Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Khóa luận tốt nghiệp văn học từ chỉ đồ dùng trong gia đình và công cụ nông nghiệp trong ca dao nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.28 KB, 81 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÕ TRƯỜNG TOẢN
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC

TỪ CHỈ ĐỒ DÙNG TRONG GIA ĐÌNH
VÀ CƠNG CỤ NƠNG NGHIỆP
TRONG CA DAO NAM BỘ

LÊ THỊ YẾN NHI

Hậu Giang, tháng 05 năm 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÕ TRƯỜNG TOẢN
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC

TỪ CHỈ ĐỒ DÙNG TRONG GIA ĐÌNH
VÀ CƠNG CỤ NƠNG NGHIỆP
TRONG CA DAO NAM BỘ

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

NGUYỄN THỊ THU THỦY


LÊ THỊ YẾN NHI

Hậu Giang, tháng 05 năm 2013


LỜI CẢM TẠ

Tơi xin chân thành bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới Thạc sĩ
Nguyễn Thị Thu Thủy, trường Đại học Cần Thơ, người đã tận tình hướng dẫn tơi
trong q trình nghiên cứu và cơ Vũ Thúy Kiều đã tạo điều kiện để tơi hồn thành
luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ cũng như tạo điều kiện của
các thầy cô Khoa Khoa học cơ bản, Thư viện Trường Đại học Võ Trường Toản,
Thư viện Thành phố Cần Thơ, Trung tâm học liệu Đại học Cần Thơ để tơi hồn
thành luận văn tốt nghiệp.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn đến những người thân trong gia đình, bạn bè
đã động viên giúp đỡ tơi vượt qua mọi khó khăn hồn thành luận văn.
Chân thành cảm ơn.
Tác giả luận văn

LÊ THỊ YẾN NHI


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tơi thực hiện, các số liệu thu
thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất cứ đề
tài nghiên cứu khoa học nào.

Sinh viên thực hiện


LÊ THỊ YẾN NHI


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................... 1
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................. 4
4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................5
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỪ, CA DAO VÀ CA DAO NAM BỘ
...................................................................................................................... 6
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN . ............................................................................................. 6
1.1.1 Từ tiếng việt . ................................................................................................ 6
1.1.1.1 Khái niệm từ . ....................................................................................... 6
1.1.1.2 Đặc điểm ngữ âm .................................................................................. 7
1.1.1.3 Đặc điểm ngữ pháp ............................................................................... 7
1.1.2 Đặc điểm của từ .......................................................................................... 8
1.1.2.1 Đặc điểm cấu tạo từ . ............................................................................ 8
1.1.2.2 Các kiểu từ xét về mặt cấu tạo ............................................................. 8
1.1.3 Ý nghĩa của từ ............................................................................................ 15
1.1.3.1 Ý nghĩa biểu vật, biểu niệm và biểu thái của từ ................................. 16
1.1.3.2 Hiện tượng nhiều nghĩa và sự chuyển nghĩa của từ ............................ 17
1.2 CA DAO NAM BỘ ........................................................................................... 20
1.2.1 Khái niệm ca dao và ca dao Nam bộ ......................................................... 20
1.2.1.1 Ca dao ................................................................................................. 20

1.2.1.2 Ca dao Nam Bộ ................................................................................. 21
1.2.2 Đặc điểm .................................................................................................... 21
1.2.2.1 Nội dung .... ........................................................................................ 21
1.2.2.2 Hình thức ...... ..................................................................................... 22
1.2.2.3 Phân loại .... ........................................................................................ 24

i


CHƯƠNG 2
TỪ CHỈ CÔNG CỤ NÔNG NGHIỆP VÀ ĐỒ DÙNG TRONG GIA
TRONG CA DAO NAM BỘ.
2.1. Thống kê . ......................................................................................................... 30
2.1.1 Từ chỉ công cụ nông nghiệp .................................................................. 30
2.1.2 Từ chỉ đồ dùng trong gia đình ............................................................... 30
2.2. Khảo sát giá trị ngữ nghĩa ................................................................................ 31
2.2.1. Những từ chỉ công cụ nông nghiệp .......................................................... 32
2.2.1.1 Những từ chỉ dụng cụ đánh bắt ........ ................................................. 32
2.2.1.2 Những từ chỉ công cụ nông nghiệp .................................................... 36
2.2.2. Những từ chỉ đồ dùng trong gia đình ....................................................... 37
2.2.2.1 Đồ dùng sử dụng cho việc nghỉ ngơi .. ............................................... 37
2.2.2.2. Những từ chỉ đồ dùng sử dụng cho việc ăn uống .............................. 42
2.2.2.3. Những từ chỉ đồ dùng sử dụng cho việc chứa đựng ......................... 45
2.2.2.4 Những từ chỉ các loại đồ dùng khác.................................................... 46
2.3. Nhận xét ........................................................................................................... 50

PHẦN KẾT LUẬN . ..................................................................................... 52
Tài liệu tham khảo.....................................................................................................53

ii



PHẦN MỞ ĐẦU
1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ca dao là loại văn học truyền miệng, tồn tại từ rất lâu đời có sức ảnh hưởng lớn
đối với đời sống tinh thần của người Việt. Ca dao là những lời ru của mẹ, những bài
vè của trẻ nhỏ. Ca dao cũng đã đi vào những lời thơ một cách tự nhiên như trong
thơ của Hồ xuân Hương. Ca dao Bắc bộ có câu: “Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân”
thì trong thơ của bà lại có câu “quả cau nho nhỏ miếng trầu hơi”.
Mỗi vùng miền khác nhau ca dao có những nét riêng, tất cả đã góp phần hình
thành nên nền văn hóa chung của dân tộc. Được sinh ra và lớn lên ở vùng đất Nam
bộ, tôi rất đổi tự hào về những gì thuộc về miền đất sơng nước này và trong đó có ca
dao Nam bộ. Ca dao Nam bộ phản ánh những nét văn hóa cũng như lịch sử của
vùng đất này, nó chứa đựng tình cảm của con người nơi đây thơng qua những hình
ảnh gần gũi và rất đỗi bình dị.
Mỗi hình ảnh được gợi lên trong ca dao ln gắn với những tình cảm chân thành,
mộc mạc thể hiện tình người, tình yêu thiên nhiên và sự gắn kết giữa con người với
thiên nhiên. Những hình ảnh đi vào trong ca dao Nam bộ là những hình ảnh được
lấy từ trong chính cuộc sống của nhân dân, đó là những con vật, những đồ vật trong
cuộc sống sinh hoạt và lao động như: chiếc xuồng, mái chèo, chiếc ghe, chiếc
chiếu… những hình ảnh này đã gắn bó với bao thế hệ con người nên nó đi vào ca
dao một cách nhẹ nhàng mà tinh tế.
Về ca dao Nam bộ đã có nhiều cơng trình, bài viết nghiên cứu, nhưng đề tài “Từ
chỉ đồ dùng trong gia đình và cơng cụ trong nơng nghiệp” thì chưa có cơng trình
nghiên cứu nào. Việc nghiên cứu đề tài này là cơ hội để tôi cũng cố và mở rộng
thêm kiến thức về ca dao và ngôn ngữ.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Văn học dân gian nói chung và ca dao nói riêng là một vấn đề được quan tâm
nghiên cứu từ rất lâu. Sau đây là các cơng trình tiêu biểu:
Cơng trình nghiên cứu của Vũ Ngọc Phan trong Tục ngữ ca dao dân ca việt nam

cơng trình này nghiên cứu tục ngữ và ca dao dân ca Việt Nam nói chung. Ở đây Ca
dao được đề cập đến ở phương diện nội dung, hình thức. Trong đó nêu ra một số nội
dung cơ bản của ca dao như: tình cảm, tinh thần lao động sản xuất, tinh thần nhân
1


