Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Vai trò của yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của bộ luật dân sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HỒNG PHƯƠNG HẰNG

VAI TRỊ CỦA YẾU TỐ LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

KHÓA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 7 NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

HỒNG PHƯƠNG HẰNG

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT HỌC

VAI TRÒ CỦA YẾU TỐ LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: THS. NGUYỄN TẤN HỒNG HẢI

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 7 NĂM 2022



LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả dưới sự
hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Tấn Hoàng Hải. Các nội dung khơng phải
của tác giả đều được trích dẫn đầy đủ, rõ ràng. Tác giả xin chịu hoàn toàn trách nhiệm
cho bất cứ sai sót nào từ cơng trình nghiên cứu của mình.
Tác giả

HỒNG PHƯƠNG HẰNG


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Nghị quyết
03/2006/NQ-HĐTP

Bộ luật dân sự
Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP của TANDTC hướng dẫn
áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng

BTTH

Bồi thường thiệt hại

BTTHNHĐ

Bồi thường thiệt hại ngoại hợp đồng

TAND


Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

SHTT

Sở hữu trí tuệ

NXB

Nhà xuất bản


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu ...................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài .............................................. 7
7. Bố cục của đề tài ............................................................................................. 7
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ YẾU TỐ LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG ............................................. 8
1.1. Khái niệm yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
theo pháp luật dân sự ........................................................................................... 8
1.2. Lịch sử yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ... 12

1.3. Đặc điểm của yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
...................................................................................................................... 16
1.4. Phân loại yếu tố lỗi trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật
dân sự ................................................................................................................ 20
1.5. Ý nghĩa của yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
...................................................................................................................... 22
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 25
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ, BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN YẾU TỐ
LỖI TRONG BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG THEO PHÁP
LUẬT DÂN SỰ .................................................................................................... 26
2.1. Yếu tố lỗi là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
theo pháp luật dân sự Việt Nam......................................................................... 26
2.2. Yếu tố lỗi trong việc xác định chủ thể bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
theo pháp luật dân sự ......................................................................................... 33


2.3. Yếu tố lỗi trong việc xác định mức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo
pháp luật dân sự ................................................................................................ 44
2.3.1. Tác động từ lỗi của bên gây thiệt hại tới mức bồi thường .................... 44
2.3.2. Tác động từ lỗi của bên bị thiệt hại tới mức bồi thường ....................... 48
2.3.3. Bên bị thiệt hại có lỗi một phần ........................................................... 50
2.3.4. Bên bị thiệt hại hồn tồn có lỗi .......................................................... 55
2.4. Yếu tố lỗi trong việc xác định nghĩa vụ hoàn trả đối với chế định bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự .................................................. 58
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 65
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, cuộc sống của con người ngày càng được hoàn thiện và văn minh
hơn, cũng là lúc quyền của con người được Nhà nước đề cao và chú trọng bảo vệ tốt
hơn. Trách nhiệm BTTHNHĐ là một trong những chế định nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể bị xâm phạm. Tuy nhiên, để chế định BTTHNHĐ
được phát huy đúng mục tiêu mà Nhà nước kỳ vọng, có nhiều vấn đề xoay quanh cần
được làm rõ và phân tích kỹ hơn, một trong những điểm bất cập cần được nghiên cứu
đó là vai trị của yếu tố lỗi trong trách nhiệm này theo quy định của BLDS năm 2015.
Có thể thấy, yếu tố lỗi có vai trị rất quan trọng trong trách nhiệm BTTHNHĐ,
bởi lẽ lỗi của các chủ thể sẽ phản ánh được ý thức của mỗi người đối với hành vi của
mình. Tại BLDS năm 2015 hiện nay, để phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ, yếu tố lỗi
khơng cịn là căn cứ bắt buộc phải có. Nhưng khơng có nghĩa yếu tố lỗi khơng có giá
trị, để xác định chủ thể nào có trách nhiệm BTTHNHĐ hay để định lượng mức bồi
thường cụ thể của người gây thiệt hại vẫn phải dựa trên lỗi của họ. Bên cạnh đó, việc
đánh giá lỗi của bên gây thiệt hại, bên bị thiệt và các chủ thể khác sẽ giúp chúng ta
nhìn nhận rõ ràng hơn chủ thể nào thật sự phải có trách nhiệm đối với phần thiệt hại
đã xảy.
Tuy nhiên, các quy định của BLDS năm 2015 chỉ dừng lại ghi nhận cần phải
xem xét yếu tố lỗi của các chủ thể, mà chưa có những quy định rõ ràng yếu tố lỗi tác
động như thế nào đối với các hoạt động buộc một chủ thể chịu trách nhiệm
BTTHNHĐ. Bên cạnh đó, một số quy định của BLDS năm 2015 còn tồn tại những
điểm bất cập cần được phân tích, đánh giá để có cách hiểu đúng đắn hơn khi áp dụng
trên thực tế. Chính những lý do trên dẫn đến sự lúng túng, không thống nhất giữa các
Tòa án khi giải quyết vụ việc cụ thể. Vì vậy, tác giả nhận thấy cần thiết phải có những
bài nghiên cứu về vấn đề vai trò của yếu tố lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ theo
quy định của BLDS năm 2015.
Từ những lý do trên và với mong muốn tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này, tác giả
đã chọn đề tài: “Vai trò của yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015”.


1


2. Tình hình nghiên cứu
Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, tác giả nhận thấy khía cạnh lỗi trong trách
nhiệm BTTHNHĐ được nhiều tác giả quan tâm, điển hình như các cơng trình nghiên
cứu sau:
2.1 Nhóm Giáo trình, sách chuyên khảo
-

Có thể kể đến sách Luật Dân sư Việt Nam (Bình giảng và áp dụng) – trách

nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng– NXB. Cơng an nhân dân của tác giả
Phùng Trung Tập, tại đây tác giả đã bình luận, lý giải và nhận xét hầu hết các quy
định trong trách nhiệm BTTHNHĐ, bình luận một số tình huống BTTHNHĐ, trong
đó có yếu tố lỗi của người gây thiệt hại, bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm
tuổi gây ra. Tuy nhiên, tác giả chưa đi phân tích hết các vai trị của yếu tố lỗi trong
trách nhiệm BTTHNHĐ theo BLDS năm 2015 mà chỉ nói về bản chất lỗi của các chủ
thể.
Tại cuốn sách Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam bản án và
bình luận bản án (Tập 1) - NXB. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam do tác giả Đỗ
Văn Đại làm chủ biên (2016), các tác giả đã phân tích nhiều khía cạnh của yếu tố lỗi
trong trách nhiệm BTTHNHĐ, có thể kể đến chuyên đề: tồn tại lỗi của người gây
thiệt hại; vai trò lỗi của người bị thiệt hại, ….Với từng chuyên đề, tác giả đã phân tích
từ quy định của pháp luật, bình luận bản án đến việc so sánh với pháp luật nước ngồi.
Từ đó, cuốn sách đề xuất hướng hoàn thiện với những bất cập.
-

Đỗ Văn Đại (Chủ biên) (2018), Luật bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng Việt


Nam - bản án và bình luận bản án (tập 2), NXB. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam,
tái bản lần thứ 4: Trong cuốn sách này, tác giả đã nêu lên quan điểm về nhiều nội
dung khác nhau, trong đó có việc người của pháp nhân, người làm cơng, học nghề
hồn trả lại một khoản tiền cho pháp nhân, người dạy nghề.
Tại tác phẩm Sách tình huống pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng (Bình luận án) của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh –
NXB. Chính trị quốc gia sự thật, có nhiều bài viết khác nhau về chế định BTTHNHĐ
của nhiều tác giả, trong đó có: bình luận về khái niệm yếu tố lỗi; cách phân biệt lỗi
và hành vi gây thiệt hại; đồng thời cũng đưa ra kiến nghị đối với quy định yếu tố lỗi
ảnh hưởng như thế nào tới mức hoàn trả trong trường hợp BTTHNHĐ do người của
pháp nhân gây ra; ….

