Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Khái niệm, giải nghĩa và việc sử dụng thuật ngữ 'vùng dân tộc' và 'vùng dân tộc và miền núi'

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.63 KB, 15 trang )


1
Y BAN DN TC
Viện dân tộc
***








báo cáo chuyên đề

khái niệm, giải nghĩa và việc sử dụng thuật ngữ
VNG DN TC V VNG DN TC V MIN NI






Đơn vị qun lý: Viện Dân tộc
Ngi thc hin: KS. Hong L Nht








8620



H Ni, thỏng 12 nm 2010

2
MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của chuyên đề:
Nghiên cứu các khái niệm, giải nghĩa và sử dụng thuật ngữ về dân tộc,
chính sách dân tộc, vùng dân tộc và miền núi là thật sự cần thiết. Trong thời
kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế việc nghiên cứu các thuật ngữ là rất cần thiết
bởi các thuật ngữ trên được dùng trong công tác quản lý nhà nước, xây dựng
các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc và miền núi.
Công tác nghiên cứu giao dịch, giao lưu văn hóa dân tộc, chuyển giao khoa
công nghệ đều dùng đến các thuật ngữ vùng dân tộc, vùng dân tộc và miền
núi. Trong quan hệ ASEAN và quốc tế vấn đề dân tộc, công tác dân tộc đã đề
cập đến nhiều thuật ngữ để trao đổi kinh nghiệm, trao đổi nghiên cứu lý luận
các chính sách quốc gia và chính sách cụ thể, sử dụng các thuậ
t ngữ về vùng
dân tộc, vùng dân tộc và miền núi để trao đổi thuyết trình
Các lĩnh vực khác nhau như trên báo chí, tạp chí, các bản tin phát thanh và
truyền hình đề cập nhiều đến thuật ngữ “vùng dân tộc” và “vùng dân tộc và
miền núi”.
Trên các văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, các văn bản quản lý hành
chính Nhà nước, trong công tác nghiên cứu đề xuất chính sách dân tộc, trong
hướng dẫn công tác du lịch trong và ngoài nước đều có sử dụng thuật ngữ


Vùng dân tộc, vùng dân tộc và miền núi.
Những lĩnh vực nêu trên để người đọc, người nghe hiểu đúng nghĩa các
thuật ngữ ta thường dùng đối với vùng dân tộc và vùng dân tộc và miền núi là
có sự khác nhau.
Hội thảo quốc tế về dân tộc, luật tục mỗi nước có cách gọi khác nhau nhưng
vẫn hiểu là vùng dân tộc và miền núi.
Ví dụ:

3
Ở Trung Quốc khi nói đến khu tự trị Choang người ta hiểu ngay đó là vùng
dân tộc Choang. Ở Malaysia nói đến vùng dân tộc Ogranatsly người ta hiểu
ngay là vùng miền núi và vùng dân tộc. Ở Myanma khi nói đến vùng dân tộc
Cachil hoặc Bang San người ta hiểu ngay là vùng dân tộc và miền núi.
Ở Việt Nam: Nói đến vùng Tây bắc, vùng Đông bắc người ta hiểu ngay là vùng
miền núi và vùng dân tộc.
Tóm lại việc nghiên cứu, giải nghĩa các thuật ngữ vùng dân tộc, vùng dân
tộc và miền núi là rất cần thiết để
giải nghĩa rằng khi dùng các thuật ngữ người
nghe, người viết, người nói hiểu đúng nghĩa của thuật ngữ sát nhất với thuật
ngữ ở địa phương họ thường dùng .
2. Mục tiêu nghiên cứu của chuyên đề: Nhằm làm rõ khái niệm, giải nghĩa
thuật ngữ và đề xuất việc sử dụng thuật ngữ trong hệ thống văn bản của cơ
quan Nhà nướ
c và các cơ quan làm công tác dân tộc, các cơ quan phát thanh,
truyền hình, báo chí về công tác dân tộc, vùng dân tộc, vùng dân tộc và miền
núi.
3. Nội dung nghiên cứu:
a/ Nghiên cứu hệ thống chính sách dân tộc từ thời kỳ kháng chiến và thời kỳ
thống nhất đất nước, xây dựng CNH và HĐH. Trong quá trình xây dựng chính
sách dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc, kiểm tra thực hiện chính sách dân

tộc ở các địa phương đã sử dụng thuật ngữ, sự hình thành thuật ng
ữ từ thời
điểm nào ? lĩnh vực nào?
b/ Nghiên cứu trên lĩnh vực văn hóa- xã hội:
Các tài liệu thông tin báo chí, các tác phẩm văn học nghệ thuật của TW và
địa phương nói về vùng dân tộc, vùng dân tộc và miền núi. Mức độ người viết,
người nói, người nghe hiểu vùng dân tộc như thế nảo? theo tỷ lệ dân số hoặc
bao gồm miền núi là có dân tộc như một số nơi thường gọ
i.