đạo, và chia ca dao ra làm các chủ đề chính: ca dao trong mối quan hệ thiên nhiên
và trong mối quan hệ xã hội. Về hình thức nghệ thuật ca dao nổi bật ở cách sử dụng
hình ảnh liên tưởng và biểu trưng, trong đó hình ảnh đáng chú ý là con cò và con
bống. Những đặc điểm trên được nghiên cứu trên nền văn hóa chung của dân tộc.
Theo một trình tự nhất định bước đầu đã nêu ra những đặc điểm của ca dao, phản
ánh được nền văn hóa trong ca dao.
Cơng trình nghiên cứu của Hồng Tiến Tựu trong Bình giảng ca dao chủ yếu tập
trung vào việc bình giảng là chính. Ơng đã đưa ra những điểm quan trọng của việc
bình giảng trong văn học nói chung và ca dao nói riêng qua đó khẳng định vai trị
của việc bình giảng. Cơng trình cịn chỉ ra những nét chung và riêng của ca dao và
những yếu tố quan trọng trong việc bình giảng như: từ, lời, ý,... làm nổi bật nét đặc
thù của ca dao.
Trong phạm vi ca dao Nam bộ không thể không kể đến cơng trình nghiên cứu
Ca dao dân ca Nam bộ của Bảo Định Giang, đây có thể coi như một cơng trình tiên
phong cho mảng ca dao Nam bộ. Cơng trình này tác giả khai thác ca dao Nam bộ
dựa trên lịch sử, địa lí, qua đó nêu lên tính cách con người Nam bộ.
Về lịch sử có thể nói đây là vùng đất mới được khai thác muộn hơn so với khác
vùng khác của đất nước kéo theo đó là sự hình thành về văn hóa, đời sống, và sự ra
đời của ca dao cũng muộn “có thể nói ca dao - dân ca trữ tình Nam bộ là bộ phận
sáng tác rất trẻ của dân tộc. Sự hình thành và phát triển của vùng đất này gắn liền
với lịch sử khai khẩn vùng đất Nam bộ của người Việt.” [4, tr.34]
Về địa lí đây là khu vực có nhiều hệ thống sơng ngịi do đó hình thành nên nền
văn hóa sơng nước và có lượng sản vật vơ cùng dồi dào và phong phú như: cá,
tôm,… nhưng do còn hoang vu nên cũng nhiều nguy hiểm như: sấu, cọp,... điều này

góp phần chi phối ca dao và tính cách con người Nam bộ.
Nội dung ca dao Nam bộ ngồi những đặc điểm chung cịn có sự khác biệt nổi
bật là quan điểm về tình yêu và cách bày tỏ tình cảm của con người Nam bộ, qua đó
làm nổi bật tính cách của họ. Tất cả đều là những con người có tính thẳng thắng,
chất phác, phóng khống và tinh thần hiệp nghĩa.
Ca dao Nam bộ còn là biểu hiện của sắc thái địa phương, mà trước hết rõ nhất là
về mặt ngôn từ bởi đây là phương tiện để thể hiện những nét văn hóa của vùng đất

2


mới này. Nhìn chung cơng trình nghiên cứu này đã nêu lên được một bức tranh khái
quát về vùng đất và con người Nam bộ.
Trong phạm vi này cịn có cơng trình nghiên cứu Văn học dân gian Đồng bằng
sơng Cửu long do Khoa Ngữ văn Đại học Cần Thơ biên soạn, cơng trình này nêu
một số mẫu chuyện về những địa danh của Nam bộ như: Cao Lãnh, Rạch Giá,…
Những loại đặc sản như: bưởi, thơm, bánh tét, bánh rau râm,… Và sưu tầm những
bài ca dao thuộc khu vực Đồng bằng sông cửu long.
Nghiên cứu cụ thể hơn về ca dao và văn hóa Nam bộ có cơng trình nghiên cứu
Cảm nhận ca dao Nam bộ của Trần Văn Nam. Cơng trình này tiến hành nghiên cứu
văn hóa của vùng đất mới. Bên cạnh đó chỉ ra những hình ảnh đặc trưng trong ca
dao Nam bộ như hình ảnh người vợ khổ cực, hình ảnh Bần và Mù u, hay địa danh
nổi tiếng của vùng đất này như Cần Thơ. Và đề cập đến biểu trưng văn hóa trong ca
dao Nam bộ, đưa ra những đặc tính cơ bản của biểu trưng. Trong cơ sở để hình
thành biểu trưng, tác giả cho rằng những hình ảnh từ thế giới tự nhiên và thế giới
vật thể nhân tạo khi đi vào ca dao với số lần nhất định thông qua biện pháp ẩn dụ tu
từ đã trở thành biểu trưng trong ca dao. Từ đó nêu lên nhận định về q trình biểu
trưng hóa nghệ thuật là q trình “ liên tưởng so sánh giữa cái biểu đạt và cái được
biểu đạt.” [6, tr.178]
Cơng trình này nêu lên được vấn đề đáng quan tâm là vấn đề biểu trưng trong ca

dao, cơ sở hình thành, cũng như những điểm cơ bản của tính biểu trưng.
Cơng trình Biểu trưng trong ca dao Nam bộ của Trần văn Nam nghiên cứu về
biểu trưng trong ca dao Nam bộ, đưa ra những ý kiến về biểu trưng và biểu trưng
trong ca dao Nam bộ. Phân loại biểu trưng theo đặc điểm của ngơn ngữ tượng
trưng. Biểu trưng được chia làm hai nhóm: biểu trưng có tính chất phổ biến và biểu
trưng có tính chất ngẫu nhiên. Trong xu hướng lựa chọn cái biểu đạt trong ca dao
Nam bộ biểu trưng có tính chất phổ biến chiếm ưu thế hơn. Cơ sở hình thành biểu
trưng do ấn tượng riêng của người dân Nam bộ về thế giới bên ngoài, và đặc thù của
các đối tượng biểu trưng. Từ đó chỉ ra mối quan hệ giữa tính biểu trưng và văn hóa
của Nam bộ.
Vấn đề ngôn ngữ học tri nhận đây là một bộ phận của ngôn ngữ học ra đời
khoảng 20 đến 30 năm trở lại đây. Có các cơng trình sau:

3


Cơng trình Ngơn ngữ học tri nhận. Từ điển của Trần Văn Cơ. Ở đây đối tượng
nghiên cứu là ngôn ngữ học tri nhân, trọng tâm là cách con người nhìn nhận thế giới
mà trong đó ngơn ngữ chỉ là phương tiện chứ khơng phải là trung tâm.
Tư tưởng chính của ngôn ngữ học tri nhận là khẳng định nguyên tắc “Dĩ nhân vi
trung” tức là con người là trung tâm của tất cả các hiện tượng văn hóa và ngôn ngữ.
Đưa ra những yếu tố của tri nhận như Ý niệm là yếu tố cơ bản và là đơn vị nhỏ nhất
của tri nhận, còn ẩn dụ tri nhận là cơ sở để cấu thành các ý niệm. Công trình nghiên
cứu này đã nêu ra những đơn vị cơ bản, những yếu tố đặc trưng cũng như tư tưởng
chủ đạo của ngôn ngữ học tri nhận.
Tiếp theo là Một số vấn đề ngôn ngữ học và tiếng Việt của Lý Tồn Thắng
nghiên cứu những vấn đề ngơn ngữ. Trong đây ngôn ngữ học tri nhận cũng được đề
cập đến ở phương diện ngữ pháp. Áp dụng các nguyên tắc ngữ pháp của tri nhận để
nghiên cứu tiếng Việt, cách thức tri nhận thế giới của người Việt. Đề cập đến một
nội dung quan trọng trong tri nhận chiếu xạ trong các ẩn dụ về tình cảm, đây là yếu

tố cơ bản để tạo nên ý niệm của tri nhận.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm khám phá được nét độc đáo của ca dao
Nam bộ cũng như thấy được giá trị của ca dao nói chung và ca dao Nam bộ nói
riêng. Nam bộ có hệ thống sơng ngịi chằng chịt, điều kiện tự nhiên có những đặc
thù, theo đó những đồ dùng, dụng cụ của Nam bộ khơng hồn tồn giống với Bắc
bộ, do vậy những từ chỉ đồ dùng, dụng cụ trong gia đình cũng khác biệt. Tất cả đã
đi vào ca dao Nam bộ.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài này, người nghiên cứu có cơ hội hệ thống hóa
trường từ vựng chỉ đồ dùng - dụng cụ ở Nam bộ, đồng thời nghiên cứu giá trị ngữ
nghĩa của chúng trong ca dao, cũng như hiểu được nhận thức của người Nam bộ về
thế giới đồ vật trong ca dao.
Nghiên cứu đề tài sẽ giúp tôi mở rộng hiểu biết về Văn học dân gian Nam bộ, từ
vựng địa phương Nam bộ.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Thực hiện đề tài này thì người nghiên cứu sẽ tiến hành làm việc với ca dao Nam
bộ cần nắm rõ các đặc điểm cơ bản của ca dao nói chung và ca dao Nam bộ nói
riêng, cần biết những nét về văn hóa, lịch sử, địa lí, con người của vùng đất này. Cụ
4


thể sẽ tiến hành nghiên cứu những câu ca dao có chứa từ chỉ đồ dùng trong gia đình
và cơng cụ trong nông nghiệp. Đây là những đồ dùng - dụng cụ mà người dân Nam
bộ sử dụng phổ biến. Luận văn tiến hành khảo sát và chắc lọc chủ yếu dựa vào
nguồn tài liệu chính là: quyển Ca dao dân ca Nam bộ của Bảo Định Giang và Văn
học dân gian đồng bằng sông cửu long của Trường đại học Cần Thơ
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để tìm hiểu đề tài này người thực hiện phải sử dụng nhiều phương pháp, đầu tiên
sử dụng phương pháp thống kê nhặt ra toàn bộ từ chỉ đồ dùng - dụng cụ trong gia
đình và nơng nghiệp trong ca dao, sau đó sử dụng phương pháp phân loại để phân

loại và đi sâu vào nghiên cứu. Khi đã phân tích từ ngữ thuộc nhóm này trong ca dao
chúng tơi sử dụng phương pháp so sánh để so sánh và đối chiếu làm rõ vấn đề. Cuối
cùng dùng phương pháp tổng hợp để tổng hợp lại những kết quả đạt được, từ đó đưa
ra những nhận định đánh giá, cuối cùng.

5


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỪ, CA DAO VÀ CA DAO NAM BỘ

1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1 Từ tiếng việt
1.1.1.1 Khái niệm từ
Câu hỏi “Từ là gì” đã được đặt ra từ rất lâu và nhận được rất nhiều sự quan tâm
của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học, họ đã đưa ra rất nhiều ý kiến xung quanh vấn
đề này và có nhiều tranh luận nhưng chưa có sự thống nhất do đó đến nay vẫn chưa
có câu trả lời nào thỏa đáng được vấn đề trên. Chỉ theo Nguyễn Thiện Giáp hiện
nay có khoảng 300 khái niệm về từ nhưng để có được một khái niệm đầy đủ, chính
xác và có được sự thống nhất thật không phải chuyện dễ. Sau đây là một số khái
niệm về từ của các nhà nghiên cứu:
Đầu tiên có thể kể đến khái niệm về từ trong Từ vựng ngữ nghĩa học của Đỗ Hữu
Châu ông cho rằng “từ của tiếng việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến,
mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định
tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để
tạo câu” [1, tr.13]. Đỗ Hữu Châu đã dựa vào một số đặc điểm của từ để nêu lên
khái niệm này. Còn trong 777 Khái niệm ngôn ngữ học của Nguyễn Thiện giáp đưa
ra khái niệm một cách ngắn gọn nhưng khái quát hơn, theo ông từ là đơn vị nhỏ
nhất của ngôn ngữ. Nó độc lập về ý nghĩa lẫn hình thức. Cũng dựa vào những đặc

điểm của từ nói chung nhưng trong Ngôn ngữ học đại cương của Mai Thị Kiều
Phượng đã nêu lên khái niêm về từ trong đó từ là đơn vị có tổng thể hữu cơ, có tính
tồn khối chuyên biểu thị thực tế khách quan, bao gồm các đặc trưng về ngữ âm,
các thuộc tính về ngữ nghĩa, ngữ pháp, có thể tồn tại tách rời nhau và được tái hiện
trong các lời nói khác nhau; từ là đơn vị lớn nhất trong hệ thống ngôn ngữ chứa
đựng trong lịng nó những đơn vị các cấp độ dưới nó; là đơn vị có sẵn, cố định, bắt
buột (có tính chất xã hội); là đơn vị nhỏ nhất trong ngơn ngữ, độc lập về ý nghĩa và
hình thức, tạo nên các đơn vị cú pháp: cụm từ và câu. Cịn trong Giáo trình từ vựng
học của Đỗ Việt Hùng cho rằng từ là một đơn vị có tính chất tín hiệu. Nó tồn tại
hiển nhiên trong ngơn ngữ ở trạng thái tĩnh và là đơn vị nhỏ nhất để tạo câu khi
6


ngôn ngữ hành chức cũng dựa vào cơ sở chung đó trong Nhập mơn ngơn ngữ học
có sự tham gia nghiên cứu của Đỗ Việt Hùng cũng có khái niệm tương tự.
Có thể thấy rằng do dựa trên cùng một cơ sở nên các khái niệm có những điểm
chung nhất định do đó ta có thể hiểu từ là đơn vị nhỏ nhất của ngơn ngữ có nghĩa nó
mang tính sẵn có, cố định, bắt buột, nhỏ nhất và trực tiếp tạo câu.
1.1.1.2 Đặc điểm ngữ âm
Trong từ tiếng Việt đặc điểm ngữ âm và đặc điểm ngữ pháp được xem như
hai đặc điểm cơ bản. Đối với đặc điểm ngữ âm Đỗ Hữu Châu đưa ra sự so sánh và
cho rằng so với ngôn ngữ của các nước Ấn - Âu thì hình thức âm thanh của tiếng
Việt có phần cố định và bất biến ở hầu như mọi vị trí, quan hệ và chức năng trong
câu. Theo ơng thì đây là một đặc điểm thuận lợi để nhận diện từ. Trên cơ sở đó từ
tiếng Việt có những mối quan hệ giữa các đặc tính như tính cố định bất biến có
quan hệ mật thiết với tính độc lập của từ tiếng Việt đối với câu và với văn cảnh, cho
nên hình thức ngữ âm và cái mà từ biểu thị có mối quan hệ với nhau. Từ đó ơng đưa
ra lí giải về mối quan hệ này cụ thể là từ tượng thanh điều kiện để cho một từ có thể
gợi tả mơ phỏng các sự vật hiện tượng phải dựa trên cơ sở là thể chất và vật chất
của từ phải trùng với thể chất và vật chất của sự vật hiện tượng.

