Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm tnds và bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty bảo minh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.35 KB, 63 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử hình thành và phát triển của ngành bảo hiểm thì bảo hiểm xe cơ
giới ra đời khá sớm. Ban đầu bảo hiểm xe cơ giới chỉ đơn thuần là bảo hiểm tự
nguyện của các chủ xe. Sau này do quy định bắt buộc của nhà nước thì bảo hiểm
TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba mới được phát triển một cách rộng
rãi. Ngày nay, mức sống của người dân đã được nâng cao, rủi ro sẽ khiến cho cuộc
sống của họ trở lên khó khăn, hoạt động kinh doanh bị gián đoạn. Do đó mà các loại
nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau ra đời để đáp ứng nhu cầu của thị trường, trong đó
có bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Vì vậy, hiện nay nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới
khơng ngừng phát triển là địi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường do những
vai trò và tác dụng to lớn của nó.
Đồng thời, nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới cũng là một trong những thế mạnh
của Công ty Bảo Minh Hà Nội. Hàng năm, nghiệp vụ bảo hiểm này ln đóng góp
trên 30% trong tổng doanh thu tồn cơng ty. Chính vì vậy mà Cơng ty Bảo Minh Hà
Nội không ngừng lớn mạnh và cũng luôn coi nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới là một
trong những nghiệp vụ chủ chốt của mình.
Sau khi gia nhập WTO, các cơng ty bảo hiểm nước ngồi được phép hoạt
động kinh doanh ở Việt Nam trên nhiều lĩnh vực khác nhau khiến cho cạnh tranh
trên thị trường trở lên gay gắt hơn. Trong quá trình hội nhập này, sự bảo hộ của nhà
nước giảm xuống, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải có sự sáng tạo và đổi
mới trong kinh doanh của từng nghiệp vụ trong việc phát triển thị trường bảo hiểm
nói chung và bảo hiểm xe cơ giới nói riêng.
Trước thực tiễn này, em quyết định chọn đề tài: “ Phân tích thực trạng hoạt
động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm TNDS và bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại
Công ty Bảo Minh Hà Nội_ Kiến nghị và giải pháp”
Với sự giúp đỡ của PGS.TS Nguyễn Văn Định và cán bộ phòng khai thác bảo
hiểm số 7 thuộc Công ty Bảo Minh Hà Nội, em đã quyết định chọn đề tài này với
mục đích tìm hiểu và hồn thiện kiến thức của mình về nghệp vụ bảo hiểm xe cơ
giới.




2

Kết cấu của đề tài bao gồm:
*

Lời mở đầu

*

Chương I: Lý luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm TNDS và bảo

hiểm vật chất xe cơ giới.
*

Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm

TNDS và bảo hiểm xe cơ giới tại Công ty Bảo Minh Hà Nội.
*

Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển nghiệp vụ bảo

hiểm TNDS và bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Bảo Minh Hà Nội.


3

CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO
HIỂM TNDS VÀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI

I. Sự cần thiết khách quan và tác dụng của bảo hiểm xe cơ giới.
1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm xe cơ giới.
Ngành giao thơng vận tải đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
mỗi quốc gia. Đặc biệt cùng với sự phát triển ngày càng cao của khoa học kỹ thuật,
các phương tiện sử dụng trong ngành giao thông vận tải cũng được cải tiến và ngày
càng phát triển hơn. Ban đầu là những phương tiện giao thông vận tải thô sơ, đến
nay chúng ta đã có những phương tiện giao thơng vận tải hết sức hiện đại với tốc độ
di chuyển lên tới hàng trăm kilômét một giờ như: máy bay, tàu hoả, ôtô, tàu thuỷ,…
Điều đó đã khiến cho sự ngăn cách về địa lý trở nên nhỏ hẹp hơn, thúc đẩy sự phát
triển chung của xã hội loài người, đặc biệt khi xu hướng phát triển trên thế giới hiện
nay là xu hướng “ tồn cầu hố”. Tuy nhiên sự phát triển nhanh chóng của các
phương tiện giao thơng vận tải trong khi cơ sở hạ tầng lại chưa được xây dựng để
đáp ứng với quy mơ gia tăng đó. Trong khi đó đặc điểm của các phương tiện giao
thơng là có tốc độ cao dẫn đến các tai nạn giao thông xảy ra ngày một nhiều với quy
mô và mức độ nguy hiểm ngày càng cao, mức độ tổn thất ngày càng lớn, đơi khi có
tính thảm hoạ. Có thể nói những vụ tai nạn máy bay, tàu tốc hành là những ví dụ
điển hình về tai nạn giao thơng hiện nay. Ngoài ra các rủi ro khác như trộm cắp, sự
cố kỹ thuật, thiên tai,… cũng là điều không tránh khỏi của ngành giao thơng vận tải.
Chính vì vậy các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới ra đời và được xem là một biện
pháp hữu hiệu nhất hiện nay.
Khi những rủi ro bất ngờ xảy ra với phương tiện vận tải, chủ phương tiện
không những phải chịu những thiệt hại vật chất do phương tiện của chính mình bị
hư hỏng hay mất mát, mà có thể cịn phải chịu những thiệt hại về người và của do
phương tiện của mình gây ra cho người thứ 3. Do đó nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới
ra đời là một tất yếu.


4

2. Tác dụng của bảo hiểm xe cơ giới.

Trên thị trường bảo hiểm thế giới cũng như thị trường bảo hiểm ở Việt Nam
hiện nay tồn tại rất nhiều các nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau. Tuy nhiên, Việt Nam
là một nước đang phát triển, kéo theo sự phát triển của các phương tiện giao thông
vận tải do phương tiện vận tải công cộng chưa đáp ứng hết nhu cầu của người dân.
Xe cơ giới ở đây có thể hiểu là tất cả các loại xe tham gia giao thông trên đường bộ
bằng động cơ của chính chiếc xe đó, bao gồm ơtơ, mơtơ và xe máy. Do đó việc sử
dụng phương tiện giao thông vận tải hết sức phức tạp và khó khăn. Vì vậy, để đảm
bảo cuộc sống cũng như quyền lợi của người dân thì các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ
giới đóng vai trị hết sức quan trọng và có tác dụng hết sức to lớn.
Thứ nhất: Góp phần đề phịng hạn chế tổn thất do tai nạn giao thông.
Trong thực tế bảo hiểm thực hiện các hoạt động giám sát tổn thất quan trọng
nhằm đề phòng, hạn chế tổn thất xảy ra. Điều này xuất phát từ chính lợi ích của các
nhà bảo hiểm nhằm giảm thiểu số tiền phải bồi thường nhưng đồng thời cũng đem
lại lợi ích chung cho tồn xã hội, ngăn ngừa tổn thất, những lãng phí vật chất do rủi
ro gây nên. Với số phí thu được từ các chủ xe tham gia, cơng ty bảo hiểm lập quỹ
ngồi mục đích chính là để bồi thường cho xe cơ giới khi co rủi ro xảy ra, còn được
sử dụng cho mục đích đề phịng hạn chế tổn thất. Những tai nạn thường xảy ra do
chất lượng của cơ sở hạ tầng thấp: đường xá, đê, đèo,… đã được các công ty bảo
hiểm đầu tư hàng trăm tỷ đồng để xây dựng đường lánh nạn, đường phụ, hốc cứu
nạn,… đã hạn chế được hàng trăm tai nạn co nguy co sẽ xảy ra.
Bên cạnh đó, các cơng ty bảo hiểm cũng khuyến khích các chủ xe tự thực hiện
các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất bằng nhiều biện pháp như: tun truyền
luật lệ an tồn giao thơng, giảm phí cho các xe nếu sau một thời gian nhất định mà
xe không gặp phải bất kỳ sự cố nào. Những biện pháp tích cực đó đã góp phần ổn
định đời sống xã hội, giảm thiểu tổn thất về người và của cho các chủ phương tiện
giao thông vận tải.


