1.2.2.4. Nhóm khuyến nghị về hợp tác quốc tế (từ khuyến nghị 35 đến 40)
27
1.2.2.5. Nhóm 9 khuyến nghị đặc biệt về chống tài trợ cho khủng bố 27
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN VÀ PHÒNG
CHỐNG RỬA TIỀN Ở MỸ VÀ VIỆT NAM 29
2.1. Hoạt động rửa tiền và phòng chống rửa tiền ở Mỹ 29
2.1.1. Khái quát chung về tình hình rửa tiền ở Mỹ 29
2.1.2. Hoạt động phòng chống rửa tiền ở Mỹ 35
2.1.2.1. Xây dựng cơ sở pháp lý then chốt 35
2.1.2.2. Điều tra từ các giao dịch đáng ngờ 37
2.1.2.3. Phối hợp trong công cuộc phòng chống rửa tiền trên phạm vi
toàn cầu 39
2.1.3. Những thành tựu đạt được 40
2.1.3.1. Chiến dịch Casablanca 40
2.1.3.2. Vụ việc liên quan đến chuyển đổi đồng Peso chợ đen 40
2.1.3.3. Các chiến dịch của lực lượng đặc nhiệm El Dorado 41
2.1.3.4. Chiến dịch Polar Cap 42
2.1.3.5. Một số cuộc điều tra khác 42
2.1.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 43
2.2. Hoạt động rửa tiền và phòng chống rửa tiền tại Việt Nam. 44
2.2.1. Khái quát chung về tình hình rửa tiền ở Việt Nam 44
2.2.1.1 Rửa tiền qua các giao dịch tiền mặt 45
2.2.1.2. Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng 46
2.2.1.3. Rửa tiền qua mạng 48
2.2.1.4. Rửa tiền qua tín dụng đen 51
2.2.2. Thực trạng hoạt động phòng chống rửa tiền tại Việt Nam 53
2.2.2.1. Cơ sở pháp lý cho công cuộc phòng chống rửa tiền của Việt Nam
53
2.2.2.2. Thành tựu trong công cuộc phòng chống rửa tiền của Việt Nam
55
2.2.2.3. Những hạn chế trong công cuộc phòng chống rửa tiền ở Việt
Nam và nguyên nhân 57
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG
CUỘC PHÒNG CHỐNG RỬA TIỀN TẠI VIỆT NAM 59
3.1. Những định hướng chung trong việc phòng chống rửa tiền 59
3.2. Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động phòng chống rửa tiền
tại Việt Nam 60
3.2.1. Thuận lợi 60
3.2.2. Những khó khăn 60
3.3. Một số kiến nghị đối với Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả trong
công cuộc phòng chống rửa tiền 62
3.3.1. Củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng chống rửa tiền
62
3.3.2. Phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt 64
3.3.3. Tăng cường các biện pháp phòng chống rửa tiền qua hệ thống
ngân hàng 67
3.3.4. Một số kiến nghị khác 72
KẾT LUẬN 75
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC I: 40 KHUYẾN NGHỊ CỦA FATF VỀ CHỐNG RỬA TIỀN
PHỤ LỤC II: 9 KHUYẾN NGHỊ ĐẶC BIỆT CỦA FATF VỀ CHỐNG TÀI
TRỢ KHỦNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay thuật ngữ “rửa tiền” xuất hiện khá phổ biến trên các phương
tiện truyền thông. Tuy nhiên, khi nghe nói đến thuật ngữ này không phải ai cũng
biết cụ thể vấn đề như thế nào. Trong quá trình tìm hiểu đề tài cho bài luận văn
tốt nghiệp, tác giả đã tìm thấy một số thông tin về hoạt động rửa tiền, thấy được
một số ảnh hưởng nó gây ra về mặt kinh tế cũng như xã hội. Hoạt động rửa tiền
là hoạt động của giới tội phạm nhằm làm xóa đi nguồn gốc bất hợp pháp của
đồng tiền. Hoạt động rửa tiền thường gắn liền với nhiều hoạt động tội phạm khác
như tham ô, buôn lậu, khủng bố và có thể nói tội phạm rửa tiền hỗ trợ cho các
loại tội phạm trên phát triển. Hiện nay tội phạm rửa tiền đã xuất hiện trên phạm
vi toàn thế giới và mặt trận phòng chống rửa tiền là một mặt trận chung của tất
cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong công cuộc phòng chống tội phạm
rửa tiền, Mỹ là một trong những nước có nhiều thành công nhất. Chính vì vậy,
tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu: “Hoạt động phòng chống rửa tiền ở Mỹ và
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của nghiên cứu là đem đến cho độc giả một cái nhìn khái quát
về hoạt động rửa tiền, diễn biến, xu hướng của loại tội phạm này cũng như
những gì các quốc gia đã và đang làm để phòng chống rửa tiền. Đồng thời, tác
giả muốn rút ra bài học kinh nghiệm mà Việt Nam đã học hỏi được từ Mỹ và
một số khuyến nghị cho Việt Nam trong công cuộc phòng chống rửa tiền.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của nghiên cứu là hoạt động rửa tiền và hoạt động phòng chống
rửa tiền.
2
Phạm vi của nghiên cứu được xác định là tại Mỹ và tại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả đã sử dụng một số phương pháp: nghiên
cứu cơ sở lý luận và kinh nghiệm của Mỹ, sưu tập các nghiên cứu liên quan của
các tác giả trước đó sau đó phân tích, tổng hợp, đánh giá lại vấn đề. Trên cơ sở
đó đưa ra một số kiến nghị đối với công cuộc phòng chống rửa tiền ở Việt Nam.
5. Kết cấu của khóa luận
Với mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu như trên, tác giả sẽ giải
quyết vấn đề trong 3 chương như sau
Chương 1: Những vấn đề chung về rửa tiền và phòng chống rửa tiền
Chương 2: Thực trạng hoạt động rửa tiền và phòng chống rửa tiền ở Mỹ và
Việt Nam
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công cuộc phòng
chống rửa tiền
Do hạn chế về mặt thời gian cũng như nguồn tài liệu nên bài nghiên cứu
tất yếu có nhiều thiếu sót, tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
thầy cô và các bạn để bài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Qua đây, tác giả xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới Thạc sỹ Nguyễn
Thị Tường Anh, người đã tận tình giúp đỡ tác giả hoàn thành bài nghiên cứu
này.