Nói tóm lại có thể hiểu từ tiếng Việt có thể có biến thể ngữ âm hoặc ngữ nghĩa,
nhưng khơng có biến thể hình thái học. Trong các ngôn ngữ Ấn – Âu, từ có biến thể
về mặt hình thái. Nhưng trong tiếng Việt khơng có biến thể hình thái học như từ: đi,
học, nói… bất biến trong mọi quan hệ ngữ pháp và chức năng ngữ pháp trong câu.
1.1.1.3 Đặc điểm ngữ pháp
Đặc điểm ngữ pháp của từ tiếng Việt theo Đỗ Hữu Châu có thể dựa vào định
nghĩa của từ mà suy ra được đặc điểm ngữ pháp của từ, và ông cho rằng các từ khác
nhau ln có đặc điểm ngữ pháp khác nhau nhưng bên cạnh đó chúng cũng có tính
chất chung, tính chất chung nhất của các đặc điểm ngữ pháp là tính đồng loạt bởi vì
có những từ có cùng từ loại với nhau, ơng cũng chỉ ra rằng do đặc tính cố định và
bất biến nên bản thân hình thức ngữ âm của tiếng Việt khơng chứa những dấu hiệu
chỉ rõ những đặc điểm ngữ pháp của chúng. Nếu như ở các tiếng Nga, Pháp, có thể
cho biết chúng thuộc từ loại nào thì tiếng Việt lại khơng có. Các đặc điểm ngữ pháp
của từ khơng biểu hiện trong chính bản thân của từ mà biểu hiện chủ yếu ở ngoài từ;
trong mối quan hệ tương quan của nó với các từ khác trong câu. Mối quan hệ tương
7


quan đó thể hiện qua: “khả năng kết hợp giữa từ đang được xét với những từ nhân
chứng” (có thể là loại từ hay phó từ) [1, tr.18]. Cụ thể có đặc điểm ngữ pháp của từ
với ý nghĩa của từ có quan hệ gắn bó với nhau khi mà cơ sở của các đặc điểm ngữ
pháp là ý nghĩa cịn đặc điểm ngữ pháp đóng vai trị là cái khn hình thức để định
hình một ý nghĩa. Từ đó nhận định ngữ pháp là cơ sở khách quan để tiến hành xác
định các ý nghĩa khác nhau của một hình thức ngữ âm. Từ những tính chất của đặc
điểm ngữ pháp, Đỗ Hữu Châu cho rằng: “đặc điểm ngữ pháp của từ tiếng Việt là
tổng thể những đặc điểm ngữ kết hợp với nhau, khả năng làm thành phần câu và
khả năng chi phối nhau giữa các cụm từ trong tổng thể đó ứng với một ý nghĩa nào
đó của từ” [1, tr.20].
Nói tóm lại đặc điểm ngữ pháp của từ tiếng Việt có một số điểm sau: nghĩa ngữ
pháp của từ không được biểu hiện trong nội bộ từ, mà được biểu hiện trong quan hệ

giữa các từ trong câu, khơng như các ngơn ngữ biến hình khác. Trong tiếng Việt từ
khơng có những hình thức giúp xác định nghĩa ngữ pháp mà phải dựa vào loại từ
hay phó từ nói chung.
1.1.2 Đặc điểm của từ
1.1.2.1 Đặc điểm cấu tạo từ
Về cơ bản từ được tạo nên từ các phương thức khác nhau nhưng đều dựa trên
một yếu tố chung làm cơ sở. Theo Đỗ Hữu Châu, các yếu tố cấu tạo nên từ là những
hình thức ngữ âm có nghĩa nhỏ nhất, đó chính là hình vị. Điều này cũng được Đỗ
Việt Hùng khẳng định, ông cho rằng: hình vị là do âm vị tạo nên và là đơn vị nhỏ
nhất có nghĩa thực hiện chức năng cấu tạo từ và biến dạng thức của từ. Do đó có thể
thấy hình vị vừa là yếu tố vừa là đơn vị cấu tạo từ. Các phương thức cấu tạo từ là
cách để biến các hình vị thành các từ có nghĩa mỗi phương thức ứng với một kiểu từ
loại. Nhìn chung có ba phương thức cấu tạo từ cơ bản đó là: từ hóa hình vị, ghép
hình vị và láy hình vị; ba phương thức này tương ứng với ba kiểu từ loại: Từ đơn,
Từ láy, Từ ghép.
1.1.2.2 Các kiểu từ xét về mặt cấu tạo
a. Từ đơn
Trong Từ vựng ngữ nghĩa của Đỗ Hữu Châu đã đưa ra những đặc điểm cơ bản
của từ đơn. Trước hết về mặt khái niệm: “từ đơn là những từ một hình vị về mặt ngữ
nghĩa chúng khơng lập thành hệ thống có kiểu ngữ nghĩa chung chúng ta lĩnh hội
8


và ghi nhớ từng từ một riêng rẽ” [1, tr.33]. Phần lớn từ đơn thuần Việt hay đã Việt
hóa là những từ đơn có một âm tiết và dù số lượng từ đơn này không nhiều song
chúng lại mang những đặc trưng ngữ pháp chủ yếu của từ tiếng Việt nói chung,
chúng là cơ sở để tạo những từ khác. Bên cạnh đó cũng có một số từ đơn đa âm tiết
thường là những từ thuần Việt như: bù nhìn, bồ các… hay là những từ vay mượn từ
các ngôn ngữ Ấn - Âu như: apatit, axit, cà phê… cũng dựa trên cơ sở đó, Đỗ Việt
Hùng cho rằng từ đơn là những từ được tạo ra chủ yếu theo phương thức từ hóa

hình vị, do đó cấu tạo của nó chỉ có một hình vị.
Nói tóm lại, có thể hiểu khái niệm từ đơn là những từ được cấu tạo bởi một tiếng
độc lập ví dụ như: nhà, xe, tập… và có một số đặc điểm chung:
- Xét về mặt nguồn gốc: từ đơn có nguồn gốc từ lâu và một số từ có nguồn gốc
thuần Việt, một số lại được vay mượn từ những ngơn ngữ nước ngồi như tiếng
Hán, tiếng Pháp, tiếng Anh, Nga…
- Về mặt ý nghĩa: từ đơn biểu thị những khái niệm cơ bản trong sinh hoạt đời
sống hằng ngày của người Việt, các hiện tượng thiên nhiên, các quan hệ gia đình, xã
hội, các số đếm…
- Xét về số lượng: tuy không nhiều bằng từ ghép và từ láy nhưng là những từ cơ
bản, giữ vai trò quan trọng nhất trong việc biểu thị các khái niệm có liên quan đến
đời sống và là cơ sở để tạo từ mới cho tiếng Việt.
b.Từ láy
Phương thức cấu tạo của từ lái tồn tại hai ý kiến:
- Từ láy được hình thành do lặp lại tiếng gốc có nghĩa.
- Từ láy được hình thành bằng cách ghép các tiếng dựa trên quan hệ ngữ âm.
Trong Từ vựng ngữ nghĩa học, Đỗ Hữu Châu cho rằng trên cơ sở chung từ láy
cũng được tạo nên từ phương thức láy. Còn đối với từ láy mà hai âm tiết đều có
nghĩa và có thể dùng độc lập được xếp vào từ ghép.
Theo Đỗ Hữu Châu, từ láy có thể được chia thành từng kiểu khác nhau theo trình
tự từ lớn đến nhỏ. Tiêu chí phân loại chủ yếu dựa vào số lần mà phương thức láy tác
động vào từ, trên cơ sở đó nếu như phương thức láy tác động vào một hình vị gốc
một âm tiết sẽ cho ta các từ láy đôi và cứ như thế phương thức láy có thể tác động
lần thứ hai vào một từ láy đôi để cho ta các từ láy bốn âm tiết .

