Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Dấu hiệu định tội của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (32.82 MB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HỒNG NGỌC LINH

DẤU HIỆU ĐỊNH TỘI CỦA TỘI LẠM DỤNG
CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

DẤU HIỆU ĐỊNH TỘI CỦA TỘI LẠM DỤNG
CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học : TS. Nguyễn Thị Ánh Hồng
Học viên
: Hoàng Ngọc Linh
Lớp
: Cao học luật, An Giang khóa 2


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Luật học “Dấu hiệu định tội của Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản theo Luật Hình sự Việt Nam” là hồn tồn trung thực và khơng trùng lặp với
các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn
đã được ghi rõ nguồn gốc. Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi
dưới sự hướng dẫn khoa học của Ts. Nguyễn Thị Ánh Hồng.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Hoàng Ngọc Linh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
BLTTHS

: Bộ luật hình sự
: Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

KSV

: Kiểm sát viên


PTPT
PTST
TTHS

: Phiên tòa phúc thẩm
: Phiên tòa sơ thẩm
: Tố tụng hình sự

VKS

: Viện kiểm sát


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. HÀNH VI KHÁCH QUAN CỦA TỘI LẠM DỤNG CHỨC VỤ,
QUYỀN HẠN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ................................................................6
1.1. Quy định của Bộ luật hình sự về hành vi khách quan của tội lạm dụng
chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản ...............................................................6
1.2. Thực tiễn xác định hành vi khách quan của tội lạm dụng chức vụ, quyền
hạn chiếm đoạt tài sản ........................................................................................11
1.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong việc xác định hành vi
khách quan của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản ..........22
Kết luận chương 1 ...................................................................................................27
CHƯƠNG 2. CHỦ THỂ CỦA TỘI LẠM DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN .......................................................................................28
2.1. Quy định của Bộ luật Hình sự về chủ thể của tội lạm dụng chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản ............................................................................28
2.2. Thực tiễn xác định chủ thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm

đoạt tài sản ...........................................................................................................31
2.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự về chủ
thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản .........................46
Kết luận chương 2 ...............................................................................................49
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước ta đã nhận định tội phạm về tham
nhũng là một loại tội phạm nguy hiểm cao độ, là một trong những nguy cơ cản trở
sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là
xử lý nghiêm minh, triệt để loại tội phạm này. Điều này thể hiện rõ trong các Văn
kiện của Đảng qua các thời kỳ khác nhau, mà cụ thể là trong các Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ V, VI, IX, X, XI,… gần đây nhất tại Đại hội XII, Đảng ta
xác định: “Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ
thường xuyên, quan trọng đồng thời là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài. Các
cấp ủy đảng, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và tồn hệ thống
chính trị phải kiên quyết phịng, chống tham nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm
minh các hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành
vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí…”.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp
luật khác nhau, tạo nên một hệ thống tương đối đầy đủ, đồng bộ, điều chỉnh một
cách tồn diện các vấn đề về phịng, chống tội phạm tham nhũng. Có thể kể đến các
văn bản pháp luật quan trọng như: Hiến pháp; Luật Phòng, chống tham nhũng; Bộ
luật Hình sự (BLHS); Bộ luật Tố tụng Hình sự,…Đặc biệt là BLHS năm 2015 đã
sửa đổi, bổ sung một số chính sách lớn đối với tội phạm về tham nhũng nói chung.

Trên cơ sở pháp lý đó, cơng tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta thời gian qua
đã đạt được những kết quả nhất định.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong thời gian qua, tham
nhũng vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm
vi rộng, tính chất phức tạp, đặc biệt là ngày càng có nhiều các vụ án lạm dụng chức
vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản có tính chất nổi cộm, quy mơ lớn, thủ đoạn tinh vi,
phức tạp và tổ chức chặt chẽ như lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản ở
Liên doanh Việt - Nga Vietsovpetro (VSP); Công ty TNHH Một thành viên Lọc hóa
dầu Bình Sơn (BSR); Tổng cơng ty Thăm dị khai thác Dầu khí (PVEP), ….Từ đó,
gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân. Nguyên nhân
của thực trạng trên một phần là do pháp luật về tội phạm tham nhũng ở nước ta còn
nhiều quy định chưa rõ ràng.
Thực tế trên đã và đang đặt ra vấn đề với các nhà lập pháp trong q trình
hồn thiện pháp luật về tội phạm tham nhũng cũng như các cơ quan tư pháp trong


2
điều tra, xét xử tội phạm tham nhũng nói chung, tội phạm lạm dụng chức vụ, quyền
hạn chiếm đoạt tài sản nói riêng. Đây là lý do tác giả quyết định chọn đề tài “Dấu
hiệu định tội của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo Luật
Hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, đã có các cơng trình khoa học quan tâm, nghiên cứu liên
quan đến đề tài ở các phạm vi, mức độ khác nhau như:
Thứ nhất, dưới góc độ luận án, luận văn:
- Trần Đức Huy (2019), Các tội phạm về tham nhũng theo pháp luật Hình sự
Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, Luận văn Tiến sĩ Luật học, Học viện
Khoa học Xã hội. Luận án làm rõ mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật hình
sự nước ta về các tội phạm về tham nhũng với chính sách hình sự nói chung và
chính sách pháp luật hình sự nói riêng về các tội phạm này; làm rõ nội hàm của khái

niệm và các dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về tham nhũng, những điểm giống
nhau và khác nhau giữa các tội phạm về tham nhũng và một số tội phạm khác; làm
rõ thực trạng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về các tội phạm về
tham nhũng và thực tiễn áp dụng trong định tội danh và quyết định hình phạt tại các
Tịa án trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, những thành tựu, khó khăn, hạn chế, bất
cập và nguyên nhân của chúng; đề xuất được các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng
pháp luật hình sự đối với các tội phạm về tham nhũng ở nước ta hiện nay.
- Đỗ Thanh Ngọc (2019), Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
trong Luật hình sự Việt Nam , Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Quốc gia
Hà Nội. Luận văn nghiên cứu toàn diện, hệ thống về mặt lý luận những nội dung
của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt
Nam,trên cơ sở đó rút ra những tồn tại, bất cập và đề xuất việc hoàn thiện quy định
về tội phạm này trong Bộ luật hình sự, góp phần đấu tranh phịng, chống cũng như
giải pháp nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử đối với tội lạm dụng chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
- Nguyễn Văn Quản (2020), “Định tội danh đối với hành vi lạm dụng chức
vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn nghiên cứu quy định về hành vi lợi dụng chức
vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, cũng như phân tích, đánh giá các vụ án thực tiễn
để làm rõ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn định tội danh đối với hành vi
lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, đồng thời, luận văn cũng đưa ra