4
c/ Nghiên cứu về chính sách phát triển kinh tế vùng dân tộc và miền núi, các
chính sách và chương trình chuyển giao kỹ thuật khoa học-công nghệ đã dùng
thuật ngữ vùng dân tộc, vùng dân tộc và miền núi.
d/ Nghiên cứu các cách thức giải nghĩa của từ điển bách khoa tiếng việt, từ
điển bách khoa nông nghiệp, từ điển Việt Anh, từ điển Việt –Nga và từ điển
Nga - Việt, để xem xét cách giải nghĩa từ ng
ữ và thuật ngữ liên quan đến vùng
dân tộc, vùng dân tộc và miền núi.
4. Phương pháp nghiên cứu:
a/ Tổng hợp, phân tích các loại hình nghiên cứu, khái quát các loại hình, từ
ngữ, thuật ngữ về vùng dân tộc, vùng dân tộc và miền núi qua các thời kỳ khác
nhau ở cơ quan TW và ở các địa phương, ở các nước trong khu vực ASEAN và
thế giới.
b/ Tổng hợp phân tích lý giải, luận giải cách dùng từ ngữ, thuật ngữ qua các
từ điể
n thường dùng để giải thích thuật ngữ vùng dân tộc, vùng dân tộc và miền
núi để so sánh và kế thừa.
- Phương pháp chuyên gia. Chuyên đề đã xây dựng mẫu phiếu tham vấn ý
kiến của 5 chuyên gia khác nhau quan niệm về thuật ngữ “cán bộ làm công tác

dân tộc” là gì?
5. Kinh phí thực hiện nghiên cứu. 3.000.000.đ (Ba triệu đồng)








5
Phần I
TỔNG QUAN CÁC NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
VỀ THUẬT NGỮ “VÙNG DÂN TỘC” VÀ “VÙNG DÂN TỘC VÀ
MIỀN NÚI”


1. Khái niệm và giải nghĩa “thuật ngữ”
Định nghĩa: Thuật ngữ là một từ, một tập hợp từ chỉ rõ một sự việc, một
sự vật, một vùng địa lý, một vùng dân cư ( làng, bản, huyện, tỉnh, một quốc
gia) diễn đạt một ý nghĩa riêng biệt hoặc ý nghĩa các vùng như nhau.
Ví dụ: vùng Tây Bắc, vùng Đông Nam của một địa điểm được xác đị
nh
để nghiên cứu trên bản đồ hoặc các vùng miền trong một quốc gia, vùng dân
tộc Tây bắc hoặc vùng dân tộc Kh’mer
Cách hiểu thông thường của thuật ngữ trong từ điển là giải nghĩa của
thuật ngữ đó để đo đạc hoặc chỉ sự biến đổi của sự vật. Xin nêu ví dụ trang 89
từ điển bách khoa Nông nghiệp (XB1991)
-Thuật ngữ: “Cải tạo rừng”: Biệ
n pháp lâm sinh học tổng tác động trực

tiếp vào cấu trúc rừng, điều tiết tổ thành rừng, điều tiết mật độ hợp lý để tận
dụng triệt để không gian dinh dưỡng phát huy tiềm năng điều kiện lập địa phục
vụ cho một mục tiêu kinh doanh nhất định. Phương hướng cải tạo rừng nhiệt
đới tự nhiên hỗn loài khác tuổi là đơn giả
n hóa tổ thành và giảm sự chênh lệch
cấp tuổi giữa các thể trong quần thể cây rừng
-Thuật ngữ Calo (việt tắt Cal) đơn vị đo lường tương đương 4,1868J
nhiệt lượng cần thiết để làm tăng nhiệt độ của một gam nước lên một độ bách
phân dưới áp suất khí quyển bình thường, người ta còn dùng đơn vị >1.000 lần
gọi là kiloko (viết tắt là Kcal), 1 Kcal = 1.000 calo
- Trong từ đi
ển Anh -Việt:
May: Tháng năm, cây táo gai.
Mastery: Quyền lực, quyền làm chủ, ưu thế, thế thắng lợi