9


Khi xét từ láy đôi ở cấp độ nhỏ hơn thì lại chia ra: láy tồn bộ và láy bộ phận. Để
nhận biết từ láy toàn phần và từ láy bộ phận thì dựa vào bộ phận được giữ lại trong

âm tiết của hình vị cơ sở nếu:
- Tồn bộ âm tiết được giữ ngun thì ta có từ láy tồn bộ.
- Bộ phân âm tiết được giữ lại thì ta có từ láy bộ phận.
Trong Từ láy bộ phận lại có từ láy âm và láy vần. Cịn nếu xét ở góc độ khác trật
tự trước sau của hình vị cơ sở với các mối quan hệ khác thì lại có thêm kiểu láy tận
cùng. Đỗ Hữu Châu cũng nêu lên một số chú ý về các từ láy và ý nghĩa của các từ
láy ở những phương diện chung. Cịn trong giáo trình Từ Vựng Tiếng Việt của Đỗ
Việt Hùng, dựa vào sự giống nhau giữa hình vị gốc và hình vị láy chia từ láy thành
từ láy tồn phần và từ láy bộ phận.
Để có thể dung nạp cả hai bộ phận (từ láy chân chính và từ ghép có dạng láy mất
nghĩa) vào từ láy, ngày nay đứng trên quan điểm đồng đại có thể nói từ láy là những
từ gồm nhiều tiếng, các tiếng được ghép lại dựa trên quan hệ ngữ âm có tác dụng
tạo nghĩa.
Từ láy có một số đặc điểm sau:
- Giữa các tiếng trong từ láy có quan hệ với nhau về mặt ngữ âm, biểu hiện ở một
trong số các dạng sau:
+ Hoặc giống nhau ở phần phụ âm đầu. Ví du: vắng vẻ, vui vẻ,..
+ Hoặc giống nhau ở phần vần. Ví dụ: lị xo.co ro, lúng túng,…
+ Hoặc giống nhau ở cả phần phụ âm đầu lẫn phần vần. Ví dụ: xanh xanh, hao
hao,...
+ Riêng thanh điệu, từ láy đôi thường tuân theo quy tắc biến thanh : cao thường
là thanh bằng, sắc, hỏi; thấp thường là thanh huyền, thanh nặng, thanh ngã.
Trong từ láy phải có ít nhất một yếu tố khơng độc lập, nghĩa khơng cịn đủ rõ .Do
đó từ láy trong tiếng Việt xảy ra hai trường hợp:
Từ láy có một yếu tố độc lập, và một yếu tố khơng độc lập. Ví dụ: vắng vẻ, sạch
sẽ,…
Từ láy có cả hai yếu tố đều khơng độc lập. Ví dụ: bâng khuân, lác đác,..
+ Từ một số đặc điểm trên ta có thể phân loại từ láy thành: từ láy đôi, từ láy ba
và láy tư.
- Ở từ láy đôi được tạo thành gồm hai tiếng và có có các dạng sau:

10


+ Từ láy bộ phận: từ giống nhau ở phần vần hoặc phụ âm đầu.
Các từ giống nhau ở phụ âm đầu gọi là từ láy âm (ví dụ: sạch sẽ,vẻ vang,..),
tương tự các từ giống nhau ở phần vần thì gọi là láy vần (ví dụ: bâng khn, lúng
túng)
+ Từ láy hoàn toàn
Ngoại trừ các từ láy bộ phận cịn lại là các từ láy hồn tồn. Có các dạng sau:
Giống cả phần vần phụ âm đầu và thanh điệu.
Ví dụ: đùng đùng, lù đù, vàng vàng,…
Giống nhau phần vần, phụ âm đầu khác thanh điệu.
Ví dụ: đu đủ, cỏn con, đo đỏ,…
Giống nhau phụ âm đầu và âm chính, khác nhau ở thanh điệu và phụ âm cuối do
sự chi phối của quy luật dị hóa.
Ví dụ: đèm đẹp, bàn bạc, sành sạch,..
- Từ láy ba và láy tư:
+ Từ láy ba: chủ yếu dựa trên cơ chế láy hồn tồn, ở từ láy ba có các kiểu phối
thanh thường gặp là:
Tiếng thứ hai mang thanh bằng ( thường xuất hiện thanh bằng hơn thanh trắc). Ví
dụ: dửng dừng dưng, cỏn còn con,…
Tiếng thứ nhất và tiếng thứ ba đối lặp nhau về đường nét / trắc hoặc cao / thấp. Ví
dụ: khít khìn khịt, sát sàn sạt, xốp xồm xộp,..
+ Từ láy tư: Phần lớn từ láy dựa trên cơ sở từ láy đơi, một số ít có phần gốc là từ
ghép.
* So với từ láy ba từ láy tư khá đa dạng về kiểu cấu tạo :
+ Láy bộ phận kết hợp với vần - a, - à hay - ơ.
Ví dụ: ấm ớ thành: ấm a ấm ớ, hì hục thành: hì hà hì hục, sớn sát thành: sớn sơ
sớn sát
+ Láy toàn bộ kết hợp với biến thanh

Ví dụ: bồi hồi thành bổi hổi bồi hồi.
+ Láy bộ phận kết hợp với tách, xen
Ví dụ: thơ thẩn thành lơ thơ lẩn thẩn
+ Láy toàn bộ kết hợp với tách xen.
Ví dụ: hăm hở thành hăm hăm hở hở
11