3
một số giải pháp để định tội danh đúng đối với hành vi lạm dụng chức vụ, quyền
hạn chiếm đoạt tài sản.
Thứ hai, dưới góc độ giáo trình, sách chun khảo, sách tham khảo:
- Cuốn sách “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 (Phần thứ hai Các tội phạm), Chương XV: Các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự
do, dân chủ của công dân; Chương XXIII: Các tội phạm về chức vụ” của tác giả
Đinh Văn Quế do Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông ấn hành năm 2019. Tác

giả đã giải thích một cách khoa học về các tội về chức vụ (trong đó có tội lạm dụng
chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản), đồng thời nêu ra một số vấn đề thực tiễn xét
xử và tổng kết công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này trong những năm qua.
- Cuốn sách “Lý luận chung về định tội danh” của GS.TS Võ Khánh Vinh do
Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành 2013. Trong cuốn sách này, tác giả đã đề
cập, phân tích khái niệm, cơ sở phương pháp luận của định tội danh; các giai đoạn
định tội danh; định tội danh theo cấu thành tội phạm...Những phân tích, lập luận của
tác giả đã tạo cơ sở lý luận quan trọng cho việc đánh giá hành vi phạm tội trong các
giai đoạn tố tụng hình sự, đặc biệt là tác giả đã chỉ ra rằng việc định tội danh đúng
là biểu hiện của việc thực thi đúng biện pháp chính trị, thực thi đúng ý chí của nhân
dân đã được thể hiện trong luật, bảo vệ có hiệu quả các lợi ích của xã hội, của Nhà
nước và của con người, của công dân thông qua việc áp dụng đúng hình phạt hoặc
các biện pháp pháp lý hình sự. Ngược lại, nếu do sai lầm trong định tội danh thì sẽ
dẫn đến việc quyết định hình phạt khơng phù hợp với hành vi đã thực hiện, làm cho
bị cáo phải gánh chịu những hậu quả pháp lý không đáng phải gánh chịu và xâm
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án. Những phân tích của tác giả là
cơ sở quan trọng cho nghiên cứu sinh nghiên cứu, đánh giá việc định tội danh đúng
đối với các tội phạm nói chung, các tội phạm về tham nhũng nói riêng.
Thứ ba, dưới góc độ bài viết khoa học:
Nguyễn Văn Hương (2016), Những điểm mới, những bất cập của quy định về
các tội phạm tham nhũng trong Bộ luật Hình sự năm 2015, Tạp chí Luật học, số đặc
biệt về Bộ luật Hình sự năm 2015. Bài viết phân tích những điểm mới trong quy
định Bộ luật Hình sự năm 2015 về các tội phạm tham nhũng. Bài viết cũng chỉ ra
những hạn chế, bất cập và đề xuất giải pháp khắc phục hạn chế, bất cập trong quy
định của BLHS năm 2015 về vấn đề này.
Qua nghiên cứu, chưa có cơng trình nào nghiên cứu theo định hướng ứng
dụng, nghiên cứu một cách cụ thể, đầy đủ, toàn diện về vấn đề dấu hiệu định tội của


4

tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản. Do đó, đề tài “Dấu hiệu định
tội của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo Luật Hình sự Việt
Nam” theo định hướng ứng dụng về tổng thể khơng trùng lặp với các cơng trình
nghiên cứu đã công bố trong nước trong những năm gần đây liên quan đến đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu những quy định của pháp luật trong Bộ
luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), trên cơ sở so sánh, đối chiếu với
Bộ luật Hình sự năm 1999 về hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
và chủ thể thực hiện hành vi này. Đồng thời, thông qua thực tiễn định tội danh đối với
lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản và chủ thể thực hiện hành vi này, tác
giả xác định một số bất cập, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn và kiến nghị, đề xuất
giải pháp tháo gỡ, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh đối với lạm
dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản và chủ thể thực hiện hành vi này.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được những mục đích trên thì luận văn cần làm
rõ những quy định của pháp luật về hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm
đoạt tài sản và chủ thể thực hiện hành vi này; thực trạng xác định hành vi lạm dụng
chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản và chủ thể thực hiện hành vi này.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: Với mục đích, nhiệm vụ trên thì luận văn chỉ tập
trung nghiên cứu hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản và chủ
thể thực hiện hành vi này.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: những quy định của pháp luật trong Bộ luật hình sự năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017), trên cơ sở so sánh, đối chiếu với Bộ luật Hình sự năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm
đoạt tài sản và chủ thể thực hiện hành vi này.
- Về thời gian: từ năm 2015 đến năm 2021.
- Về địa bàn: phạm vi cả nước.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên

cứu cụ thể như phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích, tổng hợp, quy
nạp, so sánh, thống kê...., trong đó:
- Các phương pháp lịch sử cụ thể, phân tích, quy nạp, hệ thống hóa, so sánh
được sử dụng chủ yếu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận như khái niệm và các dấu


5
hiệu pháp lý của các tội phạm lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản;
phân biệt tội phạm lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản với một số tội
phạm khác, khái quát quá trình quy định và hồn thiện quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam về tội phạm lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản đến trước
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh được áp dụng
nhằm đánh giá thực trạng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017 và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự trong định tội danh và
quyết định hình phạt của Tịa án đối với các tội phạm lạm dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản, qua đó rút ra những ưu điểm, những hạn chế và nguyên nhân của
hạn chế để làm tiền đề cho việc đề xuất kiến nghị.
- Các phương pháp phân tích, hệ thống được sử dụng nhằm làm rõ những
quan điểm, giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng quy định pháp luật hình sự đối
với tội phạm lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản phù hợp với yêu cầu
đấu tranh phòng, chống tham nhũng; yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
6. Đóng góp của luận văn
Thứ nhất, luận văn làm rõ nội hàm của khái niệm và các dấu hiệu định tội của
tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, những điểm giống nhau và
khác nhau giữa tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản và một số tội
phạm khác, tính kế thừa và phát triển của các quy định pháp luật về tội lạm dụng
chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản ở nước ta.
Thứ hai, luận văn làm rõ thực trạng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam

hiện hành về dấu hiệu định tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản và
thực tiễn áp dụng trong định tội danh và quyết định hình phạt tại các Tịa án, những
thành tựu, khó khăn, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của chúng.
Thứ ba, luận văn đưa ra các kiến nghị bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự
đối với lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản ở nước ta trong thời gian tới.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu liệu tham khảo và phần phụ
lục, nội dung chính của luận văn được kết cấu như sau:
Chương 1. Hành vi khách quan của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm
đoạt tài sản
Chương 2. Chủ thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản


6
CHƯƠNG 1
HÀNH VI KHÁCH QUAN CỦA TỘI LẠM DỤNG
CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Quy định của Bộ luật hình sự về hành vi khách quan của tội lạm
dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
Tội phạm là hiện tượng xã hội - pháp lý tồn tại trong bất kỳ xã hội nào, dưới
bất kỳ thời đại nào. Trong luật hình sự, bản chất của tội phạm được thể hiện một
cách tập trung thông qua mặt khách quan hay nói cách khác, tội phạm được phản
ánh rõ nét thơng qua những biểu hiện khách quan bên ngồi mà con người có thể
nhận biết được. Bên cạnh đó, mặt khách quan của tội phạm còn là căn cứ để xây
dựng các chế định khác nhau về tội phạm và hình phạt như: phân loại tội phạm,
định tội danh, quyết định hình phạt... Trong các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội
phạm, hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản nhất và cũng là biểu hiện cơ bản nhất
của tội phạm nói chung. Các biểu hiện khác thuộc mặt khách quan chỉ xuất hiện khi
có hành vi khách quan. Hành vi khách quan là nguyên nhân gây ra sự biến đổi tình
trạng của đối tượng tác động và do vậy là nguyên nhân của sự gây thiệt hại cho

quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm. Hành vi khách quan là “cầu nối” giữa
khách thể và chủ thể của tội phạm. Khơng thể nói đến chủ thể của tội phạm khi
khơng có hành vi khách quan cũng như khi khơng có hành vi khách quan thì khơng
thể nói đến khách thể bảo vệ của luật hình sự bị xâm hại để trở thành khách thể của
tội phạm. Với đặc điểm như vậy, hành vi khách quan được phản ánh trong tất cả các
cấu thành tội phạm. Khơng có hành vi khách quan thì khơng có tội phạm.
Ngày 27/6/1985, Bộ luật Hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được ban hành, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự phát
triển của pháp luật hình sự nước nhà và là cơ sở pháp lý để thực hiện việc đấu tranh
phòng chống tội phạm có hiệu quả. Các quy định của Bộ luật đã thể hiện chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước ta là rất quan tâm và nghiêm khắc trong việc đấu
tranh phòng, chống các tội phạm về tham nhũng. Đồng thời, BLHS 1985 cũng là
văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên mà trong đó các tội phạm về chức vụ được
phân loại thành một nhóm tội phạm, được quy định thành một chương riêng –
Chương IX trong đó có tội lạm dụng chúc vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản được bổ
sung tại lần sửa đổi thứ 4 và khái niệm tội phạm chức vụ cũng đã được chính thức
ghi nhận. Việc quy định tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của
công dân tại một điều luật cụ thể trong bộ luật tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công