6
Qua các ví dụ trên đây ta thấy thuật ngữ hàm chứa một lượng thông tin
hiểu biết thông tin cần thiết cho người biết người nghe, người nói, người đọc
hiểu thuật ngữ đó trong một phạm vi nhất định của sự vật hay sự việc.
Theo quan niệm và cách hiểu của chuyên gia, nhà khoa học khi dùng
thuật ngữ để giải thích một vấn đề, một sự kiện sử dụng thuật ng
ữ đó theo ý
tưởng của người cần diễn đạt.
Khi nói về vùng dân tộc Chăm trong đó có dân tộc Raglay và Chămroi
được hiểu là vùng dân tộc của cả ba dân tộc, đồng thời hiểu về vùng dân tộc và
miền núi theo nơi cư trú của các dân tộc ở cả miền núi và đồng bằng.
2. Tổng quan nghiên cứu và sử dụng thuật ngữ “vùng dân tộc” và
“vùng dân tộc và miền núi”.
Nghiên cứu các bài viết, các công trình nghiên cứu có liên quan về
thuật

ngữ ở cộng đồng 54 dân tộc nước ta, có quá trình lịch sử gắn bó lâu đời trong
tiến trình dựng nước và dữ nước. 53 dân tộc thiểu số cứi trú trên ¾ diện tích
của quốc gia là vùng “phên dậu” của đất nước. Trong thời đại Hồ Chí Minh
dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước phấn đấu cho sự bình đẳng đoàn kết
tương trợ cùng phát triển, xây dựng nước ta tiế
n lên CNH – HĐH đất nước.
2.1. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, cộng đồng các dân tộc nước
ta chịu sự thống trị của chế độ phong kiến và thực dân Pháp. Chính sách dân
tộc thời kỳ đó là chia rẽ các dân tộc để cai trị. Các dân tộc Tây nguyên và Miền
trung gọi là người thượng, các dân tộc phía Bắc được gọi là Mường, Mán,
Mèo, Thổ Các vùng dân tộc đói nghèo và lạc hậu. Đế quốc Pháp ý thức được
việ
c phân vùng theo dân tộc để dễ cai trị như: “Xứ Thái tự trị” “Xứ Mèo tự trị”
“Xứ Mường tự trị”. Trước năm 1975 ở Miền nam Việt nam có vùng người
Thượng (chỉ các dân tộc thiểu số ở thượng lưu các con sông trên miền núi
Trường sơn. Chế độ phong kiến đế quốc Pháp, Mỹ tiếp tục phân vùng các dân
tộc nhỏ hơn để dễ cai trị.

7
2.2. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945.
Chính sách dân tộc, phân vùng dân tộc nhằm mục đích tôn trọng sự bình
đẳng, xây dựng tình đoàn kết tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển. Đảng và
Nhà nước chăm lo đến lợi ích đồng bào các dân tộc thiểu số trong yêu cầu
chung của sự phát triển của cả nước và hội nhập quốc tế đưa nước ta phát triển
theo định hướng phát triển XHCN, trong cơ chế thị trường phát huy mọ
i tiềm
năng tài nguyên thế mạnh các vùng để xây dựng đất nước.
2.3. Sự hình thành các thuật ngữ “vùng dân tộc” và “vùng dân tộc và
miền núi”:
Vùng dân tộc, vùng dân tộc và miền núi được hình thành sau năm 1975