3
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỬA TIỀN VÀ
PHÒNG CHỐNG RỬA TIỀN
1.1. Rửa tiền
Muốn biết về hoạt động phòng chống rửa tiền thì trước hết chúng ta cần
hiểu thế nào là rửa tiền và tại sao chúng ta lại cần phải phòng chống rửa tiền. Vì
vậy trong phân mục này tác giả sẽ cố gắng đưa ra một cái nhìn khái quát nhất thế
nào là rửa tiền, đặc điểm của hoạt động rửa tiền và những hậu quả mà nạn rửa
tiền mang lại.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động rửa tiền
1.1.1.1. Khái niệm
a) Định nghĩa rửa tiền
Trên thế giới, người ta quan niệm “rửa tiền” là một loạt hoạt động của bọn
tội phạm tiến hành nhằm xóa nhòa nguồn gốc của những đồng tiền “bẩn”, thông
qua một loạt các giao dịch để cho các cơ quan chức năng không thể lần tìm ra
nguồn gốc phi pháp thực của số tiền đó. Công việc của tội phạm rửa tiền là làm
thế nào để những đồng tiền không hợp pháp đó càng được tách xa khỏi nguồn
gốc “bẩn” của nó càng tốt. Thực hiện hàng loạt các giao dịch lòng vòng qua các
quốc gia, qua các định chế tài chính khác nhau sẽ giúp cho tiền “bẩn” mang
nguồn gốc hợp pháp, trở nên “sạch” hơn.
Theo lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (Financial Action
Task Force), hoạt động rửa tiền là:
Việc giúp đỡ đối tượng phạm pháp lẩn tránh sự trừng phạt của pháp luật
Việc cố ý che giấu nguồn gốc, bản chất, việc cất giấu, di chuyển hay
chuyển quyền sở hữu tài sản phạm pháp
4
Việc cố ý mua, sở hữu hay sử dụng tài sản phạm pháp
Tại Việt Nam, trong nghị định số 74 về chống rửa tiền ban hành năm
2005, rửa tiền được chỉ ra trong điều 3 khoản 1 như sau
“Rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức tìm cách hợp pháp hóa tiền, tài sản do
phạm tội mà có thông qua các hoạt động cụ thể sau đây:
Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài
sản do phạm tội mà có;
Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận
chuyển, sử dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà
có;
Đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp
hoặc tìm cách khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn
gốc, bản chất thật sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu
đối với tiền, tài sản do phạm tội mà có.
Trong quá khứ, rửa tiền đã được dùng để chỉ các giao dịch tài chính có liên
quan đến tổ chức tội phạm. Ngày nay, định nghĩa rửa tiền được mở rộng ra đối
với tất cả các giao dịch tài chính nào phát sinh tài sản hay một giá trị như kết quả
một hành vi phạm pháp ví dụ như hoạt động trốn thuế hoặc kế toán sai. Như vậy,
hiểu một cách khái quát thì rửa tiền là toàn bộ các hoạt động được tiến hành một
cách cố ý nhằm hợp thức hóa nguồn gốc số tiền và tài sản phạm pháp.
Vậy câu hỏi đặt ra là nguồn gốc số tiền “bẩn” ấy là từ đâu mà tại sao bọn tội
phạm lại phải rửa tiền? Lý do là số tiền bọn tội phạm này có được từ các nguồn
thu không chính thống, không được xã hội thừa nhận là có nguồn gốc hợp pháp.
Nếu bị các cơ quan chức năng phát hiện ra nguồn gốc thực ấy của tiền thì sẽ bị
tịch thu và xử lý vi phạm. Số tiền cần rửa là số tiền có nguồn gốc từ các hoạt
động buôn bán ma túy, buôn lậu hàng hóa, buôn bán vũ khí trái phép, tiền do
5
tham nhũng mà có hoặc cũng có thể là tiền thu được từ các hoạt động kinh doanh
hợp pháp chính thống nhưng các doanh nghiệp không muốn khai báo để trốn
thuế,… Nhìn bề ngoài, người ta có thể nghĩ rửa tiền rất đơn giản và vô hại,
nhưng thực chất, nó là hoạt động nguy hiểm và có tổ chức. Rửa tiền vừa là công
cụ vừa là động lực của các tổ chức tội phạm. Khi tiền “bẩn” được đem đi rửa thì
tức là trước đó đã xuất hiện hoạt động phạm pháp và việc rửa được tiền “bẩn”
thành tiền “sạch” trở thành động lực thúc đẩy bọn tội phạm tích cực kiếm lợi bất
chính nhiều hơn nữa. Rửa tiền được coi là khâu cuối cùng và quan trọng nhất
trong những hoạt động phạm pháp nhằm đem lại những tài khoản kếch xù mang
“thân thế trong sạch”.
Vậy những đối tượng nào thì bị coi là tội phạm rửa tiền và có liên quan
đến tội phạm rửa tiền? Tội phạm rửa tiền không phải chỉ là những kẻ trực tiếp
kiếm ra những đồng tiền bẩn ấy rồi mang tiền đi rửa mà còn bao gồm cả những
kẻ tiếp tay cho bọn tội phạm nói trên. Những luật sư, nhân viên ngân hàng, kế
toán,… nếu giúp đỡ tội phạm rửa tiền tiến hành rửa tiền thì cũng bị coi là mang
tội rửa tiền. Như vậy kể cả kẻ trực tiếp rửa tiền hay những người gián tiếp giúp
đỡ cũng sẽ bị xem xét trách nhiệm liên quan trong hoạt động rửa tiền.
Như vậy chúng ta đã có thể hình dung sơ lược được hoạt động rửa tiền là
như thế nào, trong phần tới, chúng ta sẽ tìm hiểu xem hoạt động rửa tiền có lịch
sử như thế nào để thấy được sự phát triển của vấn nạn này.
b) Lịch sử nạn rửa tiền
Thực sự rửa tiền không phải vấn nạn mới mà nó đã xuất hiện từ rất lâu.
Theo nhiều sử gia, thương nhân Trung Quốc đã biết rửa tiền cách đây ba nghìn
năm để tránh việc đánh thuế của triều đình. Khi xã hội phát triển, giao thương,
giao lưu giữa các quốc gia cũng vì thế mà phát triển theo, các hoạt động tội
phạm cũng theo đó mà có cơ hội bùng phát và lan ra toàn thế giới. Các loại tội
phạm về buôn lậu hàng hóa, vũ khí, buôn bán ma túy, tham nhũng, trốn thuế
6
phát triển một cách mạnh mẽ đã thúc đẩy tội phạm rửa tiền phải tìm mọi cách để
“rửa” được những nguồn thu bất chính ấy.
Trên báo chí Mỹ, thuật ngữ “rửa tiền” lần đầu tiên xuất hiện từ vụ bê bối tài
chính Watergate năm 1973 nhưng phải đến 5 năm sau thuật ngữ này mới chính
thức được sử dụng trong một số văn bản pháp lý của tòa án Mỹ.