7
cuộc đấu tranh chống loại tội phạm này. Mặc dù vẫn có một số hạn chế nhất định
nhưng BLHS năm 1985 là một văn bản pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc
đấu tranh phòng, chống các tội phạm tham nhũng nói chung và tội lạm dụng chức
vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản nói riêng.
Ngày 21/12/1999, Quốc hội nước ta đã thơng qua BLHS mới, trong đó tội lạm
dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 280 thuộc mục A
– các tội phạm về tham những thuộc chương XXI – các tội phạm về chức vụ. BLHS
1999 và luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS 2009 so với BLHS 1985 thì đã
có sự phân nhóm thành các tội phạm về tham nhũng và các tội phạm khác về chức

vụ. So với BLHS 1985 thì đã bổ sung tình tiết “đã bị kết án về một trong các tội quy
định tại mục A chương này, chưa được xố án tích mà còn vi phạm” trong trường
hợp giá trị tài sản bị chiếm đoạt chưa đến 500.000 đồng. Ngoài ra, giá trị tài sản bị
chiếm đoạt quy định trong các khung hình phạt cũng được quy định lại theo hướng
tăng nặng hơn so với Điều 156 BLHS 1985 như: từ một trăm triệu đến dưới ba trăm
triệu được thay bằng từ năm mươi triệu đến dưới hai trăm triệu (khoản 2); từ ba trăm
triệu đến dưới năm trăm triệu được thay bằng từ hai trăm triệu đến dưới năm trăm
triệu ( khoản 3); thêm từ “khác” đối với tình tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là yếu tố định khung hình phạt; bỏ tình tiết “có
nhiều tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 điều này” ở khoản 3, khoản 4 của điều
luật và hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. Đồng thời quy định
mức hình phạt cao nhất đối với tội phạm này là chung thân, loại bỏ hình phạt tử hình.
BLHS 1999 và luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS 2009 đã quy định tội lạm
dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản đầy đủ hơn, chi tiết hơn, phản ánh được
thực tế cơng tác đấu tranh phịng chống loại tội phạm này giúp cho công tác điều tra,
truy tố, đặc biệt là công tác xét xử loại tội phạm này được thuận lợi. Tuy nhiên, sự
khơng thống nhất giữa Luật Phịng, chống tham nhũng khi quy định có 12 hành vi
tham nhũng với Bộ luật hình sự năm 1999 lại chỉ quy định 07 hành vi tham nhũng tạo
ra những hạn chế, rắc rối trong việc áp dụng các quy định của pháp luật. Đồng thời
quá trình áp dụng BLHS để xử lý các tội phạm tham nhũng cũng cho thấy, các quy
định của Bộ luật hình sự 1999 cịn có nhiều điểm hạn chế, chưa phù hợp với yêu cầu
của thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này về điều kiện, tình hình phát
triển mới về mọi mặt của đất nước. Có thể kể đến như một số quy định về chế tài xử
lý, tình tiết định khung hình phạt,… cịn mang tính định tính, chung chung, khó xác
định để áp dụng trong thực tế điều tra, xét xử tội phạm tham nhũng, việc bó hẹp phạm


8
vi tội phạm tham nhũng trong khu vực nhà nước gây ra những khó khăn trong q
trình thực hiện trước thực tế kinh tế tư nhân ngày càng phát triển, mối liên hệ công –

tư ngày càng được mở rộng cùng với đó là sự liên kết cùng thực hiện hành vi tham
nhũng, định lượng về giá trị tiền, tài sản chiếm đoạt, định lượng tiền phạt,… khơng
cịn phù hợp với mặt bằng phát triển kinh tế hiện nay, các hình phạt cịn chưa chú
trọng nhiều đến hiệu quả thu hồi tiền, tài sản thất thoát cho Nhà nước,… Những điểm
không phù hợp, hạn chế, vướng mắc này cần phải được sửa đổi, bổ sung, cụ thể hóa
nhằm giúp cho cơ quan có thẩm quyền áp dụng đúng đắn, dễ dàng, phù hợp hơn với
thực tế, tăng tính khả thi. Ngồi ra, theo kết quả rà sốt, đánh giá các quy định của
BLHS năm 1999 với Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng cũng cho
thấy, pháp luật hình sự của Việt Nam chưa thực sự tương thích với các u cầu về
hình sự hóa quy định tại Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC)
như mở rộng tội phạm tham nhũng ra khu vực tư, hình sự hóa hành vi làm giàu bất
hợp pháp, … Những vấn đề này đặt ra yêu cầu sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1999 về
tội phạm chức vụ nói chung và tội phạm lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản nói riêng nhằm bảo đảm thể chế hóa chủ trương, nghị quyết của Đảng về phịng,
chống tham nhũng, khắc phục những bất cập trong quá trình đấu tranh phòng, chống
tội phạm, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của đất nước,
cũng như bảo đảm thực thi các nghĩa vụ quốc tế mà Việt Nam đã cam kết, tạo cơ sở
pháp lý cho việc chủ động và tăng cường hợp tác quốc tế. Đồng thời, nhiều định
hướng và chính sách mới liên quan đến tội phạm tham nhũng của Đảng và Nhà nước
cũng được ban hành đòi hỏi các quy định về tội phạm tham nhũng của BLHS phải
được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với định hướng chung đó. Trong đó có các chủ
trương quan trọng như: “Quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với
những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi
dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức
vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người
khác”1 và “Sửa đổi pháp luật hình sự theo hướng tăng hình thức phạt tiền, miễn hoặc
giảm hình phạt khác đối với những đối tượng có hành vi tham nhũng nhưng đã chủ
động khai báo, khắc phục hậu quả”2.Chính vì vậy, các quy định về tội phạm tham
nhũng cần phải sửa đổi, bổ sung để tiệm cận dần với thông lệ quốc tế, với yêu cầu của
Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020
2
Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/5/2012 của Hội nghị Trung ương 5 khóa
XI về tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí.
1


9
Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, đảm bảo sự thống nhất của hệ thống
pháp luật trong nước, thể chế hóa chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước
đối với tội phạm tham nhũng và đáp ứng địi hỏi của cơng cuộc chống tham nhũng
trong tình hình mới.
Và BLHS 2015 ra đời đã có sự sửa đổi – Chương “Các tội phạm về chức vụ”
trong đó có tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều
355 BLHS 2015 được quy định trên tinh thần đáp ứng những yêu cầu về mặt lý
luận, những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định về các tội phạm này cũng
như những cam kết quốc tế của Việt Nam với tư cách là thành viên của Công ước
của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng. Theo đó, tại Điều 355 quy định: “Người
nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ
2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc
một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 06 năm: a) Đã bị xử
lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; b) Đã bị kết án về một trong các tội quy
định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm…”.
Để hiểu rõ khái niệm về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
trước hết cần phải làm rõ các thuật ngữ: “lạm dụng”,“chức vụ”,“quyền hạn”, “chiếm
đoạt tài sản”. Theo Từ điển tiếng Việt, “lạm dụng” là dùng, sử dụng quá mức hoặc quá
giới hạn; “chức vụ” là nhiệm vụ, quyền hạn tương ứng với chức, việc trong chức phận
mình phải làm; “quyền hạn” là giới hạn của quyền lực hoặc của quyền lợi hay quyền
được xác định trong phạm vi cho phép3. Theo Điều 19 Cơng ước của Liên hợp quốc về
chống tham nhũng thì lạm dụng chức năng được hiểu là “ …tội phạm khi được thực

hiện một cách cố ý, hành vi vi phạm pháp luật, hành động hoặc không hành động, của
một cơng chức lạm dụng chức năng hay vị trí của mình, khi thi hành cơng vụ nhằm
mục đích đạt được một lợi ích khơng chính đáng cho bản thân, cho người hay tổ chức
khác”. Theo Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30 tháng 12 năm 2020 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật
Hình sự trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ thì: “Lạm
dụng chức vụ, quyền hạn quy định tại khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Hình sự là sử
dụng vượt quá quyền hạn, chức trách, nhiệm vụ được giao hoặc tuy không được giao,
không được phân công nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực đó nhưng vẫn thực hiện”4.
Hoàng Phê (1992), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn học, tr. 538
Khoản 5 Điều 3 Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30 tháng 12 năm 2019 Hướng dẫn áp dụng một số
quy định của Bộ luật Hình sự trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ
3
4