khi thống nhất đất nước, rõ nét nhất là thập kỷ 80, 90 của thế kỷ XX đến nay,
trong hệ thống chính trì xã hội nước ta.
Sự thay đổi tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc có ảnh hưởng lớn đến
sự xuất hi
ện các thuật ngữ “vùng dân tộc, vùng dân tộc và miền núi”, vùng
miền núi, có thể nêu một số thời điểm điển hình sau:
- Thập kỷ 80 của thế kỷ XX sự ra đời cuả Nghị quyết 22/ NQ- TW ngày
27 tháng 11 năm 1989 của Bộ Chính trị khóa VI và quyết định số 72/ HDBT
ngày 13 tháng 3 năn 1990 của Hội đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ “ về một
số chủ chương chính sách lớn phát triển KT- XH miền núi” xuất hi
ện thuật ngữ
miền núi được hiểu là vùng dân tộc. Trước đó từ năm 1946 đến năm 1975 đã sử
dụng thuật ngữ vùng cao có nghĩa là vùng dân tộc. Đến thập kỷ 80 và 90 của
thế kỷ XX vùng cao, biên giới, vùng sâu, vùng xa, cũng đồng nghĩa với vùng
dân tộc, vì các vùng trên chủ yếu là các dân tộc thiểu số sinh sống.
- Thực hiện Quyết định 72 của Chính Phủ Ủy ban Dân tộc được gọi là
Ủy ban Dân tộc và miền núi. Tiếp sau đó là các quyết định số 21/UB – QD
ngày 26/1/1993; quyết định số 33/UB–QD ngày 04/06/1993; quyết định số
08/UB–QD ngày 04/03/1994; quyết định số 64/UB–QD ngày 26/08/1995;

8
quyết định số 68/UB–QD ngày 09/08/1997 của Bộ trưởng chủ nhiệm UBDT và
Miền núi “ về việc công nhận các xã, huyện tỉnh là huyện miền núi, vùng cao”
- Thông tư số 41/UB-TT ngày 8/01/1996 của UBDT và miền núi “ qui
định và hướng dân thực hiện tiêu chí tứng khu vực ở vùng dân tộc và miền núi.
- Sau khi có ý kiến của Bộ Kế hoach và đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn và Ủy ban Dân tộc và Miền núi tại công văn số
2974 / DDP1 ngày 13/6/1997 Thủ thưởng chính phủ
đã có ý kiến đồng ý cho
Ủy ban Dân tộc và Miền núi vận dụng tiêu chí 3 khu vực miền núi, vùng cao

(tại thông tư 41 / UB–TT để phân định vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa cách
mạng, nơi đồng bào Kh’mer, đồng bào Chăm và các dân tộc thiểu số khác ở
đồng bằng tại các tỉnh phía Nam phân loại khu vực I; II; III lấy trình độ phát
triển để phân loại.
- Quyết định số 21/1998/QD – UBDT và MN ngày 25/02/1998 của Bộ
trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc và Miề
n núi “ về việc công nhận 3 khu vực
vùng đồng bằng.
- Như trên đã nêu việc hình thành thuật ngữ: Vùng dân tộc, vùng dân tộc
và miền núi ở miền núi, ở đồng bằng cách hiểu và phạm vi đối tượng là vùng
có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Ở Việt Nam khi nói đến thuật ngữ miền
núi đã bao hàm cả vùng dân tộc (như nghị quyết 22, quyết định 72 đã nêu ở
trên).








9
Phần II
KHÁI NIỆM, GIẢI NGHĨA VỀ THUẬT NGỮ
“VÙNG DÂN TỘC, VÙNG DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI”


1. Nghiên cứu tình hình sử dụng thuật ngữ trong cơ quan làm công
tác dân tộc.
Nghiên cứu hoàn cảnh sử dụng thuật ngữ có thể chia làm ba thời kỳ.

Trước cách mạng tháng 8/1945 vùng dân tộc gọi theo miền đất ở (địa lý) của
từng dân tộc như xứ Thái, xứ Mèo, xứ Thổ, vùng người thượng ở phía Nam.
Sau cách mạng tháng 8/1945 đến 30/4/1975 ở miền bắc vùng dân tộc
được gọi theo vùng địa lý và tên gọi địa phương như
“khu tự trị Việt Bắc”
(vùng Đông Bắc); “khu tự trị Thái Mèo” gọi theo tên hai dân tộc chiếm số đông
trong vùng Tây Bắc). Ở các tỉnh phía nam gọi theo vùng địa lý và vùng dân tộc
có số đông ở địa phương như: Vùng Tây nguyên, vùng người Thượng, vùng
người Chăm.
Từ 30/04/1975 đến nay đã xuất hiện thuật ngữ vùng theo địa lý được
hiểu là vùng dân tộc như vùng Tây bắc, vùng Đông bắc, miền Tây của Bắc
trung bộ, Tây nguyên, Tây nam bộ, miền núi các tỉnh dọc miền trung là vùng
dân tộc.
Thời kỳ đổi mới thập kỷ 80 của thế kỷ XX xuất hiện vùng dân tộc bao
gồm ở các tỉnh miền núi và ở đồng bằng, miền núi là vùng dân tộc như đã dảng
giải ở trên theo văn bản pháp qui của Đảng và Nhà nước. Cơ quan làm công tác
dân tộc được gọi theo thuật ngữ là Ủy ban Dân tộc và Miền núi.
Nh
ư vậy các thuật ngữ trên xuất hiện và được các cơ quan xử dụng và
ngầm hiểu để chỉ một không gian, gắn với nơi sinh sống của cộng đồng các dân
tộc thiểu số. Thực chất không có nghiên cứu, đưa ra tiêu chuẩn nào cụ thể.
Nhưng có một đặc điểm chung là đều chỉ nơi mà các dân tộc thiểu số sinh sống
thành cộng đồng (tồn tại không gian về
văn hóa, thôn bản và các mối quan