2


-

Nguyễn Văn Hợi (2020), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra,

NXB. Công an nhân dân, Hà Nội: trong cuốn sách, tác giả đã phân tích kỹ càng các
quy định BTTH do tài sản như nguồn nguy hiểm cao độ, cơng trình xây dựng, thú dữ,
… gây ra. Thông qua các quy định pháp luật, tác giả đã đánh giá và thể hiện quan
điểm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về trách nhiệm
BTTH do tài sản gây ra. Trong đó, nổi bật là kiến nghị của tác giả về việc xác định
chủ thể có trách nhiệm BTTHNHĐ khi tài sản gây ra thiệt hại.
2.2 Nhóm khóa luận, luận văn, cơng trình nghiên cứu khoa học
-

Hứa Thu Hằng (2014), Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt ngồi


hợp đồng, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội: Tại bài nghiên cứu, tác giả
đưa ra một cách toàn diện về lỗi với tư cách là một trong bốn yếu tố làm phát sinh
trách nhiệm BTTHNHĐ theo BLDS năm 2005, đồng thời đánh giá được những điểm
còn bất cập, hạn chế. Đồng thời tác giả cũng đưa ra các vai trò quan trọng của yếu tố
lỗi trong trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, đây là bài viết dựa trên BLDS cũ, đã hết
hiệu lực, nên chỉ mang tính tham khảo và so sánh.
Tác giả Võ Nguyên Tùng trong tác phẩm Lỗi của bên bị thiệt hại trong trách
nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng (Luận văn thạc sĩ) đã làm rõ những vấn đề lý luận
cốt lõi về lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm BTTHNHĐ và phân tích những
vụ án thực tế nhằm khắc những hạn chế còn vướng phải của BLDS năm 2015.
Ngồi ra cịn có tác phẩm Xác định mức trách nhiệm trong việc liên đới bồi
thường thiệt hại theo pháp luật Việt Nam của tác giả Hoàng Anh Khoa, tại đây tác
giả đã nghiên cứu chuyên sâu các quy định về việc xác định mức BTTH trong trách
nhiệm liên đới bồi thường và đưa ra đề xuất nhằm hoàn thiện việc đánh giá mức độ
lỗi.
Lê Thúy Hương, Nguyễn Tấn Hoàng Hải (đồng tác giả) (2015), Một số điểm
mới cơ bản của quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo bộ
luật dân sự 2015, cơng trình nghiên cứu khoa học, trường Đại học Luật TP.HCM:
Trong cơng trình nghiên cứu, các tác giả đi sâu phân tích cụ thể những điểm mới của
BLDS năm 2015 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
so với BLDS năm 2005. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả có cái nhìn rõ ràng hơn trong
những trường hợp nào lỗi mới là điều kiện bắt buộc cần có và sự quan trọng của yếu
tố này tác động đến việc xác định trách nhiệm thực tế.

3


-


Đặng Thị Hồng Tuyến (chủ nhiệm đề tài) (2016), Nghiên cứu so sánh các quy

định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong pháp luật Anh, Đức và Nga, Đề
tài khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội: Trong bài viết, các tác giả
trình bày nhiều chuyên đề của chế định BTTHNHĐ, qua đó làm rõ, phân tích những
điểm tương đồng và khác biệt trong pháp luật về BTTHNHĐ của ba nước: Anh, Đức
và Nga. Đây được xem là nguồn tư liệu tham khảo pháp luật nước ngồi tin cậy khi
tìm hiểu chế định BTTHNHĐ.
-

Phạm Kim Anh, Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự, Tạp chí Khoa học

pháp lý, số 3/2003. Trong bài nghiên cứu này, tác giả đã đưa ra quan điểm của mình
về việc xác định yếu tố lỗi trong pháp luật Hình sự và Dân sự là khác nhau. Đồng
thời, tác giả cho rằng yếu tố lỗi phải được xác định theo sự quan tâm của chủ thể, chứ
không phải dựa vào yếu tố nhận thức. Nhóm tác giả thấy rằng, đây là một quan điểm
hay, nhưng vẫn còn một số vướng mắc.
2.3 Nhóm các bài viết trên báo, tạp chí
Phùng Trung Tập (2004), “Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 10: Trong bài viết, tác giả đã nêu quan điểm của
mình về hành vi có lỗi, bản chất của yếu tố lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ, phân
tích mặt khách quan, chủ quan của yếu tố lỗi. Tuy nhiên, bài viết sử dụng BLDS cũ,
do đó khơng có tính áp dụng cao cho thời điểm hiện tại.
Lê Văn Sua (2018), “Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ
luật Dân sự 2015”, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 10: Trong bài viết, tác giả phân tích
kỹ các hình thức lỗi được xác định cụ thể như thế nào và tác động đến việc xác định
trách nhiệm BTTHNHĐ ra sao. Tài liệu này có ích trong việc xác định hình thức lỗi
của các chủ thể.
Hoàng Thị Hải Yến (2012), “Bàn về khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự
ngoài hợp đồng”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 7: Tác giả đã đưa quan điểm của mình

về yếu tố lỗi theo pháp luật của các nước: Pháp, Đức và Anh và phân tích các yếu tố
chủ quan, khách quan của yếu tố này. Đồng thời tác giả đã đưa ra nhận xét về quy
định BTTHNHĐ do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo pháp luật dân sự Việt Nam
liên quan đến yếu tố lỗi của chủ sở hữu.
Tóm lại, có thể thấy hiện nay về vấn đề lỗi, đã có nhiều bài viết phân tích, bình
luận, đánh giá quy định pháp luật và nghiên cứu thực tiễn. Tuy nhiên, các cơng trình