Tùy vào nguồn gốc của số tiền cần rửa, tùy thuộc vào điều kiện phát triển
kinh tế cũng như đặc điểm xã hội, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia mà bọn
tội phạm có thể sử dụng phương thức rửa tiền nhất định cho phù hợp. Ví dụ ở
Mỹ, hầu hết các giao dịch đều thực hiện qua thẻ thanh toán, qua hệ thống ngân
hàng nên tội phạm rửa tiền muốn rửa được tiền phải tìm cách lách luật đưa tiền
qua hệ thống ngân hàng một cách êm thấm. Ngược lại, ở Việt Nam, nền kinh tế
tiền mặt, hầu như các giao dịch tiền mặt chưa được kiểm soát nên tội phạm có
thể dùng tiền mặt đầu tư bất động sản, chứng khoán, mua các tài sản giá trị
lớn,… Càng ngày càng có nhiều ngành nghề, lĩnh vực để bọn chúng lợi dụng
thực hiện hành vi rửa tiền. Hình thức rửa tiền sơ khai nhất được nhắc đến đó là
việc rửa tiền qua các trường đua ngựa, các trò xổ số, đến các sòng bạc,… và tinh
vi, phức tạp nhất hiện nay là rửa tiền qua hệ thống ngân hàng, qua các công cụ
và thị trường tài chính khác như chứng khoán, bất động sản. Một điều dễ nhận
thấy đó là hoạt động rửa tiền có xu hướng ít dựa vào tiền mặt mà chuyển qua
dùng nhiều các công cụ và thị trường tài chính khác như chứng khoán, bất động
sản hoặc dùng hình thức hàng đổi hàng (ma túy đổi lấy vũ khí).
Mặc dù có không ít các đối tượng trực tiếp rửa tiền cho chính bản thân
mình nhưng chính vì sự gia tăng của số tiền bẩn cần phải rửa mà đã xuất hiện
một ngành công nghiệp “rửa tiền”. Đội ngũ chủ chốt của ngành này càng được
tăng cường với sự góp mặt của các luật sư cao giá, những người giao dịch chứng
khoán, những người mua bán bất động sản, những người cố vấn thuế vụ, các kế
toán viên,… Bộ máy rửa tiền ngày càng biến tướng và thâm nhập vào nhiều lĩnh
7
vực kinh doanh, ngành nghề có uy tín trong xã hội như là các ngân hàng lớn, các
hiệp hội thể thao, các cơ sở văn hóa, thậm chí là cả các cơ quan từ thiện và khiến
cho việc phát hiện, nhận dạng loại tội phạm này trở lên khó khăn hơn rất nhiều.
Từ thập kỷ 90, ngành công nghiệp rửa tiền có thêm những cú hích mới do có sự
thay đổi về thể chế, chính sách tài chính cũng như những tiến bộ về mặt công
nghệ.
Thứ nhất, hầu hết mọi quốc gia đều nới nỏng kiểm soát ngoại hối đặc biệt
là từ đầu thập niên 90. Tại nhiều nước việc đổi tiền ra ngoại tệ và ngược lại là
hoàn toàn tự do. Lượng tiền hoán đổi hàng ngày tăng lên từ 590 tỷ USD năm
1989 lên tới 1880 tỷ USD năm 2004. Đồng thời một số quốc gia đã thống nhất
cùng sử dụng một đồng tiền chung (đồng euro của khối cộng đồng kinh tế châu
Âu) hoặc một số nước còn thừa nhận đồng đô la Mỹ hay euro như là nội tệ bán
chính thức của nước mình. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán,
các hợp đồng mua bán chứng khoán phức tạp, số lượng lớn cũng được hình
thành. Chính vì những lý do trên mà một lượng tiền khổng lồ có thể dễ dàng
chuyển dịch từ nước này sang nước khác trong phút chốc, nằm ngoài sự kiểm
soát của cơ quan kiểm soát có thẩm quyền. Trong những năm gần đây chúng ta
thấy nổi lên khá nhiều thiên đường tài chính, nơi lý tưởng cho hoạt động rửa
tiền. Khi nhắc đến ví dụ điển hình chúng ta không thể không nhắc tới thiên
đường tài chính Thụy Sỹ. Trong những năm qua, với chính sách bảo mật chặt
chẽ thông tin cho khách hàng, các ngân hàng Thụy Sỹ đã giúp bọn tội phạm che
giấu, cất giữ một lượng tiền khổng lồ. Tuy nhiên, gần đây do mức độ ảnh hưởng
nghiêm trọng của tội phạm rửa tiền, các ngân hàng Thụy Sỹ đang bị buộc phải
cung cấp thông tin chi tiết của một số tài khoản đáng ngờ.
Thứ hai, trong những năm gần đây, các nước tham gia hội nhập với tốc độ
nhanh chóng, tiến độ mở cửa ở các nước đã tăng vọt. Các thị trường tài chính
đặc biệt là thị trường vốn trở nên thông thoáng hơn, do đó số lượng tiền lưu hành
8
toàn cầu đã tăng từ 6.800 tỷ USD năm 1990 lên đến 19.900 tỷ USD năm 2005
1
.
Rõ ràng rằng, càng nhiều loại hình tài chính thì càng lắm cơ hội cho bọn tội
phạm rửa tiền hợp thức hóa nguồn gốc cho những đồng tiền phi pháp.
Thứ ba, sự cạnh tranh thu hút vốn giữa các nước, các công ty phát hành
chứng khoán, các ngân hàng và các định chế tài chính trung gian khác ngày càng
kịch liệt. Tất yếu sẽ có những ngân hàng hay các công ty chứng khoán sẵn sàng
nhận những số tiền mà bọn tội phạm cần rửa mà không cần biết đến nguồn gốc
của chúng.
Thứ tư, thế kỷ 21 là thế kỷ của sự bùng nổ công nghệ thông tin. Mạng
Internet phát triển là cơ hội tốt cho các giao dịch qua mạng. Nhiều trang web
thương mại cho phép người ta tiến hành giao dịch, thanh toán mà không cần phải
cung cấp thông tin cá nhân. Như vậy các cơ quan chức năng khó có khả năng lần
ra dấu vết. Có thể thấy rửa tiền qua mạng Internet đang diễn ra dễ dàng và phổ
biến mà ít để lại dấu vết.
Nói tóm lại, nạn rửa tiền đã xuất hiện từ lâu và ngày càng lan rộng trên
phạm vi toàn thế giới, xâm lấn vào nhiều lĩnh vực với tốc độ nhanh chóng. Trong
phần tới, chúng ta sẽ tìm hiểu rõ hơn về đặc điểm của hoạt động rửa tiền để có
cái nhìn tổng thể về hoạt động rửa tiền.