10
Về khái niệm “chiếm đoạt tài sản”, trong Bộ luật Hình sự khơng đưa ra khái niệm
chiếm đoạt hay chiếm đoạt tài sản. Trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn xét xử
thì chiếm đoạt tài sản được hiểu là việc cố ý dịch chuyển một cách bất hợp pháp tài sản
đang trong sự quản lý của người khác thành tài sản của mình. Tài sản là đối tượng của
hành vi chiếm đoạt này không đồng nhất với tài sản được quy định trong Bộ luật Dân
sự mà có nội hàm hẹp hơn nhiều. Tài sản là đối tượng của hành vi chiếm đoạt phải là
tài sản có thực, hiện hữu (khơng phải là tài sản hình thành trong tương lai), có thể cầm
nắm, định đoạt được; tiền, giấy tờ có giá. Trong khi đó, tài sản theo quy định của Bộ
luật Dân sự bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Như vậy, theo các định nghĩa này, hành vi khách quan của tội lạm dụng chức vụ
quyền hạn, chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ
đoạn lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, người
phạm tội trước hết dựa trên cơ sở chức vụ, quyền hạn có thực của mình và đã vượt ra

ngồi phạm vi của chức vụ, quyền hạn đó. Hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác ở
tội phạm này có thể được thực hiện dưới những hình thức khác nhau như:
- Người phạm tội sử dụng chức vụ, quyền hạn như một công cụ, phương tiện
để thực hiện hành vi vượt quá chức trách của mình như uy hiếp tinh thần đối với
chủ tài sản khiến họ hoang mang, lo lắng, thậm chí rơi vào trạng thái không thể
kháng cự được để buộc phải miễn cưỡng giao tài sản cho người phạm tội.
- Người phạm tội sử dụng chức vụ, quyền hạn như một công cụ, phương tiện
để thực hiện hành vi vượt quá chức trách của mình như lừa đảo, gian dối để chiếm
đoạt tài sản của người khác.
- Người phạm tội sử dụng chức vụ, quyền hạn như một công cụ, phương tiện
để tạo tín nhiệm đối với người khác và sử dụng thủ đoạn lạm dụng tín nhiệm để
chiếm đoạt tài sản của họ.
Để xác định có hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn hay không, trước hết
phải căn cứ vào các văn bản liên quan về công vụ, nhiệm vụ của người đó. Nếu
trong khi thi hành cơng vụ họ đã thực hiện vượt quá giới hạn cho phép là lạm dụng
chức vụ, quyền hạn. Đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt giữa hành vi lạm dụng
chức vụ, quyền hạn với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong nhiều tội phạm
có dấu hiệu lợi dụng chức vụ, quyền hạn và lạm dụng chức vụ, quyền hạn.
Hành vi vượt quá quyền hạn của mình, làm trái công vụ để chiếm đoạt tài sản
của người khác cấu thành tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản khi
có một trong các dấu hiệu sau:


11
- Giá trị tài sản chiếm đoạt từ 2 triệu đồng trở lên;
- Giá trị tài sản chiếm đoạt dưới 2 triệu đồng nhưng đã bị xử lí kỷ luật về
hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội được quy định từ
Điều 353 đến Điều 359, chưa được xố án tích mà còn vi phạm.
Như vậy, tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản được hiểu là
hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có trị giá

từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng
đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong
các tội quy định tại mục 1, Chương XXIII BLHS năm 2015 chưa được xố án tích
mà cịn vi phạm.
1.2. Thực tiễn xác định hành vi khách quan của tội lạm dụng chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản
Định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến
hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong việc đối chiếu, kiểm tra và kết luận về
hành vi khách quan được thực hiện có các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể
nào đó được quy định trong luật hình sự. Nói cách khác, định tội danh là việc xác
định hành vi nguy hiểm cho xã hội được chủ thể thực hiện tương ứng với điều luật
về tội phạm nào được quy định trong luật hình sự. Quá trình định tội danh cần phải
được tiến hành trên cơ sở các dấu hiệu cơ bản và điển hình nhất được quy định
trong cấu thành tội phạm cụ thể, quá trình này phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy
định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự. Hành vi khách quan của tội
phạm và tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là căn cứ quan trọng
của quá trình định tội danh, vì bất cứ tội phạm nào xảy ra trong thực tế khách quan
cũng được thể hiện qua hành vi. Hành vi khách quan của tội phạm là yếu tố trung
tâm của bất kỳ tội phạm nào nên việc đánh giá và xác định hành vi khách quan
trong quá trình định tội danh có ý nghĩa quan trọng. Định tội danh đúng là cơ sở để
giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội được chính xác; bảo
vệ quyền, lợi ích của cơng dân đồng thời nâng cao hiệu quả giáo dục và cải tạo
người phạm tội.
Trong những năm gần đây, việc xác định và đánh giá hành vi khách quan của
tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản trong hoạt động định tội danh
đã được các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng từ trung ương đến
địa phương thực hiện tương đối tốt. Đã có nhiều vụ án được điều tra, truy tố, xét xử;
nhiều bị cáo phải chịu những hình phạt thỏa đáng, qua đó, tạo niềm tin trong nhân



12
dân, góp phần thắng lợi vào cơng cuộc đấu tranh, phịng chống tội tham nhũng nói
chung và tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản nói riêng.
Vụ án thứ nhất5: Ngày 11/11/2019, bà Hồng Thúy N có làm hợp đồng chuyển
nhượng thửa đất số 89, tờ bản đồ số 64 tọa lạc tại ấp I, xã T, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu
cho ông Lê Ngọc K với giá 600.000.000 đồng. Sau khi đối trừ các khoản thì ơng K
phải trả cho bà N 350.000.000 đồng, sau đó ơng K trả trước cho bà N số tiền
320.000.000 đồng, còn lại 30.000.000 đồng hẹn sau khi làm thủ tục sang tên xong
ông K trả đủ. Do ông K bận công việc kinh doanh không trực tiếp làm thủ tục sang
tên nên có nhờ ơng Lê Quốc Th (là em ruột ơng K) mang hồ sơ đến Phịng một cửa
của Ủy ban nhân dân thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu để làm thủ tục sang tên cho ông K.
Sau khi nộp hồ sơ, bộ phận kiểm tra hồ sơ có hướng dẫn ơng Th mang hồ sơ về Ủy
ban nhân dân xã Tân Phong, thị xã Giá Rai điều chỉnh từ đất ở nông thôn sang đất ở
đô thị, do trước đây giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Hồng Thúy N
thời điểm đó là huyện Giá Rai, nay được nâng lên thị xã Giá Rai nên phải điều chỉnh
lại. Sau khi mang hồ sơ về thì ơng Th nhờ ơng Trần Minh T (là đồng nghiệp làm
chung cơ quan) ngụ ấp N.A, xã T, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu mang hồ sơ đến Ủy ban
nhân dân xã Tân Phong làm thủ tục điều chỉnh giúp ông K. Sáng ngày 14/11/2019,
ông T đến bộ phận 01 cửa của Ủy ban nhân dân xã Tân Phong nộp hồ sơ ông Th nhờ
vào bộ phận địa chính, bộ phận địa chính đã chuyển hồ sơ cho Lê Thị Kim P, là cơng
chức Văn phịng – Thống kê của Ủy ban nhân dân xã Tân Phong có nhiệm vụ trực
tiếp quản lý lai và thu các loại phí, lệ phí tại bộ phận một cửa của xã Tân Phong kiểm
tra hồ sơ. Sau khi kiểm tra hồ sơ, Lê Thị Kim P thông báo với ông T phần đất ơng T
đăng ký biến động hiện tại cịn thiếu tiền thuế phi nông nghiệp, số tiền là 25.000.000
đồng, người nợ tiền thuế là bà Hồng Thúy N đứng tên phần đất chuyển nhượng cho
ông K nên không thể đăng ký được. Nếu muốn đăng ký biến động thì phải nộp tiền
thuế 25.000.000 đồng. Sau đó, ơng Tơng điện thoại di động cho ông Th và ông K
thông báo nội dung bà N còn nợ tiền thuế phải nộp là 25.000.000 đồng thì ơng K
đồng ý nhờ ơng T nộp giúp ông K. Đến khoảng 15 giờ ngày 14/11/2019, ông T đến
gặp trực tiếp P tại bộ phận một cửa của Ủy ban nhân dân xã Tân Phong nộp số tiền