4


nghiên cứu về yếu tố lỗi đã được công bố chủ yếu tập trung phân tích những khía
cạnh, đặc điểm, bản chất của yếu tố lỗi hoặc chỉ dừng lại việc đề cập vai trò của yếu
tố lỗi khi đang phân tích một quy định cụ thể của chế định BTTHNHĐ theo BLDS
năm 2015. Có thể thấy, chưa có bài viết phân tích tồn diện, tổng hợp các vai trị của
yếu tố lỗi trong chế định BTTHNHĐ của BLDS năm 2015. Do đó, việc nghiên cứu
đề tài: “Vai trị của yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015” sẽ giúp tổng quát được vị trí của yếu tố
lỗi trong chế định này, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiến, góp phần kiến nghị
hoàn thiện những quy định của pháp luật và khả năng áp dụng vào vụ án thực tế.
3. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận của yếu tố lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ như:
khái niệm, lịch sử hình thành, đặc điểm, vai trị, ….
Phân tích kỹ càng những vai trị chính của yếu tố lỗi đối với việc xác định trách
nhiệm BTTHNHĐ được BLDS 2015 quy định. Bên cạnh đó giải thích những điểm
cịn gây khó hiểu, gây tranh cãi về vấn đề này. Đồng thời, giải quyết những hạn chế
khi áp dụng các quy định về yếu tố lỗi trong các vụ án thực tế.
Đề xuất một số kiến nghị chung trong việc hiểu các quy định pháp luật, sửa đổi
và bổ sung các quy định về chế định lỗi trong BTTHNHĐ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của BLDS 2015 về vai trò của

yếu tố lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ và thực tiễn giải quyết khi xác định lỗi của
các chủ thể khi một vụ việc phát sinh.
Về phạm vi nghiên cứu:
- Giới hạn pháp luật: Tác giả chỉ nghiên cứu về lỗi của các chủ thể trong trách
nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự.
- Lãnh thổ: Tác giả chỉ nghiên cứu trong phạm vi về vai trò của yếu tố lỗi trong
trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng theo pháp luật Việt Nam. Ngồi ra có để cập
đến các pháp luật của nước ngồi với mục đích so sánh và tham khảo.

5


- Thời gian: Chỉ nghiên cứu trong giới hạn của pháp luật Việt Nam từ giai đoạn
BLDS năm 2015 có hiệu lực đến nay, mặc dù trong khóa luận có đề cập đến một số
văn bản quy phạm pháp luật trước đây nhưng chỉ nhằm mục đích so sánh, đối chiếu.
- Giới hạn nội dung: Khóa luận chỉ phân tích chủ yếu bốn vai trị chính của yếu
tố lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ: là căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ, là
cơ sở xác định chủ thể có trách nhiệm bồi thường, giúp xác định mức BTTHNHĐ và
là tiêu chí để yêu cầu người gây thiệt hại có nghĩa vụ hoàn trả.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra những
giải pháp, kiến nghị để hồn thiện pháp luật, bài nghiên cứu đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
5.1 Phương pháp liệt kê
Phương pháp này sử dụng tại chương 1. Bằng việc chia tách, liệt kê các khái
niệm, thuật ngữ pháp lý, các đặc điểm, vai trò để đi sâu hơn vào các chế định pháp
luật đang nghiên cứu.
5.2 Phương pháp so sánh
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh trong quá trình đưa ra
các quan điểm khác nhau về một vấn đề của các tác giả. Bằng việc so sánh giữa các

quan điểm đó, tác giả rút ra, đúc kết một khái niệm chung nhất, đầy đủ nhất.
Đây là phương pháp nghiên cứu có tính hệ thống, trong từng vấn đề, tác giả tiến
hành so sánh những quy định của pháp luật Việt Nam về chế định lỗi trong
BTTHNHĐ với các quy định của pháp luật nước ngoài. Đồng thời, tác giả cũng so
sánh BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005 với BLDS năm 2015 để xem xét các điểm
mới, phân tích ưu và nhược điểm của BLDS ở từng giai đoạn khác nhau. Theo đó,
tác giả phân tích được nét tương đồng và khác biệt; xem xét những bất cập của pháp
luật Việt Nam thơng qua sự so sánh. Từ đó học hỏi kinh nghiệm và đưa ra hướng
hoàn thiện phù hợp với pháp luật hiện hành.
5.3 Phương pháp bình luận, phân tích
Đây là phương pháp quan trọng và tác giả sử dụng hầu hết trong bài nghiên cứu.
Phương pháp này được tác giả dùng để nghiên cứu các văn bản, tài liệu khác nhau về

6


một chủ đề bằng việc phân tích chúng thành từng bộ phận để hiểu chúng một cách
đầy đủ và toàn diện. Bên cạnh đó tác giả cũng dùng phương pháp này để phân tích
bản án hoặc vụ việc đã được xét xử trong thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề pháp lý cần
nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng nhiều ở mục 2.2, 2.3, 2.4 nhằm bổ sung
luận cứ những bất cập của quy định pháp luật đang hiện hữu để tạo sự thuyết phục
cho quan điểm của tác giả.
5.4 Phương pháp tổng hợp
Sau khi tiến hành phân tích, bình luận bài nghiên cứu sẽ tiến hành tổng hợp của
mỗi tiểu mục để tiện theo dõi và khái quát hóa vấn đề. Tác giả tổng hợp những quan
điểm, những mặt, những thông tin và những kiến nghị đã thu thập được thành một
phần kết luận để tóm tắt, đúc kết những kết quả mà đề tài đạt được. Phương pháp này
được sử dụng nhiều trong phần đưa ra kết luận từng chương và kết luận chung của
khóa luận.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài

Với những kết quả nghiên cứu đạt được, khóa luận sẽ là tài liệu tham khảo đáng
tin cậy cho các học giả, những người học luật, những người công tác trong lĩnh vực
luật.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài mục lục, phần mở đầu, danh mục viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo
và kết luận, khóa luận đề tài “Vai trò của yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015” có kết cấu gồm
hai chương:
Chương 1: Lý luận chung về yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng
Chương 2: Vai trị, bất cập và kiến nghị hoàn thiện yếu tố lỗi trong bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự

7


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ YẾU TỐ LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
BTTHNHĐ là một trong những vấn đề pháp lý lớn và phức tạp. Những sự
kiện pháp lý này thường phát sinh trong đời sống xã hội và là một vấn đề cần được
giải quyết kịp thời nhằm bảo vệ những quyền, lợi ích chính đáng của những người bị
thiệt hại. Để buộc một chủ thể phải chịu trách nhiệm BTTH do hành vi thiệt hại gây
ra, yếu tố lỗi luôn được các học giả cân nhắc xem xét. Tuy nhiên, cách hiểu “lỗi” của
các chủ thể trong quan hệ này hiện nay còn gây nhiều tranh cãi, các học giả đã có
nhiều ý kiến khác nhau khi nghiên cứu về vấn đề này. Vì vậy, trước khi bước vào xác
định vai trị của yếu tố lỗi, cần tìm hiểu khái niệm, đặc điểm và những vấn đề lý luận
khác xoay quanh yếu tố lỗi trong chế định BTTHNHĐ.
1.1. Khái niệm yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng theo pháp luật dân sự
Hiện nay, với sự phát triển vượt bậc của loài người, trong xã hội đã phát sinh