1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động rửa tiền
Quy trình rửa tiền
Hiện nay hầu hết các quan điểm đều thống nhất chia quy trình rửa tiền
thành 3 giai đoạn:
1
Thời báo kinh tế Sài Gòn – ND, Rửa tiền và toàn cầu hóa,
9
Giai đoạn 1: giai đoạn cài đặt (placement). Đây là giai đoạn đưa tiền bất
hợp pháp vào lưu chuyển trong hệ thống kinh tế tài chính. “Cài đặt” được coi là
thao tác đầu tiên của hoạt động rửa tiền nhằm chuyển đổi các khoản tiền do
phạm tội mà có sang các hình thức hợp pháp khác và đưa vào các chu trình kinh
tế tài chính. Giai đoạn này được coi là khó khăn nhất đối với bọn tội phạm vì
tiền và tài sản có được là bất hợp pháp và đang bị các cơ quan điều tra theo dõi,
hơn nữa nhà nước và các cơ quan đặt ra nhiều quy chế để “đón lõng” bọn tội
phạm này, ví dụ như, quy định lượng tiền mặt được đưa qua biên giới, được
phép thanh toán, quy định về khai báo mở tài khoản ngân hàng. Ở giai đoạn này,
bọn tội phạm cố gắng chuyển những tờ giấy bạc “bẩn” sang đơn vị tiền tệ lớn
hơn, sec tiền mặt hoặc trực tiếp dùng những đồng tiền đó mua các nhà hàng,
khách sạn, các công ty kinh doanh máy bán hàng tự động, các sòng bạc, các tiệm
rửa xe,…
Giai đoạn 2: giai đoạn phân loại, chia nhỏ (layering). Tại giai đoạn này
sẽ diễn ra quá trình tích tụ và quay vòng các khoản tiền sau khi chúng đã thâm
nhập vào hệ thống tài chính. Hàng ngàn thao tác nghiệp vụ được thực hiện làm
cho đồng tiền chuyển dịch khắp nơi, quay vòng nhiều lần để xóa đi dấu vết tội
phạm, cắt đứt một cách giả tạo mối liên hệ giữa tài sản và tổ chức tội phạm. Bọn
tội phạm muốn rửa những số tiền lớn thường tìm đến các quốc gia có hệ thống
luật doanh nhiệp thông thoáng, hệ thống pháp luật về bảo mật ngân hàng ít khắt
khe hoặc những quy định về phòng chống rửa tiền còn lỏng lẻo để thành lập các
công ty phục vụ cho hoạt động rửa tiền. Dưới những vỏ bọc an toàn, những đồng
tiền bẩn được luân chuyển không ngừng và dần trở thành “sạch sẽ”. Bên cạnh
đó, bọn tội phạm có thể nhờ danh của người khác để mua các tài sản có giá trị
lớn (chứng khoán, ô tô, máy bay, sec du lịch) để tránh bị nghi vấn. Sòng bạc
cũng có thể trở thành một nơi lý tưởng để làm sạch đồng tiền vì tại một số nước
việc kinh doanh các sòng bạc không bị cấm, các sòng bạc lại có thể chấp nhận
10
tiền mặt. Khi thắng bạc, bọn tội phạm dễ dàng rút sec tại các ngân hàng của sòng
bạc và số tiền thắng bạc cũng có thể được coi là hợp pháp.
Giai đoạn 3: giai đoạn hòa nhập (intergration). Đây là giai đoạn cuối
cùng trong quy trình rửa tiền. Sau khi tiền “bẩn” trở nên tương đối “sạch” thì
bọn tội phạm bắt đầu đầu tư một cách hợp pháp vào hoạt động sản xuất kinh
doanh dưới các hình thức như vốn đầu tư cho các doanh nghiệp, các khoản vay
cá nhân, cổ phiếu, tín phiếu, bất động sản… Việc đầu tư vào các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh sẽ làm gia tăng giá trị cho đồng tiền của bọn tội phạm, trộn
lẫn đồng tiền hợp pháp và bất hợp pháp, đây cũng là công đoạn khó khăn để có
thể xác định hành vi cấu thành tội phạm
Như vậy nếu bọn tội phạm tiến hành rửa tiền qua càng nhiều giai đoạn thì các cơ
quan chức năng sẽ càng khó tìm ra dấu vết của tiền “bẩn”.
Các hình thức rửa tiền
Hiện nay hoạt động rửa tiền phát triển về cả phạm vi, quy mô, hình thức.
Tùy theo mức độ và môi trường pháp lý của mỗi nước mà bọn tội phạm sử dụng
các công cụ khác nhau để rửa tiền. Dưới đây tác giả sẽ lần lượt tìm hiểu các hình
thức rửa tiền theo mức độ phổ biến của chúng từ cao xuống thấp.
Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng: Các ngân hàng thường là đối tượng
chính của hoạt động rửa tiền bởi vì ngân hàng cung cấp nhiều loại hình dịch vụ
và phương tiện tiền tệ đa dạng như sec bảo chi, chi phiếu du lịch và chuyển tiền
ngân hàng. Tại các nước phát triển với hệ thống ngân hàng tiên tiến, mà Mỹ là
một trong những ví dụ điển hình, thì việc thanh toán, thực hiện các giao dịch qua
hệ thống ngân hàng là rất phổ biến và chiếm một tỷ trọng lớn. Hệ thống ngân
hàng được coi như là cửa ngõ cho các dòng tiền đi vào. Khi một lượng tiền bẩn
đã thâm nhập vào một ngân hàng nào đó thì nó có thể dễ dàng được luân chuyển
trong các định chế tài chính khác. Ở đây, ngân hàng được hiểu là các ngân hàng
11
thương mại, các hiệp hội cho vay và tiết kiệm, các hiệp hội tín dụng. Vào thời kỳ
đầu của việc thực hiện các giao dịch qua hệ thống ngân hàng, người ta mới chỉ
thực hiện sec giấy, khi giao dịch vẫn có sự tương tác trực tiếp giữa khách hàng
và cán bộ ngân hàng. Đồng thời hệ thống ngân hàng lúc ấy chỉ cho phép thanh
toán giữa các ngân hàng nội địa với nhau mà không tiếp nhận thanh toán trực
tiếp giữa các ngân hàng quốc tế với nhau nếu như ngân hàng này không có chi
nhánh hay đại lý ở nước kia. Điều này cũng đôi phần gây trở ngại đối với bọn tội
phạm muốn tiến hành rửa tiền. Tuy nhiên trong những năm gần đây, sự chuyển
đổi từ kiểu thanh toán truyền thống sang thanh toán điện tử cùng với sự phát
triển của hệ thống Internet Banking tại các ngân hàng đã mang đến cho bọn tội
phạm nhiều cơ hội hơn trong việc rửa tiền. Với những thay đổi về công nghệ,
các ngân hàng trên toàn thế giới có thể dễ dàng kết nối với nhau, khách hàng có
thể truy cập vào tài khoản qua mạng, điều này giúp cho tội phạm rửa tiền có cơ
hội thực hiện các giao dịch để rửa tiền dễ hơn.