25.000.000 đồng thì P xuất biên lai số 0017393 (Liên 2) thu phí, lệ phí “Phi nơng
nghiệp” số tiền 25.000.000 đồng, tên người nộp là Hồng Thúy N, địa chỉ ấp I, xã T
nhưng không ghi ngày, tháng, chỉ ghi năm 2019 và ký tên người thu tiền, không ghi
Bản án hình sự sơ thẩm số: 14/2021/HS-ST ngày 23 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã Giá Rai,
tỉnh Bạc Liêu.
5


13
họ và tên rồi đưa biên lai này cho ông T cùng hồ sơ. Cùng ngày, sau khi nhận được
hồ sơ thì ơng T điện thoại di dộng cho ơng Khôi đến Ủy ban nhân dân xã Tân Phong
để bàn giao toàn bộ hồ sơ cùng biên lai thu tiền cho ơng K, đồng thời ơng K có trả lại
cho ông T số tiền 25.000.000 đồng, sau đó ông K đến phòng một cửa Ủy ban nhân
dân thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu đăng ký sang tên. Trong khoảng thời gian Lê Thị
Kim P nhận số tiền 25.000.000 đồng từ ơng T giúp ơng K nộp tiền phí, lệ phí phi
nơng nghiệp cho bà Hồng Thúy N vào ngày 14/11/2019 thì P khơng nói cho bà N biết
về việc thu số tiền này. Đến ngày 10/02/2020, bà Hồng Thúy N điện thoại yêu cầu
ông K trả số tiền 30.000.000 đồng thì ơng K thơng báo ơng đã nộp thuế “Phi nông
nghiệp” cho bà N số tiền 25.000.000 đồng để hoàn chỉnh hồ sơ làm thủ tục sang tên
thửa đất. Do cho rằng phần đất mình chuyển nhượng cho ơng Khôi không nợ thuế
nên bà N yêu cầu ông K gửi biên lai thu tiền thuế cho bà N thì ông K lấy điện thoại
chụp hình biên lai số 0017393 (Liên 2) gửi qua Zalo cho bà N. Sau khi xem hình ảnh
ơng K gửi, bà N trực tiếp điện thoại di động cho Lê Thị Kim P hỏi việc ông K đóng
số tiền 25.000.000 đồng là đúng hay sai, đóng tiền gì thì P trả lời cho bà N biết là tiền
thuế đất. Đến ngày 13/02/2020, bà N nhờ anh Võ Quốc Tr, là người làm thuê cho bà
N đến xã L, thành phố C, tỉnh Cà Mau gặp ông K lấy biên lai thu tiền về. Sau đó, sự
việc được Ủy ban nhân dân xã Tân Phong kiểm tra lại việc thu tiền thuế đất của bà
Hồng Thúy N thì phát hiện giữa Liên 1 và Liên 2 biên lai thu tiền phí, lệ phí số
0017393 có nội dung và số tiền khác nhau, cụ thể: - Liên 1 số 0017393 ký hiệu
19AG-17P lưu tại tổ chức thu Ủy ban nhân dân xã Tân Phong thể hiện: Biên lai thu

phí, lệ phí: KS, tên đơn vị hoặc người nộp tiền: Trần Văn Đ, địa chỉ Tân Phong, số
tiền 50.000 đồng (Năm mươi ngàn đồng), ghi ngày 15/11/2019, có chữ ký người thu
tiền (không ghi họ và tên), ghi bằng mực bút bi. - Liên 2 số 0017393 ký hiệu 19AG17P giao người nộp tiền, thể hiện: Biên lai thu phí, lệ phí: Phi nơng nghiệp, tên đơn vị
hoặc người nộp tiền: Hồng Thúy N, địa chỉ ấp 1, xã Tân Phong, số tiền 25.000.000
đồng (Hai mươi lăm triệu đồng), khơng ghi ngày, tháng, năm 2019, có chữ ký người
thu tiền (không ghi họ và tên), ghi bằng mực bút bi. Ngày 14/02/2020, Ủy ban nhân
dân xã Tân Phong đã kiểm tra và phát hiện sự việc Lê Thị Kim P đã thực hiện việc
xuất biên lai thu phí, lệ phí khơng đúng quy định, nên Ủy ban nhân dân xã Tân Phong
có văn bản gửi cho Cơng an xã Tân Phong để xác minh làm rõ theo quy định của
pháp luật. Đến tối ngày 16/02/2020, Lê Thị Kim P trực tiếp đến gặp và trả lại cho bà
Ngân số tiền 25.000.000 đồng tiền thu phí, lệ phí phi nông nghiệp, xin bà Ngân cho
nhận lại Liên 2 biên lai thu phí, lệ phí số 0017393 và được bà Ngân đồng ý đưa lại


14
Liên 2 cho P. Quá trình điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Giá Rai yêu
cầu Lê Thị Kim P nộp lại Liên 2, số 0017393 ký hiệu 19AG-17P, Biên lai thu tiền
phí, lệ phí “Phi nông nghiệp”, tên người nộp: Hồng Thúy N mà P đã nhận lại từ bà N,
nhưng P không giao nộp với lý do bị thất lạc khơng tìm thấy.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 14/2021/HS-ST ngày 23/3/2021 của Tòa án
nhân dân thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Lê Thị Kim
P phạm tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”; Xử phạt bị cáo Lê
Thị Kim P 01 (một) năm tù.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 23/3/2021 bị cáo Lê Thị Kim P kháng cáo kêu
oan, cho rằng mình khơng phạm tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản”, những giao dịch giữa các bên chỉ là quan hệ vay mượn, xác nhận nợ chứ
khơng có chiếm đoạt tài sản của ai. Việc bị cáo nhận số tiền 30.000.000 đồng là do
ông K trả nợ thay cho bà Ngân 25.000.000 đồng nhưng ông T lại đưa dư 5.000.000
đồng và việc bị cáo viết biên lai thu tiền phí, lệ phí số 0017393, Liên 2 đưa cho ông
T để chứng minh đã nhận tiền bà N trả nợ, khơng nhằm mục đích thu thuế phi nông