nhiều quan hệ dân sự mới. Nếu như trước đây quan hệ hợp đồng là quan hệ chiếm ưu
thế và rất phát triển, thì nay quan hệ BTTHNHĐ cũng được đánh giá là quan trọng.
Để tìm hiểu sâu hơn khái niệm lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ, trước tiên cần tìm
hiểu thế nào là trách nhiệm BTTHNHĐ?
Trách nhiệm BTTHNHĐ là một loại trách nhiệm dân sự. Hay chúng ta hiểu
trách nhiệm dân sự BTTHNHĐ là một loại trách nhiệm pháp lý, là nghĩa vụ phải gánh
chịu những biện pháp cưỡng chế, áp dụng với người có hành vi vi phạm pháp luật,
xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền
và lợi ích hợp pháp của người khác mà gây thiệt hại và phải chịu trách nhiệm bồi
thường cho người bị thiệt hại1.
Theo quan điểm của một tác giả khác thì: “trách nhiệm BTTHNHĐ là trách
nhiệm dân sự phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó khơng có quan hệ hợp đồng
hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi của người gây thiệt hại không thuộc về
nghĩa vụ thi hành hợp đồng đã ký kết”2.

Hứa Thu Hằng (2014), Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng, Khóa luận tốt
nghiệp, Đại học Luật Hà Nội, tr.11-12.
2
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2009), Giáo trình pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, NXB. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 435.
1

8


Như vậy, có thể thấy trách nhiệm BTTHNHĐ sẽ đặt ra khi quyền, lợi ích hợp
pháp của một chủ thể bị xâm phạm bởi hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại
mà khơng dựa trên bất kì sự thỏa thuận nào trước đó của các bên. Bên cạnh đó, trách
nhiệm BTTHNHĐ khơng chỉ bắt nguồn từ hành vi trái pháp luật của con người, mà
còn bắt nguồn từ tài sản gây ra. Hiện nay, theo BLDS năm 2015, có ba căn cứ làm

phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ: (1) thiệt hại thực tế; (2) hành vi trái pháp luật; (3)
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại thực tế. Tinh thần này
được thể hiện rõ tại khoản 1 Điều 584 BLDS năm 2015:
“Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy
tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải
bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.
Bàn về yếu tố lỗi, hiện nay trong quan hệ dân sự nói chung, quan hệ BTTHNHĐ
nói riêng, các tác giả thừa nhận rằng yếu tố lỗi có vai trị quan trọng trong việc xác
định trách nhiệm dân sự. Bởi lẽ, để áp dụng trách nhiệm dân sự thì cần có sự vi phạm
nghĩa vụ dân sự của con người, mà gắn với hành vi vi phạm này là trạng thái tâm lý
bên trong của họ, biểu hiện rõ nhất trạng thái này là yếu tố lỗi.
Tuy nhiên, pháp luật dân sự Việt Nam chỉ dừng lại việc đề cập và phân loại lỗi
dựa trên ý chí và lý trí mà chưa đưa ra rõ khái niệm “lỗi” trong trách nhiệm dân sự.
Cụ thể tại Điều 364 BLDS năm 2015, yếu tố lỗi được quy định rõ ở hai hình thức lỗi
cố ý và lỗi vô ý:
“Lỗi trong trách nhiệm dân sự bao gồm lỗi cố ý, lỗi vô ý.
Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt
hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn
nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Lỗi vô ý là trường hợp một người khơng thấy trước hành vi của mình có khả
năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc
thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ
khơng xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”.
Đây cũng là quan điểm chung của các nhà làm luật trên thế giới, hiện nay pháp
luật của các quốc gia đều không trực tiếp định nghĩa lỗi làm nguyên tắc chung mà tìm
cách gián tiếp định nghĩa lỗi trong các điều luật, hoặc thông qua việc nêu một danh

9



sách liệt kê các trường hợp vi phạm riêng biệt hoặc bằng các nêu tiêu chí chung cho
lỗi.
Điển hình là pháp luật nước Anh, tại đây không định nghĩa khái niệm lỗi trong
trách nhiệm dân sự, cũng không quy định yếu tố lỗi là một trong các căn cứ làm phát
sinh trách nhiệm BTTHNHĐ. Thay vào đó, pháp luật nước Anh có lồng ghép các
nghĩa vụ chứng minh khơng có lỗi của bên gây thiệt hại vào các trường hợp yêu cầu
BTTHNHĐ cụ thể.3
Trong khi đó, yếu tố “lỗi” đã được định nghĩa, phân tích, đánh giá cụ thể trong
pháp luật hình sự, là một trong những yếu tố tiên quyết để truy cứu trách nhiệm hình
sự. Có thể thấy, khơng chỉ trong pháp luật hình sự, yếu tố lỗi trong pháp luật dân sự
cũng còn nhiều bất cập vướng mắc trong việc xác định và đánh giá trong các vụ việc
trên thực tế. Trong các vụ án, các thẩm phán thường xác định căn cứ pháp lý khác
nhau trong việc xác định có yếu tố lỗi của con người hay khơng, từ đó mà có kết quả
xét xử khơng thống nhất. Sự không thống nhất này xuất phát từ chưa có khái niệm rõ
ràng về yếu tố “lỗi” trong pháp luật dân sự. Vì vậy, xét thấy cần phải định nghĩa đúng
đắn về yếu tố “lỗi” trong trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm BTTHNHĐ
nói riêng.
Dưới góc độ xã hội thì lỗi là biểu hiện quan hệ của một người với xã hội mà nội
dung của nó là sự phủ định chủ quan những quy tắc xử xự chung của xã hội. Dưới
góc độ tâm lý học thì lỗi là phản ánh yếu tố tâm lý của con người, là yếu tố nội tâm
của con người, diễn biến phức tạp và chi phối trực tiếp hành vi của con người4. Dưới
góc độ pháp lý, hiện nay, các tác giả cũng chưa có sự thống nhất quan điểm về khái
niệm yếu tố lỗi. Theo quan điểm của một nhà nghiên cứu thì: “Mặc dù BLDS và Nghị
quyết số 03 khơng quy định “lỗi” là gì nhưng thơng qua định nghĩa “lỗi cố ý” và “lỗi
vô ý” chúng ta có thể thấy một điểm chung là cả hai loại lỗi này đều có “nhận thức”
về thiệt hại của người có hành vi gây thiệt hại”5. Như vậy, trong khoa học pháp lý, đa
số các tác giả đều nhận định lỗi là trạng thái tâm lý bên trong của con người. Nếu dựa

3


Hoàng Thị Hải Yến (2012), “Bàn về khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng”, Tạp chí Tịa
án nhân, Số 7/2012, tr. 31 – 40.
4
Phùng Trung Tập (2009), Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng, NXB. Hà
Nội, Hà Nội, tr.77.
5
Đỗ Văn Đại (Chủ biên) (2016), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam bản án và bình luận bản
án (Tập 1), NXB. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam. Hà Nội, tr.114.