Từ những đặc điểm chung ta rút ra được một số ý nghĩa của từ láy (chủ yếu là từ
láy đôi)
- Từ láy phỏng thanh là từ láy mà các tiếng khơng độc lập các tiếng được hình
thành dựa vào sự mô phỏng âm thanh của sự vật hiện tượng trong thục tế ví dụ: gâu
gâu, đùng đùng,..
- Từ láy sắc thái hóa là những từ trong đó có một yếu tố độc lập và một yếu tố
không độc lập. Yếu tố độc lập chi phối nghĩa của toàn bộ từ láy, yếu tố cịn lại có
tác dụng bổ sung một sắc thái nghĩa nào đó khiến cho từ láy khác với tiếng độc lập
khi nó đứng một mình và khác với từ láy có cùng yếu tố độc lập đó. Ví dụ so sánh
bối rối với rối ren,…
- Từ láy âm cách điệu: là từ láy không chứa bộ phận cịn đủ rõ nghĩa từ vựng,
hoặc vẫn có thể chứng minh nghĩa của một bộ phận nào đó nhưng nó khơng cịn
làm tác dụng cơ sở nghĩa của tồn từ nữa. Ví dụ: bâng khuân, linh tinh,..
Ngoại trừ các trường hợp trên, còn lại là các từ ngẫu hợp. Đây là trường hợp mà
giữa các tiếng khơng có quan hệ ngữ âm hay ngữ nghĩa. Ví dụ: cổ hủ, mè nheo, ba
láp,…
c Từ ghép
Đối với từ ghép thì trong Từ Vựng Ngữ Nghĩa Đỗ Hữu Châu cho rằng: từ ghép
được sản sinh do sự kết hợp hai hoặc một số hình vị (hay đơn vị cấu tạo) tách biệt
riêng lẻ, độc lập, đối với nhau. Ông chia từ ghép thành những loại nhỏ.
- Dựa vào hình vị chia thành hai loại lớn: từ ghép thực và từ ghép hư.
Đối với từ ghép hư được hình thành theo phức ghép do hai hình vị hư kết hợp với

nhau mà có đó là những từ cụ thể như: bởi vì, tại sao, do vì, do nên,..và giữa các
hình vị này khó xác định quan hệ chính phụ hay đẳng lập, về mặt ngữ nghĩa các từ
ghép hư thường thu hẹp phạm vi sử dụng của các hình vị.
Đối với từ ghép thực lại được chia ra làm:
+ Từ ghép phân nghĩa
+ Từ ghép hộp nghĩa
+ Từ ghép biệt lập
+ Từ phức Hán Việt
Về mặt khái niệm từ ghép phân nghĩa cũng dựa trên cơ sở chung của từ ghép là
được tao thành từ hai hình vị theo quan hệ chính phụ. Trong đó có một hình vị chỉ
12


loại lớn và một hình vị cịn lại phân hóa hình vị loại lớn đó thành những loại nhỏ
hơn cùng loại nhưng độc lập với nhau, và độc lập với loại lớn.
- Trong từ ghép phân nghĩa lại được chia ra:
+ Từ ghép phân nghĩa một chiều.
+ Từ ghép phân nghĩa hai chiều.
- Từ ghép hợp nghĩa là từ ghép do hai hình vị tạo nên trong đó khơng có hình vị
chỉ loại lớn và hình vị phân nghĩa, biểu thị những nghĩa rộng hơn so với từng hình
vị độc lập. Trong từ ghép hợp nghĩa lại chia thành những loại nhỏ: từ ghép hợp
nghĩa tổng loại, từ ghép hợp nghĩa chỉ loại, từ ghép hợp nghĩa bao gộp, từ ghép hợp
nghĩa không phi cá thể
- Từ ghép biệt lập là những từ cũng được hình thành trên quan hệ cú pháp chính
phụ hay đẳng lập, song tính hệ thống của chúng khơng có. Mỗi từ là một trường hợp
riêng lẻ, khơng có những hình vị chỉ loại lớn chung với các từ khác, không phải là
một loại nhỏ trong một loại lớn. Những đặc trưng ngữ nghĩa của mỗi từ không lặp
lại ở các từ khác. Chúng là những sự kiện biệt lập.
- Từ phức Hán Việt là những từ do các hình vị gốc Hán tạo nên, trong đó có ít
nhất là một hình vị khơng độc lập.

* Về cơ bản từ ghép là những từ có hai hoặc trên hai tiếng được ghép lại với
nhau dựa trên quan hệ ý nghĩa. Dựa vào quan hệ ngữ pháp giữa các yếu tố có thể
phân từ ghép làm hai loại: từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ
- Từ ghép đẳng lập: từ ghép đẳng lập có những đặc trưng chung:
+ Xét về quan hệ ngữ pháp giữa các thành tố trong từ là quan hệ bình đẳng
+ Xét về quan hệ ý nghĩa giữa các thành tố: hoặc các thành tố đồng nghĩa nhau
trong đó: có thể có một yếu tố là thuần Việt, có thể cả hai yếu tố đều là Hán Việt, có
thể cả hai yếu tố đều là thuần Việt, có thể một yếu tố vốn là toàn dân và một yếu tố
vốn là từ địa phương. Hoặc các thành tố gần nghĩa nhau hoặc các thành tố trái
nghĩa.
+ Xét về mặt nội dung: từ ghép đẳng lập thường gợi lên những phạm vi sự vật
mang ý nghĩa phi cá thể hay tổng hợp. Tuy có quan hệ bình đẳng về mặt ngữ pháp,
nhưng không đưa đến hệ quả là ý nghĩa từ vựng của các thành tố trong từ đều có giá
trị ngang nhau trong mọi trường hợp. Những trường hợp một trong hai thành tố phải
mờ nghĩa xảy ra phổ biến trong từ ghép đẳng lập.
13


Trong từ ghép đẳng lập lại được phân làm ba loại nhỏ đó là từ ghép gộp nghĩa,
hợp nghĩa, từ ghép đơn nghĩa. Trong đó từ ghép đẳng lập gộp nghĩa bao gồm những
từ ghép mà nghĩa của thành tố cùng nhau gộp lại để biểu thị ý nghĩa khái quát
chung, trong ý nghĩa chung đó có ý nghĩa riêng của từng thành tố.
Ví dụ: quần áo được kết hợp từ quần và áo từ nét nghĩa riêng tạo nên nét nghĩa
chung.
Từ ghép đẳng lập hợp nghĩa là từ ghép mà nghĩa của cả từ không phải chỉ là phép
cộng đơn thuần giữa các thành tố, mà là sự tổng hợp nghĩa của các thành tố kèm
theo sự trừu tượng dựa trên cơ sở ẩn dụ hay hoán dụ. Do đó nghĩa của cả từ mới
hơn so với nghĩa của từng thành tố.
Ví dụ: từ đất nước khơng phải chỉ đất nói chung hay đất và nước mà là chỉ lãnh
thổ của một quốc gia.

Từ ghép đẳng lập đơn nghĩa là từ ghép mà nghĩa khái quát chung của cả từ tương
ứng với ý nghĩa của một thành tố có mặt trong từ.
Ví dụ: núi non, thay đổi, tìm kiếm,..
Bên cạnh đó trật tự các từ ghép đẳng lập cũng được chú ý. Khi nói về từ ghép
đẳng lập người ta thường bàn đến khả năng hoán vị giữa các thành tố. Nhưng khả
năng xảy ra không phổ biến với tồn bộ từ ghép đẳng lập và vơ điều kiện trong mọi
trường hợp và có một số điểm chung sau:
+ Hoán vị xảy ra với một số từ ghép gộp nghĩa trường hợp khơng có yếu tố Hán Việt
Ví dụ: quần áo - áo quần, rủi may - may rủi,…
+ Khả năng hốn vị ít xảy ra giữa các thành tố trong từ ghép đơn nghĩa. Nhất là
đối với trường hợp từ ghép có yếu tố mờ nghĩa, mất nghĩa.
+ Khả năng hoán vị bị sự khống chế của một số yêu cầu: không đươc phép làm
thay đổi ý nghĩa của từ ghép ban đầu, không được ngược lại tập quán cổ truyền của
dân tộc, không tạo nên những trật tự khó đọc.
- Từ ghép chính phụ: là từ ghép có một yếu tố chính và một yếu tố phụ về mặt
ngữ pháp và có một số đặc điểm sau:
+ Cấu tạo có xu hướng nêu lên các sự vật mang ý nghĩa cụ thể. Trong từ ghép
này yếu tố chính thường giữ vai trị chỉ loại sự vật, đặc trưng hoặc hoạt động lớn,
yếu tố phụ thường được dùng để cụ thể hóa sự vật hoạt động hoặc đặc trưng đó.
14


+ Căn cứ vào vai trò của các thành tố trong việc tạo nghĩa có thể chia từ ghép
chính phụ thành hai tiểu loại:
Từ ghép chính phụ dị biệt: là từ ghép mà trong đó yếu tố phụ phân loại đối với
đối tượng được đề cập đến.
Ví dụ: máy may, máy bay, máy bơm,…
Từ ghép chính phụ sắc tháí hóa: là từ ghép mà trong đó yếu tố phụ có tác dụng
bổ sung sắc thái ý nghĩa nào đó tạo nên sự khác biệt giữa các từ cùng loại và khác
loại.