Rửa tiền qua các công ty dịch vụ tiền tệ (money services businesses):
Nếu như rửa tiền qua hệ thống ngân hàng, bọn tội phạm cần thiết lập các tài
khoản, điều này sẽ tạo ra nhiều dấu vết đáng ngờ để cơ quan chức năng tìm ra
nguồn gốc đồng tiền nhưng thông qua các công ty dịch vụ tiền tệ thì việc rửa tiền
có vẻ dễ dàng hơn. Khi sử dụng các công cụ tài chính của các công ty dịch vụ
tiền tệ, người ta thường không cần phải lập các tài khoản mà nếu có thì cũng
không khắt khe như qua hệ thống ngân hàng. Hiện nay, các công ty dịch vụ tiền
tệ đang phát triển với tốc độ nhanh chóng và là một khu vực khá hấp dẫn đối với
tội phạm rửa tiền. Các công ty dịch vụ tiền tệ hiện nay có thể cung cấp một hoặc
nhiều loại hình dịch vụ tiền tệ với phí dịch vụ không cao như: thư chuyển tiền,
chi phiếu du lịch, thanh toán tiền mặt cho chi phiếu, mua bán tiền tệ hoặc đổi
tiền, các thẻ mang giá trị. Tuy nhiên, nếu như các giao dịch ở hệ thống ngân
hàng đạt tới 10.000 USD mới bị đưa vào dạng “nghi vấn” thì tại các công ty dịch
vụ tiền tệ nếu giao dịch từ 3.000 USD đã phải báo cáo và cần có các giấy tờ
12
chứng minh về số tiền ấy. Do đó, nếu cần rửa một số tiền lớn thì sử dụng các
công ty dịch vụ tiền tệ sẽ lâu hơn qua hệ thống ngân hàng.
Rửa tiền qua hệ thống thanh toán trực tuyến: Việc phát triển những dịch
vụ thanh toán mới và tân tiến đã đáp ứng được nhu cầu thanh toán nhanh chóng,
tiện lợi cho cả cá nhân và các thương gia. Tuy nhiên cùng với sự bùng bổ mang
tính toàn cầu của Internet, bọn tội phạm tranh thủ những kẽ hở của pháp luật để
lách luật, tiến hành rửa tiền xuyên quốc gia. Có thể thấy đây là một hình thức rửa
tiền rất thuận lợi trong giai đoạn thứ hai (giai đoạn phân loại, chia nhỏ). Đến thời
điểm này có rất nhiều nhà cung cấp các dịch vụ thanh toán trực tuyến không để
lộ các thông tin cá nhân của chủ tài khoản như paypal, e-gold. Các cá nhân có
thể sử dụng tài khoản ngân hàng đã có, thẻ tín dụng, thư chuyển tiền, điện
chuyển tiền và thậm chí cả tiền mặt để tạo các tài khoản thanh toán trực tuyến.
Khi đã có tài khoản online, người ta có thể dễ dàng thanh toán qua mạng để mua
bán các hàng hóa, tài sản kể cả tài sản có giá trị lớn, giao dịch có thể diễn ra trên
toàn cầu. Trong khi hiện nay các điều khoản quy định cho các chủ tài khoản đều
do các công ty cung cấp dịch vụ đưa ra mà chưa có sự can thiệp của cơ quan nhà
nước nên rất khó kiểm soát. Do đó, các giao dịch được thực hiện chồng chéo và
khó nhận ra dấu vết nguồn gốc của đồng tiền.
Rửa tiền qua kênh chuyển tiền không đòi hỏi những quy tắc cầu kỳ
(informal transfer value systems): Đây là một kênh chuyển tiền đã có từ lâu đời
và chủ yếu dựa vào lòng tin cũng như uy tín của các bên. Ban đầu, đây là một
hình thức chuyển tiền hợp pháp phục vụ những cộng đồng nhỏ thường xuyên
giao dịch với nhau. Một số nơi được coi như là trung tâm cho kênh chuyển tiền
này là Hawala, Hundi ở Nam Á, Fei Chi’en của Trung Quốc, Phoe Kuan của
Thái Lan. Tội phạm rửa tiền dùng kênh này để rửa, chuyển tiền, tài sản phạm tội
vì chúng ít minh bạch, chi phí cho các phi vụ thường thấp và hình thức này xuất
hiện ở những nơi mà những công cụ tài chính hiện đại chưa có, khó sử dụng. Chỉ
cần trong vài giờ đồng hồ là một giao dịch đã được hoàn thành. Hoạt động rửa
13
tiền qua hệ thống chuyển tiền không chính thức này thường được tiến hành như
sau: khách hàng tại một nước A nào đó muốn chuyển một số tiền cho một người
nào đó ở nước B thì người gửi tiền tại nước A sẽ đưa cho người môi giới chuyển
tiền ở nước A một số tiền và yêu cầu chuyển cho người nhận tại nước B một số
tiền tương đương tính theo tiền tệ của nước người nhận. Sau đó người môi giới
nước A sẽ chuyển toàn bộ thông tin về cuộc giao dịch này cho một người môi
giới chuyển tiền như vậy tại nước B qua điện thoại, fax hoặc email. Hai người
môi giới chuyển tiền sẽ đặt mã hóa cho giao dịch đó. Người môi giới nước A
phải thông báo mã hóa này cho người gửi. Người gửi tiền thông báo mã này cho
người nhận. Trong giao dịch này người nhận tiền muốn nhận được tiền phải trình
mã giao dịch cho người môi giới nước B thì mới nhận được tiền. Thu nhập của
những người môi giới giao dịch này là khoản hoa hồng chiếm từ 0,25% đến
1,25% tổng lượng tiền giao dịch cộng với số tiền chênh lệch tỷ giá hối đoái giữa
các quốc gia.
Rửa tiền bằng cách buôn lậu tiền mặt với số lượng lớn (bulk cash
smuggling): Những tên buôn lậu tiền, tài sản phi pháp có thể cất dấu tiền, tài sản
cần “rửa” vào các phương tiện đi lại, các tàu chở hàng hóa, trong các túi hành lý,
những thùng đóng gói chuyển phát nhanh, trên các máy bay, du thuyền riêng,…
Do lo ngại nguy cơ bọn khủng bố đem vũ khí vào trong nước nên ở nhiều nước,
tình hình kiểm tra hành lý đối với những người nhập cảnh chặt chẽ hơn so với
những người xuất cảnh. Vì vậy việc kiểm soát tiền, tài sản mang ra nước ngoài
chưa thực sự được thực hiện hiệu quả. Hoạt động buôn lậu tiền như vậy có thể
được thực hiện qua đường bộ, đường biển hoặc đường hàng không. Đặc biệt tại
các khu vực biên giới giữa các nước, việc chuyển tiền diễn ra rất nhiều. Thực tế
tại các khu vực cửa khẩu còn xuất hiện những đường hầm để chuyển tiền, rất
thuận lợi cho việc qua mặt các cơ quan chức năng.
Rửa tiền dựa trên buôn bán thương mại (trade-based money laundering):
Phương thức này sẽ nhanh chóng giúp bọn tội phạm tách biệt tiền, tài sản phi
14
pháp khỏi nguồn gốc thực “bẩn thỉu” của chúng. Với phương thức này bọn tội
phạm thường sử dụng một số cách như chuyển đổi đồng peso chợ đen (Black
Market Peso Exchange), khai cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thực tế của các lô
hàng xuất nhập khẩu trong các hóa đơn chứng từ, và một cách nữa là dùng tiền,
tài sản phi pháp để mua đá quý, các kim loại quý,đó là những tài sản giá trị cao
lại dễ cất giấu. Trong những cách trên thì chuyển đổi đồng peso chợ đen được
biết đến là hệ thống rửa tiền lớn nhất nửa bán cầu Tây, ước tính mỗi năm kênh
này rửa được 5 tỷ USD
2
. Hầu hết các giao dịch chuyển đổi đồng peso chợ đen
đều xuất hiện ba bên: những người môi giới tiền tệ đóng vai trò trung gian giữa
những tên trùm buôn lậu có tiền cần rửa tại Mỹ với những thương gia Colombia
cần nhập khẩu hàng hóa từ Mỹ và dường như không hề có sự dịch chuyển vật lý
của đồng tiền. Người môi giới tiền tệ nhận tiền cần rửa từ các trùm buôn lậu rồi
lập các tài khoản ngân hàng và đứng ra thanh toán cho các lô hàng nhập khẩu
của các thương gia Colombia và các thương gia Colombia thông qua những
người môi giới tiền tệ chuyển lại lượng tiền tương ứng cho các tên trùm buôn lậu
để chúng tiếp tục đầu tư.