10


vào quan điểm này thì yếu tố lỗi trong trách nhiệm dân sự cũng được xác định giống
với yếu tố lỗi trong trách nhiệm hình sự.
Trái ngược với quan điểm trên, tác giả Phạm Kim Anh lại cho rằng: “Luật dân
sự không thể coi lỗi là trạng thái tâm lý, là nhận thức của chủ thể đối với hành vi và
hậu quả do hành vi đó gây ra”6. Cụ thể, tác giả cho rằng trách nhiệm hình sự và trách
nhiệm dân sự là hai chế định khác nhau, vì vậy không thể xây dựng định nghĩa lỗi
trong trách nhiệm dân sự dựa trên có sở định nghĩa lỗi trong trách nhiệm hình sự mà
cần phải tách bạch hai khái niệm này. Theo quan điểm này thì “lỗi” được hiểu là “sự
quan tâm, chu đáo của chủ thể đối với việc thực hiện nghĩa vụ của mình. Một cá nhân
hay pháp nhân, được coi là khơng có lỗi nếu khi áp dụng tất cả mọi biện pháp để
thực hiện đúng nghĩa vụ đã biểu hiện sự quan tâm chu đáo mà tính chất của nghĩa vụ
và điều kiện lưu thơng dân sự yêu cầu đối với họ.”7
Để dẫn chứng cho quan điểm trên tác giả Phạm Kim Anh đã đưa ví dụ tại khoản
2 Điều 621 BLDS năm 20058 quy định: “Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt
hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, các tổ chức khác trực tiếp quản lý thì
bệnh viện, các tổ chức khác trực tiếp quản lý bệnh viện, các tổ chức khác phải bồi
thường thiệt hại xảy ra”. Và theo đó việc xác định lỗi của bệnh viện hay tổ chức khác
trên không thể dựa trên cơ sở trạng thái tâm lý hay sự nhận thức của các tổ chức đối

với hành vi gây thiệt hại của người này mà lỗi phải được thể hiện qua sự quan tâm
của bệnh viện, tổ chức đối với nghĩa vụ quản lý của họ đối với người mất năng lực
hành vi dân sự.
Về phía tơi, tơi khơng đồng tình với quan điểm của tác giả Phạm Kim Anh.
Chúng ta nên hiểu yếu tố lỗi trong trách nhiệm dân sự là trạng thái tâm lý và sự nhận
thức của một con người cụ thể. Cách định nghĩa yếu tố “lỗi” trong trách nhiệm dân
sự vẫn có thể giống với cách xác định của pháp luật hình sự. Bởi lẽ, dù là trách nhiệm
dân sự hay trách nhiệm hình sự thì yếu tố lỗi vẫn luôn gắn liền với ý thức của một
con người đối với hành vi của mình gây ra dựa trên các quy định pháp luật. Hành vi
của một cá nhân là hệ quả của sự biểu lộ tâm lý của người đó trong một hồn cảnh
khơng gian và thời gian. Do đó, khi xác định lỗi chúng ta dựa trên các tiêu chí chung

Phạm Kim Anh (2003), “Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 03 (18),
tr.32-36.
7
Phạm Kim Anh, tlđd (6), tr.32-36.
8
Nay là Điều 599 BLDS năm 2015.
6

11


về tâm lý học để xác định được trạng thái tâm lý của con người mà không cần phân
biệt yếu tố đó trong hồn cảnh trách nhiệm dân sự hay trách nhiệm hình sự.
Ngồi ra, trong quan điểm thứ hai của tác giả Phạm Kim Anh, theo tôi “sự quan
tâm, chu đáo của chủ thể đối với việc thực hiện nghĩa vụ của mình” cũng là một biểu
hiện của yếu tố nội tâm của con người. Mỗi hành vi trái pháp luật của con người khi
họ có đủ năng lực hành vi dân sự đều gắn liền với thái độ, tâm lý của họ về hành vi
và thiệt hại do hành vi đó gây ra.

Vì vậy, chúng ta nên hiểu lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ giống như quan
điểm của đa số học giải trong pháp lý:
“Lỗi là căn cứ để xác định trách nhiệm dân sự dựa trên trạng thái tâm lý và
mức độ nhận thức của một người đối với hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó
gây ra”.
1.2. Lịch sử yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng
Ngay từ khi xây dựng những BLDS nổi tiếng đầu tiên trên thế giới, các nhà làm
luật đã nhận thấy rằng hành vi trái pháp luật của con người không chỉ do yếu tố bộc
phát bên ngồi mà cịn xuất phát từ yếu tố nội tâm bên trong của họ. Từ đó, mà yếu
tố lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ đã được đưa vào các quy định pháp luật từ lâu.
Vào thời La Mã cổ đại, việc gây thiệt hại về tài sản của cá nhân cũng được pháp
luật quy định trách nhiệm cho người có hành vi trái pháp luật gây ra. Trong đó, yếu
tố lỗi cũng đã được nhắc đến và làm căn cứ để miễn trách nhiệm bồi thường đối với
người đã có hành vi gây thiệt hại. Theo Luật La Mã, lỗi được gọi với cái tên là
(Culpa), được phân chia thành lỗi cố ý (dolus) và lỗi vô ý (culpa)9. Bên cạnh đó, yếu
tố lỗi vơ ý được nhắc nhiều hơn và chủ yếu “lỗi” được coi là một trong những yếu tố
để người gây thiệt hại chứng minh mình khơng có trách nhiệm bồi thường.
Có thể thấy yếu tố lỗi đã được chú trọng từ rất sớm không chỉ trong pháp luật
thế giới mà còn trong pháp luật Việt Nam. Khi những quy định về trách nhiệm dân
sự được hình thành sơ khai tại các thời đại nhà vua, “lỗi” đã được đưa vào như một
yếu tố quan trọng xem xét sự “trừng phạt” đối với chủ thể đã gây thiệt hại cho người
khác. Một trong những bộ luật điển hình đầu tiên cho pháp luật dân sự Việt Nam là
9

Phạm Kim Anh, tlđd (6), tr.32-36.