1.1.3 Ý nghĩa của từ
Ý nghĩa của từ là phần quan trọng cốt lõi của từ, nó quyết định sự tồn tại của từ
trong từng văn cảnh cụ thể. Đối với việc xác định ý nghĩa của từ, Đỗ Hữu Châu cho
rằng “bản chất ý nghĩa của từ bộc lộ qua sự đối chiếu của từ so với các chức năng
tín hiệu học mà chúng đảm nhiệm, qua việc tách ra những mặt đối lập, còn gọi là
các thành phần ý nghĩa” [1, tr.77]. Ông nêu ra rằng chức năng tín hiệu học là cơ sở
xác định ý nghĩa của từ. Đồng thời chỉ ra chức năng cơ bản của ngôn ngữ là công cụ
giao tiếp và công cụ tiến hành tư duy trừu tượng.
Về chức năng tín hiệu học cơ bản thỉ từ có những chức năng: chức năng biểu vật,
biểu niệm, bộc lộ, đưa đẩy. Chức năng ngữ pháp: chức năng thay thế, định phong
cách.
Trong đó thì sự chuyển hóa chức năng của từ cũng tham gia quyết định ý nghĩa
của từ.
Trong khi đó Đỗ Việt Hùng lại tách ý nghĩa ra làm ý và nghĩa và đưa ra nhận
định trước hết nghĩa của từ là một thực thể tinh thần, nó có quan hệ ổn định với hình
thức cịn phần ý cũng là một thực thể tinh thần nhưng nó chỉ xuất hiện lâm thời
trong một hồn cảnh sử dụng cụ thể do đó ơng cho rằng khi nghiên cứu từ vựng thì
phần nghĩa được đề cập đến là chính và phần ý khơng cần thiết đề cập đến.
Tuy nhiên ta thấy ý kiến của Đỗ Hữu Châu có phần xác đáng hơn bởi vì phần
nghĩa phản ánh nội dung của từ và do nhiều nhân tố tạo nên, do đó khơng thể tách
ra được ta có thể hiểu nghĩa của từ là nội dung tinh thần mà từ đó biểu hiện, được
hình thành do sự kết hợp và tác động của nhiều nhân tố bao gồm nhân tố nằm ngồi
ngơn ngữ như: sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan tư duy và người sử
dụng. Nhân tố trong ngơn ngữ như: chức năng tín hiệu học, hệ thống của ngôn ngữ.
15


1.1.3.1 Ý nghĩa biểu vật, biểu niệm và biểu thái của từ
a. Nghĩa biểu vật
Nói về nghĩa biểu vật của từ, Đỗ Hữu Châu đã so sánh ngôn ngữ giữa các dân tộc

các quốc gia và nhận thấy được không phải tất cả ý nghĩa biểu vật đều trùng hợp
hoàn tồn với sự vật, hiện tượng, tính chất trong thực tế khách quan, mà nguyên
nhân chủ yếu là do: sự chia cắt thực tế thực tế khách quan trong ngôn ngữ và ý
nghĩa biểu vật tính cá thể, cụ thể, của sự vật hiện tượng... trong thực tế và tính khái
quát của các ý nghĩa biểu vật là những đặc trưng của thành phần nghĩa này. Ông cho
rằng nghĩa biểu vật cũng là sự phản ánh sư vật, hiện tượng… trong thực tế vào ngơn
ngữ nó là những mảng rất nhỏ trong cuộc sống và khơng hồn tồn trùng với thực
tế.
Ta có thể thấy được sự khơng trùng khít này qua những biểu hiên sau :
- Trong thực tế sự vật hiện tượng luôn tồn tại ở dạng cá thể, cụ thể, cịn nghĩa
biểu vật trong ngơn ngữ lại mang tính đồng loạt khái qt. Hoặc khơng trùng khít
do sự chia cắt khách quan khác nhau về nghĩa biểu vật của các ngơn ngữ.
- Từ đó ta có thể hiểu nghĩa biểu vật là những sự vật, q trình, tính chất hoặc
trạng thái mà từ biểu thị .
b. Nghĩa biểu niệm
Nghĩa biểu niệm của từ là tập hợp của một số nét nghĩa khái quát và cụ thể theo
một tổ chức, một trật tự nhất định. Giữa các nét nghĩa có quan hệ nhất định.
Tập hợp này ứng với một số nghĩa biểu vật của từ chính vì nghĩa biểu niệm của
từ là một tập hợp có tổ chức, có quan hệ, cho nên cịn có thể gọi nó là cấu trúc biểu
niệm.
- Phân loại các nét nghĩa theo trình tự :
+ Nét nghĩa phạm trù: là nét nghĩa lớn nhất không thuộc một nét nghĩa nào lớn
hơn.
+ Nét nghĩa loại vị: là sự phân hóa tiếp theo của loại vị. Đây là nét nghĩa cũng có
nhiều từ nhưng nhỏ hơn phạm trù vị. Hay nói cách khác loại vị là sự cụ thể hóa của
phạm trù vị.
+ Nét nghĩa biệt vị: là sự biệt hóa của loại vị. Có hai loại biệt vị:
Biệt vị tận cùng: kết quả của sự phân hóa một loại vị ở mức thấp nhất.