nghiệp, nên việc truy tố xét xử bị cáo phạm tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản” là oan cho bị cáo.
Trong vụ án này, tác giả đồng tình với quan điểm là Lê Thị Kim P phạm tội
“Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều
355 Bộ luật Hình sự; các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng thị xã
Giá Rai (tỉnh Bạc Liêu) đã định tội danh đúng người, đúng tội. Bởi vì tội danh trên
là phù hợp với hành vi khách quan mà Lê Thị Kim P đã thực hiện. Theo đó, P là
người có chức vụ, quyền hạn, đã sử dụng chức vụ, quyền hạn đó như một cơng cụ,
phương tiện để thực hiện hành vi vượt quá chức trách của mình để chiếm đoạt tài
sản của người khác thơng qua việc đưa ra thông tin gian dối là bà Hồng Thúy N cịn
nợ thuế phi nơng nghiệp số tiền 25.000.000 đồng để ông Trần Minh T (nộp thay cho
ông Lê Ngọc K) số tiền thuế đất phi nông nghiệp 25.000.000 đồng. Thực tế, bà
Hồng Thúy N không nợ thuế phi nơng nghiệp, bản thân bị cáo P khơng có thẩm
quyền thu thuế phi nơng nghiệp và bị cáo chính là người đã lập phiếu thu số
0017393, trực tiếp nhận 25.000.000 đồng từ ông T. Tại Liên 2 của biên lai thu số
0017393 thể hiện nội dung “tên loại phí, lệ phí: phi nơng nghiệp. Tên đơn vị hoặc
người nộp tiền: Hồng Thúy Ngân. Địa chỉ: Ấp 1, xã Tân Phong. Số tiền
25.000.000đ (viết bằng chữ) Hai mươi lăm triệu đồng. Hình thức thanh tốn: TM”.
Đối với biên nhận khơng ghi ngày tháng, theo bị cáo xác định được lập ra vào tháng


15
02/2020 đồng nghĩa với việc biên nhận này được lập ra sau ngày bị cáo nhận số tiền
25.000.000đ từ ông T khoảng 02 tháng. Và bị cáo khơng có chứng cứ gì chứng
minh việc bà N đã đồng ý để bị cáo đòi nợ thay cho bà N; bà N đồng ý để bị cáo
nhận số tiền ông K (ông T nộp thay) để cấn trừ vào số tiền bà N nợ gia đình bị cáo.
Vụ án thứ hai6: Cuối tháng 9/2020, ông Lý Văn H1, trú tại thôn B, xã T4,
huyện C2 (là người chuyên đi mua, bán các loại cây xanh, cây cổ thụ về trồng làm
cảnh và lấy bóng mát) gọi điện thoại cho Hà Quốc H, sinh năm 1973, trú tại tổ dân
phố T, thị trấn T1, huyện H, tỉnh Tuyên Quang là Trạm trưởng Trạm Kiểm lâm H2

thuộc Hạt Kiểm lâm rừng đặc dụng C (trực tiếp quản lý địa bàn xã H2, huyện C2)
trao đổi về việc ông H1 đã mua được một cây Khế của gia đình ơng Quan Văn C3 ở
thơn Th, xã H2, huyện C2 và tìm được 02 cây Muỗm (một cây của nhà ông V ở thôn
L, một cây của nhà ông T ở thôn Th, cùng xã H2), nhưng chưa hỏi mua và nhờ H tạo
điều kiện giúp đỡ để cho ông H1 vận chuyển cây. Ngày 25/9/2020, H gọi điện thoại
hỏi ông H1 về việc mua các cây trên và dặn ông H1 vận chuyển cây phải đi ngày chủ
nhật, khơng đi ngày thường vì có Tổ cơ động Kiểm lâm đi kiểm tra, đồng thời H hẹn
ông H1 ngày 27/9/2020 đến Trạm Kiểm lâm H2 để hướng dẫn làm thủ tục.
Khoảng 15 giờ ngày 27/9/2020, ông H1 đến Trạm Kiểm lâm H2 gặp H nhờ
làm thủ tục vận chuyển cây Khế mà ông H1 đã mua của ông C3, với giá 4.200.000
đồng (cây Khế được trồng trong vườn nhà ơng C3 và diện tích đất vườn đã được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Sau khi kiểm tra Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, H viết 02 bảng kê lâm sản rồi đưa cho ông H1 và bảo gửi cho chủ hộ
01 bảng, còn 01 bảng ông H1 giữ để vận chuyển cây (đối với hai cây Muỗm, do ông
H1 chưa vận chuyển nên chưa làm bảng kê lâm sản). Lúc này ơng H1 nói với H“có
gì anh tạo điều kiện giúp đỡ em” và H nói với ơng H1 “ba cây này thì mày làm bao
nhiêu, mày định bao nhiêu”, ý bảo ông H1 đưa cho H bao nhiêu tiền để được vận
chuyển cây, đồng thời H tiếp tục nói “trước hai cây đấy mày đưa tao một củ (một
triệu đồng) rồi, bây giờ ba cây đấy mày đưa tao bao nhiêu?”; ông H1 trả lời “thì
anh cứ phát thơi, cái gì cái anh em cứ phải ăn thẳng, nói thẳng, ăn thật, nói thật,
tạo điều kiện giúp em”, thấy thế H bảo với ông H1 “Hai củ nhớ”, ý bảo ông H1 đưa
cho H 2.000.000 đồng. Sau khi nghe H nói, ơng H1 đã lấy tiền ở trong ví của mình
ra 2.000.000 đồng (gồm 04 tờ tiền, mỗi tờ mệnh giá 500.000 đồng) và đưa cho H. H
nhận tiền của ông H1, kiểm tra thấy 01 tờ tiền bị rách nên đưa cho ông H1 đổi tờ
khác; nhận tiền xong H để dưới quyển sổ trên bàn làm việc, cịn ơng H1 đi về thuê
6

Bản án số 52/2021/HSST ngày 07/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang



16
người, phương tiện đào và vận chuyển cây Khế đi bán, nhưng do cây bị bong vỏ
phần gốc không bán được nên ông H1 mang đến trồng nhờ tại vườn nhà anh Lâm
Văn D, thôn 1 M, xã Y, huyện H, tỉnh Tun Quang.
Tồn bộ nội dung cuộc nói chuyện và việc đưa, nhận tiền giữa ông H1 và H
nêu trên tại Trạm Kiểm lâm H2, ông H1 đã sử dụng thiết bị ghi hình có âm thanh để
ghi lại tồn bộ sự việc, sau đó đến Cơ quan điều tra tố giác và giao nộp.
Cáo trạng số 19/CT-VKS-P1 ngày 28/5/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện
Chiêm Hóa truy tố Hà Quốc H về tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản” quy định tại khoản 1 Điều 355 Bộ luật hình sự.
Tịa án nhân dân huyện Chiêm Hóa đã tuyên bố bị cáo Hà Quốc H phạm tội
“Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”.
Trong vụ án này, tác giả đồng quan điểm với Viện kiểm sát nhân dân huyện
Chiêm Hóa và Tịa án nhân dân huyện Chiêm Hóa là bị cáo Hà Quốc H phạm tội
“Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”. Trong vụ án này, Hà Quốc H
là người có chức vụ quyền hạn (Trạm trưởng Trạm kiểm lâm), đã cố tình lợi dụng
sự thiếu hiểu biết của người bị hại, có thủ đoạn gian dối (đưa ra lời nói, thông tin
sai) làm người bị hại tin là bị cáo có quyền hạn trong quản lý về hoạt động mua bán,
vận chuyển đối với cây cảnh, cây bóng mát mọc trong vườn nhà của người dân để
chiếm đoạt số tiền 2.000.000đ của bị cáo. Nguyên nhân, động cơ phạm tội của Hà
Quốc H xuất phát từ vụ lợi cá nhân, nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác, hành
vi phạm tội của Hà Quốc H đã hoàn thành sau khi nhận số tiền 2.000.000đ của bị
hại. Cụ thể, khi biết rõ anh Lý Văn H1, trú tại thôn B, xã T4, huyện C2 mua bán,
vận chuyển cây Khế được trồng trên đất vườn của hộ gia đình đã được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ( trường hợp mua bán, vận chuyển cây Khế này
không thuộc quyền quản lý của Hà Quốc H ), Hà Quốc H đã lợi dụng chức trách,
nhiệm vụ được giao trong thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về lâm sản và lợi
dụng sự thiếu hiểu biết pháp luật của người dân đã có hành vi yêu cầu anh H1 phải
đến Trạm Kiểm lâm H2 để lập bảng kê lâm sản và cho phép anh H1 vận chuyển cây
ra khỏi địa bàn quản lý của Trạm Kiểm lâm H2 để chiếm đoạt số tiền 2.000.000