12



Bộ luật Hồng Đức (hay còn gọi là Quốc triều hình luật). Bộ luật Hồng Đức có nhiều
điểm tiến bộ mà ngày nay vẫn để lại nhiều giá trị cho pháp luật dân sự, trong đó có
quy định về lỗi trong BTTHNHĐ. Theo tinh thần của Bộ luật này, người vi phạm sẽ
có nghĩa vụ phải bồi thường tồn bộ hoặc thậm chí là gấp hai lần nếu họ có lỗi. Ngược
lại, nếu người nào gây ra thiệt hại do sự “lầm lỡ”, thiệt hại xảy ra trong trường hợp
rủi ro hoặc thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của bên bị thiệt hại, thì người đó có
thể được giảm hoặc miễn trách nhiệm bồi thường.10
Tiếp nối tinh thần trên, khi đất nước chúng ta bước sang giai đoạn thống nhất
nền độc lập chủ quyền trên cả hai miền Bắc - Nam, cũng là lúc có sự chuyển biến lớn
trong khoa học pháp lý, trong đó có chế định dân sự. Ở thời kỳ này, cũng đã có những
văn bản hướng dẫn biện pháp giải quyết tranh chấp về BTTH do hành vi trái pháp
luật gây ra. Một trong những văn bản đó là Thơng tư số 173-UBTP ngày 23 tháng 03
năm 1972 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn xét xử BTTHNHĐ (sau đây gọi
tắt là Thông tư số 173-UBTP). Một điểm đánh dấu bước ngoặc tại Thông tư này là
xác định yếu tố lỗi như một trong những điều kiện làm phát sinh nghĩa vụ
BTTHNHĐ: “Phải có lỗi của người gây thiệt hại. Người gây thiệt hại phải nhận thức
hoặc có thể nhận thức được rằng hành vi của mình là trái pháp luật và có thể gây ra
thiệt hại cho người khác: cố ý hay vơ ý đều là có lỗi”11.
Ở văn bản này, yếu tố “lỗi” được đề cập đến là lỗi cố ý và vô ý và dù ở mức độ
lỗi nào thì người có hành vi gây thiệt hại phải có nghĩa vụ bồi thường. Việc quy định
như vậy đã gây ra sự chồng chéo, đối lập ngay trong các điều, khoản của Thơng tư.
Có thể thấy rõ nhất, có những trường hợp khơng có sự tác động về mặt nhận thức hay
hành động của con người để có thể đánh giá tâm lý của họ như: “Bồi thường thiệt hại
do súc vật gây ra”12, thì việc đánh giá có trách nhiệm bồi thường phát sinh khơng thể
xét đến điều kiện thứ tư về “lỗi”.
Không chỉ được đề cập tại Thông tư số 173-UBTP, quan niệm coi yếu tố “lỗi”
là một trong những điều kiện để phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ vẫn được giữ qua
hai BLDS thời kì đầu của nước ta – BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005. Tiếp thu
Phùng Trung Tập (2017), Luật Dân sự Việt Nam (Bình giải và áp dụng) – Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng”, NXB. Cơng an nhân dân, tr.21-23.

11
Khoản 4 Mục A Thông tư số 173-UBTP ngày 23 tháng 03 năm 1972 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng
dẫn xét xử bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
12
Khoản 4 Mục B Thông tư số 173-UBTP ngày 23 tháng 03 năm 1972 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng
dẫn xét xử bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
10

13


tinh thần đã có từ trước, hai bộ luật này đã có quy định giống nhau về nguyên tắc phát
sinh trách nhiệm BTTHNHĐ. Đặc biệt, tại quy định này, yếu tố “lỗi” đã được chú
trọng khi đưa lên ý đầu tiên của câu, như một điều kiện tiên quyết để phát sinh trách
nhiệm BTTHNHĐ:
“Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vơ ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm
phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại,
thì phải bồi thường”13.
Ngồi ra, mức độ và hình thức “lỗi” của người gây thiệt hại cũng được làm rõ
tại hai Bộ luật này. Đặc biệt là quy định hình thức lỗi vơ ý được sử dụng để giảm mức
BTTH: “Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà
gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của minh”14.
Có thể thấy các quy định về chế định dân sự thời kỳ đầu, các nhà làm luật đã
nhận thức được vai trò quan trọng của trạng thái tâm lý của con người khi thực hiện
nghĩa vụ pháp luật. Tuy nhiên, sự đánh giá quá cao này đã gây ra nhiều bất cập trên
thực tế, trong thực tiễn pháp lý dường như các thẩm phán khơng có sự phân biệt rõ
ràng giữa “hành vi trái pháp luật” và “lỗi”. Theo quan điểm một tác giả, họ cho rằng
trên thực tế chưa thấy một bản án nào từ chối yêu cầu BTTH sau khi xác định có
“hành vi trái pháp luật”, “thiệt hại”, “quan hệ nhân quả” và thiếu đi điều kiện về “lỗi”.

Thường thì Tịa án chỉ quan tâm tới ba yếu tố đầu chứ khơng phân tích yếu tố thứ tư.
Trong một số trường hợp, Tịa án có nhân xét là chủ thể “có lỗi” hay “khơng có lỗi”
nhưng lỗi ở đây đã được hiểu theo hướng của hành vi trái pháp luật, chứ không phải
là trạng thái tâm lý, nhận thức của người gây thiệt hại. 15
Tại thời điểm BLDS năm 2005 có hiệu lực đã xuất hiện nhiều vụ việc trách
nhiệm BTTH vẫn phát sinh ngay cả khi người gây thiệt hại khơng có đủ nhận thức về
hành vi gây thiệt hại của mình, điển hình như vụ việc sau: Ơng Thịnh là cơng nhân
nghỉ mất sức. Từ cuối tháng 8 năm 2006, ơng Thịnh có biểu hiện thần kinh không ổn

Điều 609 BLDS năm 1995.
Khoản 2 Điều 604 BLDS năm 2005.
15
Đỗ Văn Đại, Nguyễn Trương Tín, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: Lý luận, thực tiễn và
hướng sửa đổi Bộ luật dân sự”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học về “Chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng: so sánh pháp luật Việt Nam, Hoa Kỳ và Singapore = Business torts: A comparison of the law of
Vietnam, the United States and Singapore, do Khoa Luật Quốc tế Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh tổ chức ngày 15/5/2012 tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.8.
13
14

14


định, gia đình thường xun khóa cổng và trơng coi. Ngày 01/9/2006, ông Thịnh nhảy
qua tường bao quanh ra đường ngõ và chạy đến xưởng mộc của bà Ngào. Ông Thịnh
vào hòm đựng dụng cụ đồ mộc lấy một đục vuông, một kéo sắt chạy ra cửa thấy cháu
Sơn đang ngồi chơi, ông Thịnh dùng đục đâm cháu Sơn một nhát. Thấy vậy, bà Ngào
kêu lên, ông Thịnh xông đến và dùng đục đâm một nhát vào ngực bên phải bà Ngào,
bà Ngào bỏ chạy. Sau đó ơng Thịnh tiếp tục cầm đục, cầm kéo chạy đến số nhà 175
đường Mạc Thị Bưởi đâm bị thương hai người nữa. Sau đó, ơng Thịnh chạy ra đường