Rửa tiền thông qua các công ty bảo hiểm: Các loại hình bảo hiểm nhân
thọ, bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm tai nạn ngày càng phát triển với những gói
dịch vụ khác nhau cũng là một mảnh đất để tội phạm rửa tiền hoạt động. Khách
hàng có thể linh hoạt lựa chọn loại bảo hiểm nhận tiền lãi hàng tháng hay sẽ
nhận tổng thể vào một thời điểm nào đó. Thông thường cũng có những trường
hợp khách hàng trực tiếp mua bảo hiểm từ công ty bảo hiểm nhưng phần lớn là
người mua bảo hiểm mua bảo hiểm từ các đại lý hoặc các môi giới bảo hiểm độc
lập. Những trung gian này có rất ít kinh nghiệm và hoặc có động cơ tiến hành
sàng lọc, phân loại và báo cáo khách hàng nếu có dấu hiệu đáng ngờ. Do vậy tội
phạm rửa tiền có thể lợi dụng những trung gian này để rửa tiền.
2
Department of Justice, The Department of The Treasury, The National Money Laundering Strategy for
1999, page 25
15
Rửa tiền qua thị trường chứng khoán: Ngày nay thị trường chứng khoán
đóng một vai trò quan trọng trong việc luân chuyển vốn toàn cầu. Thị trường
chứng khoán bùng nổ nhanh chóng nhưng hệ thống pháp luật điều chỉnh trong
ngành này để kiểm soát nạn rửa tiền còn chưa theo kịp tốc độ phát triển của thị
trường. Ở những nước mà luật pháp chưa được thắt chặt, tội phạm có thể trực
tiếp đầu tư tiền, tài sản bất hợp pháp của mình vào chứng khoán hoặc có thể
thông qua các môi giới chứng khoán để mua. Việc dùng các môi giới chứng
khoán sẽ giúp cho bọn tội phạm che giấu được thông tin cá nhân. Thực tế cho
thấy việc mua bán chứng khoán trên thị trường diễn ra rất nhanh và dễ dàng, nhà
đầu tư có thể đặt lệnh mua, bán chứng khoán liên tục, các giao dịch chằng chịt
gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong việc điều tra nguồn gốc đồng
tiền. Với nhiều thuận lợi như trên, thị trường chứng khoán đang trở thành một
kênh rửa tiền hiệu quả của bọn tội phạm.
Rửa tiền qua các công ty vỏ bọc (shell companies and trust): Các thực
thể hợp pháp như các công ty vỏ bọc, các tờ -rớt thường được thành lập cho các
mục đích kinh doanh hợp pháp. Tuy nhiên các thực thể này được phép giấu các
thông tin về quyền sở hữu, các thông tin chi tiết về tình hình tài chính do đó tội
phạm đã tận dụng hình thức kinh doanh này để rửa tiền. Theo nguồn tin của
hãng tin Reuters được báo tuổi trẻ đưa lại, hàng năm có khoảng 150.000 công ty
bình phong (công ty ma) được thành lập trên khắp thế giới. Tiền bẩn được
chuyển qua các công ty này và đến hơn 60 “thiên đường tài chính” trên thế giới
lên đến hàng tỷ đô la Mỹ. Theo tổ chức phi chính phủ Oxfarm thì số tiền này
nhiều gấp 6 lần chi phí cần cho giáo dục cơ bản ở những nước đang phát triển và
nhiều gấp ba lần chi phí dành cho chăm sóc sức khỏe cơ bản.
Rửa tiền qua sòng bạc: Tại một số nước mà đặc biệt là Mỹ, việc kinh
doanh các sòng bạc, các trò chơi cá cược, đánh xèng phục vụ cho vui chơi giải trí
là hợp pháp. Tại những điểm này, người ta có thể đổi tiền mặt lấy những đồng
tiền hoặc những thẻ được sử dụng chung tại các sòng bạc này. Tội phạm có thể
16
dùng cách này để chuyển những đồng tiền phi pháp của mình sang những thẻ
như vậy rồi chờ một thời gian sau đổi lại thành các sec tại các sòng bạc ấy hoặc
cũng có thể dùng ngay những thẻ ấy để đổi thuốc phiện với những tên trùm buôn
bán thuốc phiện. Bọn chúng cũng có thể dùng tiền “bẩn” để mua những giấy
chứng nhận thắng cược hoặc các giải thưởng xổ số. Như vậy chúng đã tạo ra cho
những đồng tiền phi pháp kia một lý lịch sạch sẽ, có căn cứ. Do có nhiều khả
năng bị bọn tội phạm lợi dụng để rửa tiền nên nhiều quy tắc đã được chính phủ
các nước đặt ra nhằm ngăn chặn rửa tiền do vậy những giao dịch lớn nhằm rửa
tiền cũng bị kiểm soát chặt chẽ hơn.
Nhìn chung, ngày nay với sự đi lên của kinh tế trong quá trình hội nhập toàn
cầu, với sự bùng nổ của công nghệ, dù có gặp nhiều cản trở về mặt pháp lý
nhưng tội phạm rửa tiền vẫn tìm được nhiều hình thức để hợp thức hóa những
đồng tiền phi pháp của mình. Các hình thức rửa tiền nói trên được sử dụng linh
hoạt trong cả ba giai đoạn của hoạt động rửa tiền chứ không hề tách biệt hình
thức nào chỉ được dùng cho giai đoạn nào.
1.1.2. Hậu quả của nạn rửa tiền
Hiện nay hoạt động rửa tiền diễn ra khá mạnh mẽ và lan rộng ra hầu hết
các nước trên thế giới, gây ra những hậu quả to lớn về mọi mặt đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội. Tuy nhiên do tội phạm rửa tiền không gây ra những hậu quả
trực tiếp như khủng bố, giết người nên nhiều người không nhận ra những ảnh
hưởng xấu mà hoạt động rửa tiền gây ra. Cũng có người cho rằng một số quốc
gia đặc biệt là các nước phương Tây sẽ có lợi nhờ tiền “bẩn”. Nhìn từ quan điểm
phân bố nguồn lực, một số nhà kinh tế cực đoan tôn sùng thị trường cho rằng
không có tiền nào là tiền bẩn, tiền nào là tiền sạch. Theo họ, “rửa tiền” chỉ là
phản ứng hợp lý của mọi cá thể kinh tế: không ai muốn trả thuế và ai cũng muốn
sử dụng tài sản của mình vào những hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận nhất.