đồng của anh H1. Hà Quốc H là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự, đã có hành vi bằng nhiệm vụ, quyền hạn là thực hiện kế
hoạch quản lý, bảo vệ rừng, tổ chức đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn, bảo đảm
chấp hành pháp luật về lâm nghiệp thuộc phạm vi được giao, xử lý vi phạm hành
chính và áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành vi vi phạm hành chính về lâm


17
nghiệp theo quy định (Mục 8 Điều 1 Quyết định số 280/QĐ -CCKL ngày 08/9/2020
quy định chức năng, nhiệm vụ của phịng chun mơn nghiệp vụ, các Hạt kiểm lâm
trực thuộc và đội Kiêm lâm cơ động và phòng cháy, chữa cháy rừng của Chi cục
kiểm lâm thuộc Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Tuyên Quang), H
không có nhiệm vụ quyền hạn thu tiền, nhận tiền của người dân và cũng không
được phép nhận tiền để làm hộ ông Lý Văn H1 các thủ tục liên quan đến việc vận
chuyển cây xanh, cây bóng mát trong vườn nhà nhưng Hà Quốc H vẫn yêu cầu ông
H1 đến Trạm kiểm lâm H2 để làm thủ tục vận chuyển cây và nhận của ông H1 số
tiền 2.000.000đ để cho ông H1 vận chuyển cây Khế qua địa bàn Hà Quốc H được
phân công quản lý. Hành vi của Hà Quốc H được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý
trực tiếp, mục đích vụ lợi, trực tiếp xâm phạm đến lĩnh vực quản lý hành chính về
lâm nghiệp của Nhà nước và trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người
khác được pháp luật bảo vệ. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa và
Tịa án nhân dân huyện Chiêm Hóa truy tố và xét xử bị cáo Hà Quốc H về tội Lạm
dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 355 của
Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Bên cạnh những kết quả đạt được, các cơ quan tố tụng và người tiến hành tố
tụng vẫn còn nhằm lẫn trong việc xác định hành vi khách quan của Tội lạm dụng chức
vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản và hành vi khách quan của các tội khác như: tham ô,
cưỡng đoạt tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản,… trong định tội danh dẫn đến tình trạng xảy ra oan sai hay bỏ lọt tội phạm.
Vụ án thứ ba7: Vào tháng 9/2015 Đảng ủy, Hội đồng nhân dân xã M, huyện

K, tỉnh Hải Dương (nay là phường P, thị xã K, tỉnh Hải Dương) ban hành Nghị quyết
về việc giao cho UBND xã M cải tạo, sửa chữa Trạm y tế xã M. Ngày 21/10/2015,
Nguyễn Hoàng A- Chủ tịch UBND xã M ký hợp đồng thuê ông Nguyễn Ngọc H Trạm trưởng Trạm y tế xã M thi công cải tạo, sửa chữa Trạm y tế xã theo dự toán do
UBND xã lập với kinh phí 77.420.000 đồng. Trong thời gian tháng 10, 11/2015, ông
H đã tự mua vật liệu xây dựng, thuê thợ triển khai thi cơng và hồn thành việc cải tạo,
sửa chữa Trạm y tế vào giữa tháng 11/2015, trong quá trình thi cơng, UBND xã giao
cho ơng Nguyễn Văn Q - Cơng chức địa chính, xây dựng thực hiện kiểm tra, giám sát
việc thi công. Sau khi thi công xong, ngày 20/11/2015, Hồng A chỉ đạo ơng Nguyễn
Ngọc Tr - Thủ quỹ ngân sách UBND xã M trả cho ông H tiền thi công cải tạo, sửa
chữa Trạm y tế xã số tiền 70.000.000 đồng từ nguồn thu 100.000.000 đồng do Cơng
7

Bản án hình sự phúc thẩm số 23/2020/HSPT ngày 31/3/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương


18
ty Cổ phần kinh doanh chế biến hàng hóa xuất nhập khẩu Đ (viết tắt là Công ty Đ)
nộp hỗ trợ đất công điền khi được UBND tỉnh Hải Dương thu hồi cho thuê đất nhưng
UBND xã để ngoài ngân sách xã, khơng hạch tốn theo dõi trên sổ sách kế tốn và
khơng nộp Kho bạc Nhà nước theo quy định. Đến ngày 23/01/2017 Hồng A trực
tiếp trả cho ơng H 7.000.000 đồng, cịn lại 420.000 đồng chưa thanh tốn; khi ông H
nhận tiền chỉ viết, ký nhận trên sổ ghi chép của ơng Tr và Hồng A.Việc chi trả tiền
cho ơng H chỉ có Hồng A và ơng Tr biết, khơng được Hồng A chỉ đạo cán bộ
chun mơn lập chứng từ kế toán để thanh toán, hạch toán theo quy định của Luật Kế
toán và Chế độ kế tốn ngân sách và tài chính xã (Hồng A khơng báo cáo Đảng ủy
xã và không thông báo cho tập thể UBND xã M) (Bút lục số 510 đến 600). Cũng vào
tháng 10/2015, Hoàng A đã báo cáo Đảng ủy xã M về việc UBND xã M có nguồn
tiền 120.496.944 đồng được Công ty TNHH Một thành viên Điện lực Hải Dương
hoàn trả lưới điện trung áp chuyển ngày 03/7/2014 vào tài khoản tiền gửi của UBND
xã M mở tại Kho bạc Nhà nước huyện K và đã được Đảng ủy xã M cho ý kiến sử

dụng số tiền này chi đầu tư cho các cơng trình phúc lợi xã hội của địa phương (trong
đó có cơng trình Trạm y tế xã). Ngày 28/06/2016, tại kỳ họp HĐND xã M (khóa XXI
nhiệm kỳ 2016- 2020), Hồng A đã báo cáo và được HĐND xã thông qua Nghị quyết
về việc sử dụng 120.496.944 đồng từ nguồn tiền hoàn trả lưới điện để chi cho cơng
trình cải tạo Trạm y tế. Đầu tháng 10/2016, Hoàng A trao đổi với chị Hà Thị N là Kế
toán ngân sách xã về việc sử dụng khoản tiền hoàn trả lưới điện trung áp để thanh,
quyết tốn cơng trình cải tạo, sửa chữa trạm y tế xã, bà N có nói: “Chú phải yêu cầu
đơn vị thi công lập hồ sơ xây dựng, thi công, quyết tốn đúng quy định thì mới chi
được”. Lúc này Hồng A nói cho chị N biết, UBND xã đã thuê tư nhân cải tạo Trạm
y tế xã nên khơng có hồ sơ dự tốn, thiết kế, thi cơng, quyết tốn để thanh tốn (chị N
khơng biết trước đó Hồng A đã chỉ đạo thanh tốn tiền thi cơng cải tạo Trạm y tế
cho ơng H) nên đã nói với Hồng A nhờ đơn vị có tư cách pháp nhân lập hồ sơ xây
dựng, quyết tốn để thanh tốn cơng trình này. Sau đó, Hồng A đã gặp Đặng Văn L
- Chủ sở hữu, Giám đốc Công ty TNHH xây dựng và đầu tư L (viết tắt là Công ty L)
trao đổi và nhờ L giúp UBND xã lập hồ sơ thi cơng để thanh quyết tốn cơng trình
Trạm y tế xã theo dự toán do UBND xã lập với số tiền là 77.420.000 đồng. Thời điểm
này Công ty L đang thi cơng cơng trình Trường trung họ cơ sở xã M nên L kiểm tra
thực tế (đối chiếu với bản dự toán cải tạo Trạm y tế của UBND xã do Hồng A đưa
cho, biết rõ cơng trình Trạm y tế xã đã được tổ chức, cá nhân khác thi cơng xong) và
với kinh nghiệm của mình, L xác định kinh phí cải tạo Trạm y tế xã hết khoảng