và gặp ơng Khang đang đi xe đạp thì ơng Thịnh dùng kéo đâm một nhát vào lưng trái
phía dưới bả vai của ơng Khang. Anh Phương ra can ngăn cũng bị ông Thanh dùng
kéo đâm vào đầu gối bên trái. Toàn bộ 6 người bị thương đã được đi cấp cứu, riêng
cháu Sơn đã chết trên đường đến bệnh viện. Tại phiên tòa bị cáo khai rằng khi thực
hiện hành vi ông không nhận thức được hành vi nguy hiểm của mình, ngồi ra tại Bản
giám định pháp y số 02/2007/PYTT ngày 09/3/2007 của Trung tâm giám định pháp
y tâm thành tỉnh Nam Định cho thấy: “Bị can bệnh rối loạn thần cấp và nhất thời
khác. Khả năng nhận thức hành vi của bị can bị hạn chế”. Tại phần xét xử của mình,
Tịa án cấp phúc thẩm cho rằng việc Tòa án cấp sơ thẩm giảm bớt mức bồi thường vì
cho rằng khi phạm tội bị cáo nhận thức hạn chế. Thay vào đó, Tịa án cấp phúc thẩm
nhận định vì bị cáo khơng có đủ nhận thức nên bị cáo khơng có “lỗi” vì vậy bị cáo
vẫn buộc phải bồi thường tồn bộ thiệt hại.16
Nếu áp dụng một cách cứng nhắc về điều kiện “lỗi” trong BLDS năm 2015 về
trách nhiệm BTTHNHĐ thì trong vụ việc trên ơng Thịnh sẽ khơng có nghĩa vụ phải
bồi thường. Vì vậy, có thể thấy quy định về căn cứ lỗi với tư cách là một cơ sở phát
sinh trách nhiệm bồi thường là sẽ không thể áp dụng trong mọi trường hợp. Do đó
mà quy định này khơng có khả năng áp dụng cao trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
Nhìn nhận được những điểm còn chưa phù hợp của quy định căn cứ phát sinh
trách nhiệm BTTHNHĐ trên, các nhà làm luật khi xây dựng BLDS năm 2015 đã loại
bỏ yếu tố lỗi trong việc xác định nghĩa vụ bồi thường mà chỉ còn ba điều kiện tiên
quyết đó là phải: có thiệt hại thực tế xảy ra, có hành vi trái pháp luật của người gây
ra thiệt hại và tồn tại mối quan hệ nhân – quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại
xảy ra trên thực tế.

16

Bản án phúc thẩm hình sự số 877/2008 ngày 26/11/2008 của Tịa án Phúc thẩm, Tòa án nhân dân tối cao tại
Hà Nội.

15



Theo quan điểm của một số tác giả, sự thay đổi này là hợp lý hơn và đã làm
giảm bớt gánh nặng nghĩa vụ chứng minh cho người bị thiệt hại17. Theo quy định này
thì chỉ cần chủ thể có hành vi gây thiệt hại thì dù có lỗi hay khơng có lỗi, lỗi vơ ý hay
cố ý thì đều phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Ví dụ: Một câu nói đùa trên mạng xã hội nhưng nếu làm lộ thông tin liên quan
đến bí mật đời tư hoặc làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác
thì người đăng bài viết đó sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự, trong đó có trách nhiệm
BTTHNHĐ.
Xét thấy, tinh thần mới về “lỗi” trong BLDS năm 2015 nhằm đòi hỏi trong
hoạt động thực tiễn thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, các chủ thể phải tự
nâng cao ý thức trong công việc tôn trọng các quyền về tài sản và nhân thân của người
khác. Mọi hành vi của một chủ thể đều có thể khiến họ phải gánh chịu những hậu quả
bất lợi về tài sản18.
1.3. Đặc điểm của yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi
hợp đồng
Như đã phân tích, xét về khái niệm, yếu tố lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ có
điểm tương đồng với yếu tố lỗi trong các trách nhiệm pháp lý khác. Kể cả trong trách
nhiệm hình sự, khi so sánh khái niệm lỗi ở trên với định nghĩa lỗi trong luật hình sự
chúng ta thấy về nội dung cơ bản khơng có gì khác nhau19. Tuy nhiên, mỗi trách
nhiệm pháp lý sẽ phản ánh tính chất nguy hiểm của hành vi vi phạm khác nhau nên
yếu tố lỗi cũng có những đặc điểm và vai trị cũng khác nhau. Dựa trên những bản
chất đặc trưng của trách nhiệm BTTHNHĐ, chúng ta có thể rút ra những đặc điểm
sau của yếu tố “lỗi” sau:
Thứ nhất, lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ là yếu tố chủ quan, là trạng thái
tâm lý của con người đối với các nghĩa vụ pháp lý dân sự.
Trong khoa học pháp lý, đặc điểm này được xem là đặc trưng chung của yếu tố
lỗi. Kể cả trong trách nhiệm hình sự hay trách nhiệm dân sự, lỗi đều được nhắc đến
Lê Thị Thúy Hương và Nguyễn Tấn Hoàng Hải, “Một số điểm mới cơ bản của quy định về trách nhiệm bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo BLDS 2015”, Kỷ yếu Hội thảo Những điểm mới của BLDS 2015, Khoa
luật Dân sự - trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.46.
18
Nguyễn Minh Tuấn (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự 2015, NXB. Tư pháp,
Hà Nội, tr.23.
19
Lê Quang Trung (2015), Trách nhiệm dân sự trong các vụ án hình sự xâm phạm quyền sở hữu, Luận văn
thạc sĩ, Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.37.
17

16


như một yếu tố xuất phát từ nội tâm của con người. Người có hành vi vi phạm pháp
luật sẽ bị coi là có “lỗi” nếu như người đó nhận thức được hoặc khơng nhận thức
được nhưng có đủ điều kiện thực tế để nhận thức được tính chất gây thiệt hại của
hành vi và có đủ điều khiển một hành vi khác không gây thiệt hại20.
Dựa trên đặc điểm này, để xác định yếu tố lỗi trong trách nhiệm pháp lý, chúng
ta cần phân định được hai yếu tố: khách quan và chủ quan của sự việc gây thiệt hại.
Trong đó, yếu tố chủ quan là sự tác động của ý chí của con người đối với việc thiệt
hại xảy ra. Còn yếu tố khách quan theo quan điểm của một học giả đó là hồn cảnh,
sự kiện pháp lý nằm ngồi sự kiểm sốt của nhận thức con người, có thể kể đến như:
sự kiện bất khả kháng, sự tác động của bên bị thiệt hại, ….21
Mặt khác có quan điểm cho rằng yếu tố khách quan của sự việc sẽ được tách
bạch nếu chúng ta hiểu rằng hành vi xử sự gây thiệt hại phải là hành đi đã vi phạm
một quy phạm điều chỉnh đã có từ trước. Các thẩm phán Pháp vào những năm đầu
của thế kỷ XX, việc đánh giá con người có lỗi trong khi thực hiện hành vi gây thiệt
hại cần có biện pháp so sánh dựa trên những “tiêu chuẩn trừu tượng”, cần đặt giả
thuyết rằng, trong cùng một hoàn cảnh tương tự, một con người “lý tưởng” với năng
lực nhận thức đầy đủ, với một ý thức pháp luật tốt, một tâm lý ổn định thì người đó

có thực hiện hành vi gây thiệt hại đó hay khơng. Nếu ngồi hành vi gây thiệt hại đó,
họ hồn tồn có khả năng thực hiện một hành vi khác sẽ không gây thiệt hại thì người
đó được xác định có lỗi trong việc gây ra thiệt hại. Nếu bắt buộc họ phải thực hiện
hành vi đó thì được các Thẩm phán xác định là khơng có lỗi.22
Thứ hai, yếu tố lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ là yếu tố được pháp luật quy
định.
Về đặc điểm này, đã có nhiều quan điểm khác nhau, có học giả cho rằng lỗi
trong BTTHNHĐ là lỗi suy đoán23. Điều này càng được khẳng định, bởi hiện nay,
theo khoản 2 Điều 584 BLDS năm 2015 không đề cập đến yếu tố lỗi trong căn cứ xác
định trách nhiệm bồi thường. Vai trò của yếu tố lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ

Vi Ngọc Diệp (2018), Yếu tố lỗi của các vụ tranh chấp trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội, tr. 7,8.
21
Lê Văn Sua (2017), “Bàn về sự kiện bất khả kháng và nguyên tắc suy đoán lỗi tại Bộ luật Dân sự năm 2015”,
Tạp chí Luật sư Việt Nam, (09), tr.7-11.
22
Hồng Thị Hải Yến, tlđd (3), tr.31.
23
Trịnh Tuấn Anh (2016), “Bàn về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng theo Bộ
luật dân sự 2015”, Tạp chí Kiểm sát, (19), tr.38.
20

17


khơng cịn được pháp luật nhấn mạnh trong căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH,
mà chỉ được nhấn mạnh tại khoản 2 Điều 584 BLDS năm 2015 về việc người gây
thiệt hại không phải chịu bồi thường nếu việc gây thiệt hại hoàn toàn do lỗi bên bị
thiệt hại. Như vậy, lỗi ở đây là lỗi suy đoán, tức là người gây thiệt hại ln được suy

đốn là có lỗi và chính người này phải gạt bỏ sự suy đốn đó bằng cách chứng minh
điều ngược lại24.
Nhưng có quan điểm cho rằng, lỗi trong trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
là lỗi do pháp luật quy định trước về hình thức và mức độ. Điều này được lý giải như
sau: Trong trách nhiệm dân sự, điều kiện lỗi không thể thiếu trong việc xác định. Bên
cạnh đó, điều luật đã quy định rõ về hình thức lỗi (Điều 364 BLDS năm 2015 về lỗi
cố ý và lỗi vô ý. Ngoài ra, khi xác định trách nhiệm BTTHNHĐ, cần phải xác định
yếu tố lỗi để có căn cứ quy trách nhiệm cho người có hành vi trái pháp luật – người
có hành vi có lỗi phải BTTH. Bên cạnh đó, cần phải phân biệt những trách nhiệm dân
sự liên quan đến những quan hệ dân sự và những chủ thể nhất định trong quan hệ dân
sự và trách nhiệm dân sự của chủ thể. Việc suy đốn lỗi là khơng cần thiết.25
Theo quan điểm của tơi, thì yếu tố lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ là yếu tố
đã được dự trù và quy định rõ ràng trong pháp luật chứ không phải do suy đoán. Việc
loại bỏ yếu tố lỗi trong khoản 1 Điều 584 BLDS năm 201526, không đồng nghĩa rằng
pháp luật dân sự loại bỏ ý nghĩa của yếu tố này trong việc xác định trách nhiệm bồi
thường, mà xuất phát từ nguyên tắc người gây thiệt hại có trách nhiệm bồi thường
ngay cả khi khơng có lỗi. Có thể thấy rõ, khi xác định trách nhiệm BTTH có phát
sinh, ngoài ba căn cứ tại khoản 1 Điều 584 BLDS năm 2015, chúng ta cũng cần phải
xác định lỗi, bởi lẽ trách nhiệm này sẽ không xảy ra nếu bên gây thiệt hại hồn tồn
khơng có lỗi trong việc gây ra thiệt hại như trường hợp sự kiện bất khả kháng27. Điều
này cho thấy, lỗi của người gây thiệt hại không phải được định sẵn là luôn tồn tại
trong việc gây thiệt hại, mà cần được phải xác định rõ có lỗi hay khơng dựa trên các
quy định pháp luật.

Vi Ngọc Diệp, tlđd (20), tr. 7,8.
Phùng Trung Tập, tlđd (10), tr.79.
26
Khoản 1 Điều 584 BLDS năm 2015: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ
trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.

27
Khoản 2 Điều 584 BLDS năm 2015 có quy định: “Người gây thiệt hại khơng phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của
bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”.
24
25

18


Thứ ba, trách nhiệm BTTHNHĐ phát sinh ngay cả khi khơng có lỗi.
Trong trách nhiệm BTTHNHĐ thì dù người gây thiệt hại có lỗi hay khơng cũng
phải bồi thường vì người gây thiệt hại trước khi tiến hành một công việc nào đấy phải
thấy trước những tác hại có thể xảy ra và phải áp dụng những biện pháp đề phòng.
Đặc điểm này giúp chúng ta phân biệt được yếu tố lỗi trong trách nhiệm
BTTHNHĐ với các trách nhiệm pháp lý khác. Trong trách nhiệm hình sự, yếu tố lỗi
là thành phần bắt buộc trong cấu thành tội phạm, để buộc người phạm tội chịu trách
nhiệm hình sự, người phạm tội cần có lỗi. Tương tự, trách nhiệm dân sự trong hợp
đồng cũng phát sinh khi có lỗi cố ý hoặc vô ý của người không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng hợp đồng. Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt trên là do mỗi quan
hệ pháp luật sẽ phản ánh mức độ quan tâm và điều chỉnh của Nhà nước đối với các
hành vi của người dân. Pháp luật dân sự yêu cầu bên gây thiệt hại phải bồi thường
ngay cả khi khơng có lỗi với mục đích nâng cao trách nhiệm của người dân khi thực
hiện nghĩa vụ phòng chừa và bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của cá nhân, pháp nhân
khác.
Thứ tư, chủ thể phải có nghĩa vụ chứng minh yếu tố lỗi trong trách nhiệm
BTTHNHĐ là người gây thiệt hại.
Nếu như theo quy định tại BLDS năm 2005, người bị thiệt hại muốn yêu cầu
bên gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với mình, họ phải chứng minh
đủ bốn căn cứ: có hành vi gây thiệt hại; có thiệt hại xảy ra trên thực tế; có mối quan

hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại thực tế; và cuối cùng là lỗi của
người gây thiệt hại. Những quy định này trên thực tế đã gây nhiều khó khăn cho người
bị thiệt hại, vì như đã phân tích, yếu tố lỗi là trạng thái bên trong của người gây thiệt
hại, mà trạng thái này chỉ có người gây thiệt hại mới có thể biết rõ và hiểu nhất. Người
bị thiệt hại không thể đánh giá, càng không thể chứng minh một cách triệt để rằng
người gây thiệt hại đang suy nghĩ gì, ý chí của họ như thế nào? Từ đó mà quy định
này đã gây tâm lý “ái ngại” cho người bị thiệt hại khi khởi kiện yêu cầu bên gây thiệt
hại phải chịu trách nhiệm, dần dần các vụ việc gây thiệt hại vẫn xảy ra hàng ngày trên
thực tế nhưng lại không được giải quyết, khơng đảm bảo được quyền và lợi ích hợp
pháp cho người dân.
Từ khi BLDS năm 2015 ra đời, đã khắc phục được bất cập trên, nghĩa vụ chứng
minh lỗi đã được chuyển từ người bị thiệt hại sang người gây thiệt hại. Về nguyên

19


×