5


Thứ hai: Giúp ổn định tình hình tài chính của chủ phương tiện khi không may rủi
ro được bảo hiểm xảy ra.
Bảo hiểm bồi thường cho những tổn thất về mặt tài chính do rủi ro gây nên
cho các cá nhân, các tổ chức trong xã hội, giúp họ khôi phục lại điều kiện kinh tế
như ban đầu hoặc gần như ban đầu khi chưa có rủi ro xảy ra. Chính sự ổn định của
mỗi cá nhân, mỗi tổ chức trong xã hội sẽ tạo ra sự ổn định chung của toàn xã hội, ổn
định nguồn thu, giảm chi cho ngân sách nhà nước.
Khi tham gia giao thông không ai mong muốn rủi ro sẽ xảy ra với mình.
Nhưng rủi ro lại xảy ra một cách bất ngờ, không lường trước được và khơng loại trừ
bất kỳ ai. Vì vậy khi tổn thất xảy ra khiến cho chủ phương tiện rơi vào tình thế bị
động, cuộc sống của họ và gia đình họ sẽ bị ảnh hưởng và gặp nhiều khó khăn. Do
đó tham gia bảo hiểm xe cơ giới sẽ tạo tâm lý yên tâm, thoải mái cho chủ xe cơ
giới, góp phần ổn định tình hình tài chính khi có rủi ro xảy ra, giúp họ nhanh chóng
thốt khỏi tình trạng khó khăn, ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình họ.
Khơng chỉ giúp cho người tham gia bảo hiểm giảm bớt khó khăn khi có rủi ro xảy
ra mà còn giúp người thứ 3 ổn định cả về mặt tài chính và về mặt tinh thần.
Thứ ba: Tăng khả năng tự chủ về mặt tài chính cho người tham gia bảo hiểm.
Một vài năm trở lại đây, nền kinh tế nước ta có tốc độ phát triển vượt bậc. Đặc
biệt sau sự kiện Việt Nam gia nhập WTO thì nền kinh tế càng có cơ hội phát triển.
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng trở nên gay gắt và khốc liệt hơn do khả
năng tài chính cũng như năng lực, quy mơ của các doanh nghiệp trong nước cịn
nhỏ yếu, trong khi đó các doanh nghiệp nước ngồi khơng những có khả năng tài
chính lớn mạnh, quy mơ lớn mà cịn có đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm. Do đó
khó khăn đặt ra đối với các doanh nghiệp trong nước là rất lớn.
Để đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể yên tâm sản xuất kinh doanh thì bảo
hiểm là cơng cụ hỗ trợ vơ cùng hữu hiệu, vì bảo hiểm là ngành hoạt động trên
ngun tắc “số đơng bù số ít”. Lúc này khoản tiền đáng nhẽ phải dùng vào việc lập
quỹ dự phịng cho các rủi ro có thể xảy ra thì có thể dùng vào hoạt động sản xuất