10
hệ ). trên một diện tích, không gian tương đối rộng, không thể một vài hộ, hay
một vài thôn, hoặc một xã mà gọi là vùng dân tộc. Không có tiêu chí cụ thể nào
đưa ra, nhưng người sử dụng ở đây từ trước đến nay vẫn ngầm hiểu là như vậy.
Còn vùng dân tộc và miền núi cũng vậy, chưa có một chuẩn mực nào,

nhưng người dùng vẫn ngầm hiểu đó là không gian sinh sống của các dân tộc
thi
ểu số ở miền núi (miền núi bao gồm các tỉnh, huyện, xã đã được quy định
trong các văn bản quản lý nhà nước).
Để hiểu đúng nghĩa của các thuật ngữ này, là cả một quá trình nghiên
cứu và đưa ra những căn cứ khoa học. Có tiêu chí rõ ràng, Ví dụ: Tỷ lệ bao
nhiêu người, bao nhiêu xã, hay diện tích rộng bao nhiêu thì được gọi là vùng
dân tộc
Chính vì chưa có một chuẩn hóa nào, nên việc sử dụng các thuật ngữ trên
có thể
có nhiều cách hiểu khác nhau, tùy thuộc vào kinh nghiệm công tác, thời
gian tiếp cận trong lĩnh vực này.
2. Quan niệm của các chuyên gia về 2 thuật ngữ trên.
Trong quá trình nghiên cứu, chuyên đề đã xây dựng mẫu phiếu xin ý
kiến của các chuyên gia quan niệm về thuật ngữ trên. Cụ thể là:
- Theo PGS.TS. Khổng Diễn, nguyên Viện trưởng Viện Dân tộc học.
“Vùng Dân tộc là tỉnh, huyện, xã có trên 50% người dân tộc thiểu số sinh sống
tập hợp l
ại thành vùng” và “Vùng dân tộc thiểu số và miền núi chỉ tất cả các
dân tộc thiểu số sinh sống ở đó và kể cả người kinh”
Như vậy theo Phó Giáo sư, vùng dân tộc cần có tiêu chí trên 50% dân tộc
thiểu số sinh sống; nhưng vùng dân tộc và miền núi không cần đưa ra tiêu chí
cụ thể.
- Theo Ths. Nguyễn Lâm Thành, Vụ trưởng Vụ địa phương I, Ủy ban
Dân tộc: “Vùng Dân tộc thiểu số theo từng ng
ữ cảnh mà xác định nó ở các
quy mô khác nhau có thể liên xã, liên huyện, liên tỉnh dựa trên tiêu chí xác định