16



Biệt vị đặc hữu: những nét nghĩa thấp nhất chỉ xuất hiện một từ, khơng phải là sự
phân hóa của loại vị.
Khác với nghĩa biểu vật và nghĩa biểu thái, nghĩa biểu niệm có quan hệ mật thiết
với khái niệm, Đỗ Hữu Châu nhận rằng khái niệm có vai trị quyết định đối với
nghĩa biểu niệm. Dù vậy cả hai vẫn có một số điểm giống và khác nhau nhất định:
- Điểm giống nhau là cả hai cùng sử dụng những vật liệu tinh thần mà tư duy con
người đạt được.
- Điểm khác nhau:
+ Khái niệm là sản phảm của tư duy, do đó chung cho mọi dân tộc cịn nghĩa của
từ là dùng chung cho mọi ngôn ngữ.
+ Khái niệm có chức năng nhận thức nên tiêu chuẩn đánh giá của nó là chân lí.
Cịn ngơn ngữ có chức năng giao tiếp và tư duy nên tiêu chuẩn đánh giá nó là sự
phù hợp hay khơng phù hợp với hệ thống ngôn ngữ của dân tộc.
c. Nghĩa biểu thái
Nghĩa biểu thái có thể được hiểu là những từ bao gồm những nhân tố thể hiện sự
đánh giá, cảm xúc hoặc thái độ mà từ gợi ra cho đối tượng tiếp nhận.
1.1.3.2 Hiện tượng nhiều nghĩa và sự chuyển nghĩa của từ
a. Hiện tượng nhiều nghĩa
Ta có thể hiểu hiện tượng nhiều nghĩa là cùng một hình thức ngữ âm nhưng từ có
thể thích ứng với nhiều phạm vi sự vật hiện tượng khác nhau và có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Phân loại các nghĩa trong từ nhiều nghĩa căn cứ vào quan điểm đồng đại
và lịch đại để phân loại.
+ Căn cứ vào quan điểm lịch đại chia làm hai loại: nghĩa gốc và nghĩa phái sinh
Trong đó nghĩa gốc là nghĩa có trước cịn được gọi là nghĩa từ nguyên. Nghĩa
phái sinh là nghĩa xuất hiện sau được hình thành trên cơ sở nghĩa gốc.
+ Căn cứ vào quan điểm đồng đại thì chia thành nghĩa cơ bản và nghĩa phụ.
Nghĩa cơ bản là nghĩa biểu vật mà những người trong cùng một cộng đồng ngôn
ngữ thường sử dụng và nghĩa chính là cơ sở để giải thích nghĩa phụ. Nghĩa phụ là

nghĩa được phát triển từ một nét nghĩa nào đó của nghĩa chính. Nghĩa phụ thường
phụ thuộc vào văn cảnh do đó muốn hiểu được phải dựa vào văn cảnh.
b. Sự chuyển nghĩa của từ
Sự chuyển nghĩa của từ là cơ sở hình thành hiện tượng nhiều nghĩa của từ
17


- Nguyên nhân: sự chuyển nghĩa của từ xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau
như : sự phát triển không ngừng của thực tế khách quan. Nhận thức của con người
thay đổi, hiện tượng kiên cữ, sự phát triển và biến đổi của hệ thống ngôn ngữ. Tuy
nhiên nguyên nhân chính là do nhu cầu giao tiếp của con người.
* Phương thức chuyển nghĩa của từ có hai phương thức chuyển nghĩa thông dụng
phương thức ẩn dụ và phương thức hoán dụ
- Phương thức ẩn dụ: ẩn dụ là lấy tên gọi của sự vật này để gọi tên sự vật kia khi
giữa chúng có điểm giống nhau. Ẩn dụ còn được xem là phương thức chuyển nghĩa
dựa vào quy luật liên tưởng tương đồng
Có hai hình thức chuyển nghĩa: dùng cái cụ thể để nói cái cụ thể, dùng cái cụ thể
để gọi tên những cái trừu tượng.
Một số cơ chế của phương thức ẩn dụ thường thấy:
+ Dựa vào sự giống nhau về hình thức giữa các sự vật hiện tượng
+ Dựa vào sự giống nhau về vị trí của các sự vật hiện tượng
+ Dựa vào sự giống nhau giữa cách thức thực hiện giữa hai hoạt động
+ Dựa vào sự giống nhau về chức năng giữa các sự các sự vật hiện tượng
+ Dựa vào sự giống nhau về tính chất, trạng thái hoặc kết quả giữa các đối tượng.
Nhận xét:
Sự phân loại ẩn dụ theo cơ chế ẩn dụ trên không phải bao giờ cũng rạch rịi, dứt
khốt. Có nhiều trường hợp khơng chỉ có một mà có nhiều nét nghĩa tác động.
Phương thức hoán dụ: là phương thức lấy tên gọi A của sự vật a để gọi tên cho
sự vật b, c, d khi giữa a, b, c, d có một mối quan hệ nào đó về khơng gian hay thời
gian. Hốn dụ là phương thức chuyển nghĩa dựa vào quy luật liên tưởng tiếp cận.

- Hoán dụ dựa trên quan hệ giữa bộ phận và tồn thể. Dạng này có các cơ chế
chuyển nghĩa sau:
+ Lấy tên gọi của một bộ phận cơ thể gọi tên cho người hay cho cả toàn thể.
+ Lấy tên gọi của tiếng kêu, đặc điểm hình dáng của đối tượng gọi tên cho đối
tượng
+ Lấy tên gọi của đơn vị thời gian nhỏ để gọi tên cho đơn vị thời gian lớn.
+ Lấy tên gọi của tồn bộ gọi tên cho bộ phận
- Hốn dụ dựa trên quan hệ vật chứa và vật bị chứa hay lượng vật chất được chứa

18


- Lấy tên nguyên liệu gọi tên cho hoạt động hoặc động hoặc sản phẩm được chế
ra từ nguyên liệu đó.
- Hốn dụ dựa trên giữa đồ dùng hoặc dụng cụ và người sử dụng hoặc nghành
hoạt động sử dụng dụng cụ đó.
- Hốn dụ dựa trên quan hệ giữa chức năng và cơ quan chức năng.
- Hoán dụ dựa vào quan hệ giữa tư thế cụ thể và hành vi hoặc trạng thái tâm sinh lí đi kèm.
- Hốn dụ dựa trên quan hệ giữa tác giả hoặc địa phương và tác phẩm hoặc sản
phẩm của họ ngược lại.
Tóm lại, mỗi sự vật hiện tượng có quan hệ với nhiều sự vật, hiện tượng khác
xung quanh, do đó có nhiều dạng hoán dụ. Quan trọng là phải biết lựa chọn quan hệ
cơ bản để chuyển đổi tên gọi.
* Mối quan hệ giữa ẩn dụ và hoán dụ
- Giống nhau: bản chất cùng là sự chuyển đổi tên gọi, cùng dựa trên quy luật liên
tưởng
- Khác nhau: cơ sở liên tưởng khác nhau:
+ Ẩn dụ dựa vào sự liên tưởng tương đồng. Do đó sự vật chuyển đổi tên gọi và
sự vật được chuyển đổi tên gọi thường khác về phạm trù hoàn toàn nên ẩn dụ mang
nhiều sắc thái chủ quan hơn.

+ Hoán dụ dựa vào sự liên tưởng tiếp cận. Mối quan hệ giữa sự vật chuyển đổi và
sự vật được chuyển đổi là có thật chứ khơng phụ thuộc vào suy luận chủ quan của
con người nên hốn dụ mang nhiều tính khách quan hơn.
+ Một từ có thể được chuyển nghĩa theo nhiều phương thức.
+ Các từ có ý nghĩa biểu vật cùng một phạm vi hoặc có nghĩa biểu niệm cùng
một cấu trúc thì sự chuyển nghĩa theo cùng một hướng.
+ Ẩn dụ và hoán dụ tồn tại ở bình diện ngơn ngữ lẫn lời nói nhưng sự chuyển
nghĩa của hai bình diện này khác nhau. Cần phân biệt ẩn dụ và hoán dụ tu từ với ẩn
dụ và hoán dụ từ vựng.
Ẩn dụ và hốn dụ tu từ được sử dụng với mục đích làm cho sự diễn đạt tăng tính
hình ảnh, biểu cảm, khơng có tác dụng tạo nghĩa mới làm giàu có hệ thống ngữ
nghĩa của ngôn ngữ dân tộc. Ẩn dụ và hoán dụ tu từ là sáng tạo của cá nhân do đó

19


×