Như vậy, theo họ, tiền bẩn đã giúp phát triển kinh tế. Song, ngay trên cơ sở
17
thuần lý thuyết thì ý kiến này cũng hoàn toàn sai lầm. Xét theo bản chất của nó
thì sự phân bố tài nguyên do rửa tiền không phải chỉ theo tín hiệu của lợi nhuận
mà phần lớn là để trốn tránh luật pháp. Hoạt động rửa tiền vừa lãng phí nguồn
lực kinh tế của xã hội vào các hoạt động tội phạm để sinh ra tiền bẩn lại vừa bóp
méo sự phân bố các nguồn lực ấy.
Số đông mọi người nhận ra hoạt động rửa tiền là một hành vi phạm tội và
thấy được những hậu quả nghiêm trọng mà nó gây ra. Theo nghiên cứu của các
nhà kinh tế, tại những năm 80 của thế kỷ 20, quy mô nền kinh tế ngầm tại một số
quốc gia so với GDP như sau: Australia là 412%, Đức là 211%, Nhật Bản là
415%, Anh là 115%, Mỹ là 433%. Theo thời báo tài chính (Financial Times) số
ra ngày 18/10/1994 thì số tiền được tẩy rửa hàng năm trên thế giới vào khoảng
500 tỷ USD. Trong năm 2002, người ta đánh giá hoạt động rửa tiền có giá trị
đứng thứ 3 trên thế giới sau kinh doanh dầu mỏ và buôn bán vũ khí. Theo đánh
giá của phòng thương mại quốc tế ICC có trụ sở chính tại Paris thì doanh số hoạt
động rửa tiền lên đến 1.100 tỷ USD/năm và chiếm khoảng 2% GDP toàn cầu.
Còn theo bản báo cáo gần đây của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)
thì doanh số nền kinh tế đen so với GDP của một số nước như sau: tại Anh là
7%, Mỹ ~ 9%, Đức là 10%, Ý, Hi Lạp, Tây Ban Nha là gần 25%, tại Nga và các
nước Trung, Đông Âu thì con số này có thể lên tới 50%. Trên đây mới chỉ là một
vài con số được điểm qua còn dưới đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu những hậu quả cụ
thể mà nạn rửa tiền gây ra.
1.1.2.1. Làm tổn thương các thị trường mới nổi
Tội phạm rửa tiền xuất hiện có nghĩa là trước đó đã xuất hiện các hoạt
động tội phạm nguồn để tạo ra tiền “bẩn” cần phải rửa. Thời kỳ đầu, tội phạm
rửa tiền hoạt động mạnh ngay tại các trung tâm kinh tế, tài chính nơi mà tiền phi
pháp được tạo ra. Tuy nhiên cùng với việc phát triển tình hình kinh tế tài chính
thì các nước đó cũng xây dựng những hệ thống pháp luật để ngăn chặn tội phạm
18
rửa tiền. Do tình hình bất lợi như vậy nên bọn tội phạm rửa tiền tìm cách thâm
nhập vào thị trường các quốc gia mới nổi, đây là các quốc gia đang có nhiều tiềm
năng để phát triển, chờ đợi các khoản đầu tư vào nước mình. Đồng thời hệ thống
pháp luật của các nước này có thể còn lỏng lẻo, chưa xây dựng được những công
cụ hữu hiệu để chống lại nạn rửa tiền. Rõ ràng mục tiêu của tội phạm rửa tiền
không phải tạo ra lợi nhuận như những hoạt động kinh doanh thông thường mà
nhằm che dấu nguồn gốc thực của tiền phi pháp để tạo ra một vỏ bọc hợp pháp
cho đồng tiền. Vì vậy, những hoạt động đầu tư không theo quy luật sẽ làm cho
những thị trường mới nổi dễ gặp phải các rủi ro.
1.1.2.2. Làm suy yếu khu vực kinh tế tư nhân
Khi nhắc đến những tác động của nạn rửa tiền đến nền kinh tế vi mô,
chúng ta không thể không nhắc đến ảnh hưởng của nó đến khu vực kinh tế tư
nhân. Bọn tội phạm thường thành lập các công ty vỏ bọc, ngụy trang dưới bóng
các công ty tư nhân vì ở hầu hết các nước việc thành lập các công ty tư nhân ít
có sự kiểm soát chặt chẽ về mặt nguồn vốn. Thông qua các công ty vỏ bọc này,
bọn chúng có thể trộn lẫn nguồn tiền phi pháp với nguồn tiền hợp pháp để các cơ
quan thẩm quyền khó tìm ra nguồn gốc. Rõ ràng một điều rằng mục đích của bọn
chúng không phải chạy theo quy luật làm kinh doanh thông thường là tạo ra lợi
nhuận mà để rửa những đồng tiền “bẩn”. Những công ty này có thể cũng tiến
hành sản xuất nhưng với lượng tiền sẵn có, bọn chúng sẵn sàng bao tiêu sản
phẩm, dịch vụ với giá cả thấp hơn giá thị trường rất nhiều để có được những
chứng từ chứng minh cho nguồn gốc đồng tiền. Việc bao tiêu sản phẩm với giá
cả thấp hơn giá thị trường gây ra một cuộc cạnh tranh không lành mạnh, đe dọa
đến hoạt động kinh doanh, sản xuất của những doanh nghiệp làm ăn hợp pháp.
Như vậy việc xuất hiện các công ty vỏ bọc trong khu vực kinh tế tư nhân sẽ làm
đảo lộn thị trường khu vực này, nhiều công ty tư nhân hợp pháp có thể rơi vào
tình trạng phá sản do không thể cạnh tranh.
19
1.1.2.3. Làm suy yếu toàn bộ thị trường tài chính
Một khi những đồng tiền này được đưa vào định chế tài chính, những tổ
chức tài chính dựa vào các nguồn tiền bất chính sẽ gặp nhiều khó khăn trong
việc quản lý các nguồn tài sản, các khoản nợ cũng như tình hình hoạt động của
nó. Tại hầu hết các quốc gia, ngân hàng được coi như mạch máu lưu thông trong
nền kinh tế. Giả sử một lượng lớn tiền cần rửa được chuyển vào tài khoản ngân
hàng nhưng sau đó lại biến mất một cách đột ngột mà không thông báo qua sự
chuyển giao hữu tuyến nhằm tránh phải đối mặt với những nhân tố phi thị trường
ví dụ như những hoạt động nhằm thực thi pháp luật, điều này sẽ gây khó khăn
cho các ngân hàng về khả năng thanh toán tiền mặt và các hoạt động khác.
Những cú sốc đột ngột như vậy có thể dẫn tới những rối loạn đối với các ngân
hàng nói riêng và các định chế tài chính nói chung, hậu quả là những định chế tài
chính này có thể rơi vào tình trạng phá sản.