11
cụ thể về qui mô dân số dân tộc thiểu số trên địa bàn” và “vùng dân tộc thiểu

số và miền núi là chỉ người dân tộc sống ở các tỉnh, huyện, xã miền núi, còn
tiêu chí bao nhiêu % thì hoàn toàn chưa có cơ sở để xác định.
Theo quan điểm của đồng chí Lâm Thành, để xác định thế nào là vùng
dân tộc, tiêu chí bao nhiêu % cần phải có nghiên cứu, đánh giá khoa học. Bước
đầu có thể đưa ra ý kiến để trao đổi, tham khảo là, xác
định vùng dân tộc thiểu
số nên lấy xã làm đơn vị xác định. Nếu trên địa bàn có 2/3 số xã dân tộc, thì có
thể gọi đấy là vùng dân tộc. Tôi cho rằng, đây cũng là một ý kiến hay, gợi mở
cho những nghiên cứu, và kiến nghị quan trọng về vùng dân tộc thiểu số.
- Theo tiến sĩ, Trần Văn Thuật, nguyên Vụ trưởng Vụ Chính sách dân
tộc: Cho rằng. Không nên ghép 2 thuật ngữ “vùng dân tộc” và “miền núi” vào
một. Vì
đây là hai thuật ngữ riêng, sử dụng với ý nghĩa khác nhau, nếu gộp làm
một, khi sử dụng có thể sẽ gây hiểu nhầm, vì ở nước ta có nhiều dân tộc không
sống ở miền núi.
Tôi cho rằng đây cũng là một trong những quan điểm, ý kiến xác thực,
cần nghiên cứu, xem xét để chuẩn hóa trong hệ thống văn bản pháp quy của các
cơ quan làm công tác dân tộc.
- Theo TS. Hoàng Hữu Bình, Phó Hiệu trưởng trường Đ
ào tạo cán bộ
của Ủy ban Dân tộc có quan điểm khá rõ ràng về vùng dân tộc
Ông cho rằng: Vùng dân tộc thiểu số là khái niệm chỉ vùng (địa bàn) có
đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Nó bao gồm các tỉnh, huyện, xã
hoặc thôn bản có trên 50% dân số là người dân tộc thiểu số. Với quan niệm
này, tôi cho là rất cụ thể, tác giả mạnh dạn đưa ra tiêu chí trên 50% là người
dân tộc thiểu số sống trên địa bàn. Tuy nhiên
ở đây lấy đơn vị thôn bản làm căn
cứ để xác định, dường như không phù hợp lắm với quan niệm “vùng”. Vì khi
nói đến vùng, xét về mặt địa lý, người ta thường nghĩ đến môt không gian rộng,


12
mặc dù chưa có quy chuẩn, nhưng nếu ở phạm vi hẹp, như thôn, bản thì thường
hay dùng là “nơi”, hoặc chỉ tên đích danh cụ thể
Tiến sĩ cũng quan niệm “vùng dân tộc và miền núi” là khái niệm kép,
thực ra nếu dùng cụm từ này sẽ rất khó xác định. Vì ở miền núi có nơi có dân
tộc, nhưng cũng có nơi chỉ có người kinh sinh sống. Ngược lại ở vùng đồng
bằng có nơi có nhi
ều người dân tộc sinh sống như: Chăm, Khmer, Hoa Vì
vậy trong khi sử dụng, không nên dùng thuật ngữ này, sẽ khó xác định, đôi khi
gây nhầm lẫn.
- Theo đồng chí Hà Quế Lâm, Nguyên Vụ trưởng Vụ Chính sách dân
tộc, Uỷ ban Dân tộc có quan điểm như sau:
Ông quan niệm “vùng dân tộc thiểu số” là mà những tỉnh huyện xã ở đó
có đủ điều kiện thành lập cơ quan làm công tác dân tộc chuyên trách, nơi cư
trú, mộ
t phần của xã, huyện, một tỉnh hoặc nhiều tỉnh có trên 50% người dân
tộc thiểu số sính sống. Với quan niệm này tôi cho rằng rất sát với một số chỉ
tiêu về thành lập cơ quan công tác dân tộc và một số tiêu chí về vùng núi, vùng
cao, đây cũng là những tiêu chí rất cụ thể. Xong về tiêu chí lấy thôn, bản và xã
làm tiêu chí thì chưa phù hợp lắm vì khi nói đến vùng là cần có một không gian
khá rộng và là một địa bàn địa lý c
ụ thể xác định.
Ông cũng có quan điểm “miền núi” là bao gồm các tỉnh Đông Bắc, Tây
Bắc, Tây Nguyên, Duyên hải Miền trung, phía Tây các tỉnh khu 4 cũ và một số
tỉnh Đông Nam Bộ và là các tỉnh đã có tiêu chí xác định miền núi của cơ quan
nhà nước.
Về quan điểm “vùng dân tộc và miền núi” ông cho rằng“miền núi ”
được hiểu là vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam, miền núi chủ yếu là các dân tộc
thiểu s
ố sinh sống.