19
70.000.000 đồng đến 75.000.000 đồng nên đồng ý giúp và đưa ra lý do Cơng ty L
phải xuất hóa đơn giá trị gia tăng 10% trên doanh thu, sau đó hai người thỏa thuận,
Công ty L giữ lại 13% trên tổng số tiền thanh, quyết tốn, số tiền cịn lại 87% L sẽ trả
cho Hoàng A sau khi rút tiền tại ngân hàng. Do Cơng ty L khơng có chức năng lập dự
toán, thiết kế và thẩm định nên Lại bảo Hồng A nhờ đơn vị có tư cách pháp nhân lập
dự tốn, thiết kế và thẩm định. Hồng A đã trao đổi, nhờ anh Nguyễn Văn P - Giám
đốc Công ty cổ phần tư vấn xây dựng và kiểm định A (viết tắt là Công ty A) giúp

UBND xã lập hồ sơ thiết kế, dự tốn cơng trình cải tạo Trạm y tế. Do khơng biết mục
đích của Hồng A, anh P đồng ý giúp và cử anh Đoàn Bá G là nhân viên kỹ thuật
công ty đến xã M khảo sát, đo vẽ hiện trạng, xác định khối lượng các hạng mục cải
tạo, sửa chữa Trạm y tế xã đã thi công, lập hồ sơ thiết kế, dự tốn cơng trình cải tạo
khu nhà sản Trạm y tế xã với tổng kinh phí là 98.606.000 đồng. Sau đó, anh P chuyển
hồ sơ thiết kế, dự toán nhờ anh Bùi Văn M - Giám đốc Công ty phần xây dựng và
thương mại B (viết tắt là Công ty B), địa chỉ số 30, S-Thành phố H làm thủ tục thẩm
tra thiết kế, dự tốn rồi chuyển lại cho Hồng A. Sau đó, ngày 25/10/2016, Hồng A
chỉ đạo bà N rút 120.496.944 đồng từ tài khoản tiền gửi của UBND xã, nộp vào tài
khoản dự toán chi thường xuyên ngân sách xã mở tại Kho bạc Nhà nước huyện để
thanh tốn cơng trình. Sau khi có hồ sơ thiết kế, dự tốn của Cơng ty A và kết quả
thẩm tra của Cơng ty B, Lại đã cùng Hồng A lập hợp đồng thi công đề ngày
01/12/2016, thanh lý hợp đồng đề ngày 20/12/2016 và tài liệu thi công, nghiệm thu,
quyết tốn cơng trình cải tạo khu nhà sản Trạm Y tế xã M, rồi Hoàng A với tư cách
Chủ tịch UBND xã M đã ra Quyết định số 108/QĐ-UBND đề ngày 23/12/2016 về
việc phê duyệt quyết tốn cơng trình; L với tư cách giám đốc Công ty L ký, xuất hóa
đơn giá trị gia tăng đề ngày 20/12/2016 đối với cơng trình với tổng giá trị là
98.606.000 đồng (gồm 89.641.818 đồng chi phí thi cơng và 8.964.182 đồng thuế giá
trị gia tăng). Sau đó, Hồng A chỉ đạo kế tốn UBND xã M làm thủ tục rút dự toán
ngân sách hai lần tổng số tiền 98.606.000 đồng từ tài khoản ngân sách xã tại Kho bạc
Nhà nước K chuyển vào tài khoản của Công ty L mở tại Agribank- Chi nhánh Thành
phố H thanh tốn cơng trình cải tạo khu nhà sản Trạm Y tế xã (lần 1 chuyển
56.337.028 đồng- ngày 18/01/2017; lần 2 chuyển 42.268.972 đồng - ngày
25/01/2018). Sau khi được thanh tốn tiền cơng trình, L đã đưa cho Hoàng A hai lần
tổng số tiền 85.787.220 đồng (lần 1 trả 49.013.214 đồng, lần 2 trả 36.774.006 đồng),
giữ lại Công ty L 12.818.780 đồng và lập chứng từ, hạch tốn chi phí, doanh thu, kê
khai- nộp thuế giá trị gia tăng quý 4/2016, thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2016 để


20

hợp thức việc quyết tốn, thanh tốn cơng trình cải tạo khu nhà sản Trạm Y tế xã M;
Hoàng A và L không chi khoản tiền nào cho anh Bùi Văn M - Giám đốc Công ty
B,anh Nguyễn Văn P, anh Đoàn Bá G - Giám đốc và nhân viên Công ty A. Khi L đến
UBND xã M giao số tiền trên, Hồng A khơng chỉ đạo kế tốn lập phiếu thu tiền,
không bàn giao tiền cho Thủ quỹ ngân sách xã đối với số tiền mà Hoàng A trực tiếp
nhận của L, không viết giấy biên nhận và quản lý cá nhân 85.787.220 đồng, không
cho ai khác biết, cho đến ngày 20/8/2018 khi Cơ quan điều tra đang tiến hành xác
minh việc đầu tư, quyết tốn, thanh tốn cơng trình cải tạo Trạm Y tế thì Hồng A
mới giao nộp về ngân sách xã 78.387.220 đồngvà giữ lại 7.000.000 đồng mà trước đó
đã dùng tiền cá nhân trả ơng Nguyễn Ngọc H. Ngày 13/9/2018 theo đề nghị của L,
Hoàng A ký giấy biên nhận về việc nhận số tiền 85.787.220 đồng do L giao.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 58/2020/HSST ngày 28/9/2020 của Tòa án
nhân dân thị xã K đã căn cứ vào khoản 1, 5 Điều 353; điểm b, s, x khoản 1 Điều 51,
Điều 7,Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH
14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội; Xử phạt bị cáo Nguyễn
Hoàng A 34 tháng tù tội “Tham ô tài sản”.
Trong vụ án này, theo quan điểm của tác giả: Nguyễn Hồng A khơng phạm tội
tham ô tài sản mà phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản. Bởi vì:
Trong vụ án này, số tiền 85.787.220 đồng mà A chiếm đoạt không phải là tài
sản của nhà nước và thời điểm A nhận số tiền 85.787.220 đồng thì A khơng cịn
phải là người quản lý trực tiếp mà số tiền này thuộc sở hữu của L nên H không
phạm tội “Tham ô tài sản” mà hành vi của H là sử dụng chức vụ, quyền hạn của
mình như một cơng cụ, phương tiện để thực hiện hành vi vượt quá chức trách của
mình để chiếm đoạt tài sản, đây là dấu hiệu của tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản”.
Về bản chất thì tội tham ơ tài sản và tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm
đoạt tài sản đều có hành vi chiếm đoạt tài sản và cũng đều do những chủ thể phạm
tội chức vụ thực hiện nên dễ gây nhầm lẫn. Do vậy, để phân biệt hai tội này cần dựa
vào đối tượng tác động và hành vi khách quan của từng tội phạm. Đối với tội tham
ơ tài sản thì đối tượng tác động là tài sản đang do người phạm tội quản lý một cách

hợp pháp (do chức vụ, cương vị công tác đem lại) và là tài sản của Nhà nước. Còn
với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản là tài sản của người khác và
đang dưới sự quản lý của người khác, đó có thể là tài sản của Nhà nước. Về hành vi
khách quan: Ở tội tham ô tài sản thì người phạm tội đã lợi dụng chức vụ quyền hạn


×