1.1.2.4. Làm mất sự kiểm soát của các chính sách kinh tế
Theo ông Micheal Camdesus, cựu giám đốc điều hành quỹ tiền tệ quốc tế,
quy mô của nạn rửa tiền chiếm vào khoảng 2% đến 5% tổng sản phẩm quốc nội
toàn thế giới. Tại một số nước mới nổi, những khoản tiền bất hợp pháp này làm
cho ngân khố quốc gia nhỏ đi một cách tương đối, kết quả là chính phủ mất kiểm
soát đối với các chính sách kinh tế. Nạn rửa tiền có thể tác động bất lợi đến đồng
tiền và tỷ lệ lãi suất do những kẻ rửa tiền thường lựa chọn tái đầu tư vào những
tổ chức, khu vực ngành nghề mà hoạt động của chúng ít có khả năng bị phát hiện
hơn là đầu tư vào những nơi có tỷ suất lợi nhuận cao. Điều này sẽ gây ra những
xác định sai lầm về sự lưu chuyển tiền tệ, về sự dịch chuyển nguồn vốn giữa các
ngành, các khu vực trong nền kinh tế. Khi xác định sai lầm như vậy thì việc đưa
ra các chính sách kinh tế cũng không còn chính xác và hiệu quả nữa. Nạn rửa
tiền còn làm gia tăng mối đe dọa về sự bất ổn của đồng tiền do không xác định
được những sai lệch trong giá cả của tài sản và hàng hóa. Như vậy hoạt động rửa
20
tiền gây ra những thay đổi khôn lường trong nhu cầu về tiền tệ và sự gia tăng của
luồng vốn quốc tế, biến động về tỷ suất lợi nhuận và tỷ giá hối đoái và điều này
tất yếu dẫn đến những sai lệch trong việc ra các quyết sách kinh tế.
1.1.2.5. Làm sai lệch và mất ổn định về mặt kinh tế
Như đã nhắc nhiều lần ở trên, bản chất của hoạt động rửa tiền không phải
nhằm hướng tới lợi nhuận mà chỉ hướng tới cái đích càng qua nhiều giai đoạn,
càng qua nhiều giao dịch chằng chịt để “rửa” được đồng tiền. Muốn ít bị các cơ
quan chức năng phát hiện thì chúng thường đầu tư vào các ngành nghề không
nhất thiết là tạo ra lợi nhuận nhưng phải an toàn. Có thể tại một quốc gia, việc
đầu tư vào ngành nghề nào đó chẳng có tiềm năng, hoặc ngành nghề đó đã bão
hòa nhưng nó an toàn, thuận lợi cho hoạt động rửa tiền nên chúng vẫn tiếp tục
đầu tư. Điều này sẽ tạo nên các cơn sốt đầu tư ảo trên thị trường và khi mà
những ngành này không còn phù hợp cho hoạt động rửa tiền nữa thì chúng sẽ bị
loại bỏ, gây ra những sự sụp đổ, thiệt hại cho nền kinh tế quốc gia đó. Hậu quả này
cũng không có gì là lạ nếu chúng ta nhìn lại thị trường Việt Nam những năm gần
đây. Thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường vàng hoạt động tại
Việt Nam chưa được bao lâu thì đã bắt đầu lên cơn sốt. Người ta e ngại rằng phải có
một lượng tiền lớn đổ vào thị trường Việt Nam thì mới có thể tạo những cơn sốt
nhanh đến vậy nhưng thực ra đó chỉ là những bong bóng rồi cũng đến lúc “xì hơi”.
1.1.2.6. Gây tổn hại đến ngân sách quốc gia
Trước hết, khi nói đến nguồn gốc của số tiền cần rửa đã bao gồm một
phần tiền từ hoạt động kinh doanh hợp pháp nhưng các doanh nghiệp không khai
báo để trốn thuế. Trong khi thuế là nguồn thu chủ yếu của chính phủ, các doanh
nghiệp trốn thuế sẽ làm nhà nước thất thu một lượng lớn. Mặt khác, nạn rửa tiền
diễn ra gây nhiều hậu quả cho các quốc gia buộc chính phủ mỗi nước phải chi
ngân sách để chống lại vấn nạn này, vừa chống lại tội phạm trực tiếp rửa tiền lại
phải chống lại cả những loại tội phạm nguồn của rửa tiền như tham nhũng, buôn
21
lậu,… Bên cạnh đó nhà nước còn phải chi cho các hoạt động để khắc phục
những hậu quả mà những loại tội phạm trên gây ra.
1.1.2.7. Gây rủi ro cho những nỗ lực tư nhân hóa
Hoạt động rửa tiền sẽ đe dọa những quốc gia muốn cải cách nền kinh tế
bằng việc thực hiện tư nhân hóa nền kinh tế. Những tên tội phạm rửa tiền sẽ
dùng những đồng tiền “bẩn” của chúng để mua lại những doanh nghiệp quốc
doanh với giá cao hơn so với những người dùng tiền hợp pháp. Như vậy chúng
sẽ trở thành chủ sở hữu hợp pháp của các công ty này. Nhà nước tiến hành tư
nhân hóa nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng và hiệu quả hơn cho các doanh
nghiệp nhưng có lẽ mục tiêu này sẽ khó mà thực hiện được nếu việc nắm quyền
doanh nghiệp rơi vào tay những tên tội phạm. Do đó, việc tư nhân hóa vốn được
coi là một công cụ để phát triển nền kinh tế thì bây giờ lại trở thành cái đích cho
bọn tội phạm nhắm tới để rửa tiền.
1.1.2.8. Gây nguy cơ tổn hại về mặt danh tiếng
Trong bối cảnh nạn rửa tiền đã phát triển với phạm vi toàn cầu thì việc
phòng chống nạn này không phải là nhiệm vụ của riêng một quốc gia nào mà đây
là một mặt trận chung cần sự góp sức của mọi tổ chức, quốc gia. Hầu hết mỗi
quốc gia đều được khuyến cáo về việc tự tạo ra những khung pháp lý, những
biện pháp cụ thể để tự bảo vệ mình khỏi nạn rửa tiền. Nếu một quốc gia bị cho là
có dính líu đến tội phạm tài chính, tội phạm rửa tiền thì sẽ bị mang tiếng xấu do
những hoạt động như vậy và sẽ bị giảm những cơ hội hợp tác hợp pháp và sự
tăng trưởng bền vững, trong khi đó lại thu hút những tổ chức tội phạm quốc tế
với những mục tiêu ngắn hạn. Trong khi các quốc gia tuyên chiến với nạn rửa
tiền, nếu một quốc gia nào đó bị coi là đồng minh của tội phạm loại này thì sẽ bị
mất thiện chí hợp tác của các nước khác, có thế dẫn tới tình trạng các nhà đầu tư
nước ngoài lo ngại về sự bất ổn kinh tế của quốc gia đó mà dè dặt trong việc đầu
tư. Hiện nay trên thế giới có một số nơi được coi như những thiên đường tài