13
Về quan điểm sự khác biệt giữa “vùng dân tộc” và “vùng dân tộc và
miền núi”, Ông cho rằng miền núi Việt Nam có thể gọi là vùng dân tộc và miền
núi hoặc ngược lại.
3. Khái niệm, giải nghĩa hai thuật ngữ
Để có thể hiểu một cách khoa học vùng dân tộc là gì, chúng tôi cho rằng
đây là thuật ngữ khoa học, đòi hỏi phải có sự đầu tư, nghiên cứu, hội thảo rộng
rãi. Tuy nhiên trong khuôn khổ nghiên cứu này, bướ
c đầu chúng tôi mạnh dạn
đưa ra quan niệm như sau.
- Vùng dân tộc
: (ở đây hiểu là vùng dân tộc thiểu số)
Được hiểu là nơi tồn tại không gian sinh sống của cộng đồng các dân
tộc thiểu số, không kể đến số lượng hay tỷ lệ dân cư.
Tồn tại không gian sinh sống, là giá trị cốt lõi, quan trọng nhất. Vì để tồn
tại được không gian sinh sống, đòi hỏi phải có số lượng dân tộc đủ lớn để tạo ra
mố
i quan hệ về văn hóa, xã hội của cộng đồng dân tộc thiểu số và có những
điều kiện tự nhiên thiết yếu để đảm bảo tồn tại sự sống của con người
Như vậy có thể hiểu vùng dân tộc bao gồm cả miền núi và cả đồng bằng
như vùng kh’mer, Chăm, Hoa. Đối với miền núi ở các tỉnh phía Bắc và miền
trung được hiểu là các vùng dân tộ
c dù gọi theo địa lý hay gọi theo dân tộc thì
người ta vẫn hiểu là vùng dân tộc như Tây Bắc, Đông Bắc, Tây nguyên, Tây
Nam bộ.
- Vùng dân tộc và miền núi
: Được hiểu là nơi cư trú của các dân tộc
thiểu số ở miền núi. Còn hiểu thế nào là miền núi đã được các văn bản quy
phạm pháp luật quy định cụ thể các tỉnh, huyện xã là miền núi. Tuy nhiên gọi

theo tên địa dư hành chính đối với người Việt nam vẫn hiểu là vùng dân tộc
như các tỉnh Trà Vinh. Sóc Trăng là hai tỉnh có nhiều dân tộc Kh’mer, kể cả
các tỉnh Bạc liêu, Cà mau, Kiên giang có dân tộc Kh’mer, dân tộ
c Hoa sinh
sống cũng có thể gọi là tỉnh dân tộc.

14
Có lẽ đây là thuật ngữ không nên sử dụng nhiều, vì sẽ có thể gây ra hiểu
nhầm, hoặc không rõ nghĩa.


Phần III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ SỬ DỤNG THUẬT NGỮ
“VÙNG DÂN TỘC, VÙNG DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI” TRONG
CÔNG TÁC DÂN TỘC


1. Đề xuất: Vùng dân tộc là danh từ khá chung chung, khó có thể lượng
hóa được. Vì vậy trong quản lý nhà nước, để chỉ những đối tượng cụ thể có thể

gọi theo các quan niệm sau:
- Gọi vùng dân tộc theo tên dân tộc thiểu số cư trú:
+ Vùng dân tộc Kh’mer
+ Vùng dân tộc Chăm
+ Vùng dân tộc Mông
+ Vùng dân tộc Mường
- Gọi vùng dân tộc theo địa lý hành chính:
+ Vùng dân tộc Tây Bắc
+ Vùng dân tộc Tây Nguyên
+ Vùng dân tộc Tây Nam Bộ

- Một số trường hợp dùng tên địa lý hành chính được hiểu là vùng dân
tộc như:
+ Tỉnh Hà Giang
+ Tỉnh Lai Châu
+ Tỉnh Cao Bằng
- Gọi theo cả vùng dân tộc và địa lý: Là vùng dân tộc và miền núi được
hiểu là các dân tộc ở miền núi.

15
2.Kiến nghị: Nên sử dụng thống nhất các thuật ngữ.
- Vùng dân tộc: Chỉ cả ở vùng đồng bằng và miền núi
- Gọi vùng dân tộc theo dân tộc và tộc người: Vùng dân tộc Chăm, Vùng
dân tộc Thái ( gồm tên dân tộc là từ chính trong thuật ngữ)
- Đối với thuật ngữ “Vùng dân tộc và miền núi” nên hạn chế sử dụng. Có
thể sử dụng các thuật ngữ cụ thể, cho dễ hiểu: Các dân tộ
c thiểu số ở vùng thấp,
vùng cao, vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa cho mà vẫn được hiểu là vùng dân
tộc.




















×