6

kinh doanh, đem lại hiệu quả kinh doanh cho các doanh nghiệp, tạo tâm lý yên tâm,
thoải mái.
Thứ tư: Bảo hiểm xe cơ giới góp phần tăng thu ngân sách Nhà nước và tạo thêm
công ăn việc làm cho người dân.
Mức sống của người dân nước ta ngày càng được nâng cao, cuộc sống đã trở
nên đầy đủ hơn. Do đó, các phương tiện giao thơng cũng theo đó tăng mạnh nhằm
đáp ứng các nhu cầu trong sinh hoạt hàng ngày cũng như các hoạt động sản xuất
kinh doanh của người dân. Riêng quý I năm 2005 có 601.520 xe ôtô, 7.010.100 xe
máy . trong đó có 4.093 xe ôtô mua mới. Giá trị của từng chiếc xe cũng tăng cao do
nhu cầu của người dân đang chuyển dần từ “tối thiểu” sang “hưởng thụ”.
Theo đà phát triển đó thì nhu cầu đảm bảo cho cuộc sống, tài sản, tính mạng
của bản thân và của gia đình lại càng được quan tâm đặc biệt hơn. Vì thế triển vọng
của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới là rất lớn, nguồn thu từ nghiệp vụ này là không
nhỏ. Điều này sẽ góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước thơng qua hình thức
nộp thuế của các cơng ty bảo hiểm. Có ngân sách sẽ tạo điều kiện cho chúng ta có
cơ hội nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng cho toàn xã hội, đáp ứng tốt nhu
cầu đi lại của người dân, giảm bớt rủi ro, đảm bảo đời sống cho người dân.
Khi thu phí bảo hiểm, các công ty bảo hiểm sẽ tiến hành cho vay và đầu tư để
sinh lời. Đây cũng chính là nguồn thu chính của cơng ty nhằm đảm bảo cho các hoạt
động quản lý, chi bồi thường,…Thơng qua hình thức đầu tư này, các doanh nghiệp
sẽ có điều kiện mở rộng hoạt động kinh doanh của mình, thành lập thêm nhiều
doanh nghiệp mới với nhiều lĩnh vực hoạt động. Do đó sẽ tạo thêm nhiều công ăm
việc làm cho người dân. Đồng thời nó cũng giúp các nước đang phát triển như Việt
Nam giải quyết một trong những vấn đề nóng bỏng nhất hiện nay là tình trạng “thất
nghiệp” kéo dài.
Qua đó ta thấy tác dụng của bảo hiểm xe cơ giới đối với sự phát triển kinh tế
của nước ta cũng như đảm bảo cuộc sống của người dân là rất lớn, mang ý nghĩa
tích cực, nhân đạo sâu sắc và việc triển khai, mở rộng nghiệp vụ này là thực sự cần

thiết.


7

II. Các nghiệp vụ bảo hiểm liên quan đến xe cơ giới.
Xe cơ giới là các loại xe bao gồm xe máy, xe ôtô, xe môtô tham gia giao thông
trên đường bộ bằng chính động cơ của chiếc xe đó. Xe cơ giới có thể là xe chở
hàng, chở người, vì vậy cần triển khai đầy đủ các nghiệp vụ bảo hiểm liên quan đến
nó.
Sau đây là các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới đang được triển khai tại nước ta:
1.

Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3:

Các mức trách nhiệm đối với từng loại xe, từng loại hình đều được Bộ tài chính quy
định rất rõ ràng được ban hành kèm theo Quyết định số 23/2003/QĐ-BTC ngày
25/02/2003 của Bộ trưởng Bộ tài chính.
2.

Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe.

3.

Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với hàng hoá vận chuyển trên xe.

4.

Bảo hiểm tai nạn hành khách trên xe.


5.

Bảo hiểm tai nạn lái phụ xe.

6.

Bảo hiểm tai nạn người ngồi trên xe.
Trong các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới trên thì nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc

trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 và nghiệp vụ bảo hiểm
vật chất thân xe cơ giới là hai nghiệp vụ quan trọng nhất, góp phần hỗ trợ tích cực
cho người tham gia bảo hiểm khi bị tai nạn đồng thời cũng đem lại doanh thu lớn
cho các doanh nghiệp bảo hiểm.
III. Nội dung cơ bản của bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm trách
nhiệm vật chất xe cơ giới.
1.Đối với nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với
người thứ 3.
1.1. Sự ra đời của bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là loại hình bảo hiểm ra đời khá muộn so với các
loại hình bảo hiểm khác, do đây là loại hình bảo hiểm khá phức tạp có liên quan đến
lĩnh vực pháp luật.


8

Để điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội, đảm bảo cho xã hội có thể
phát triển , ngay từ thời xa xưa khi chưa có nhà nước các nhóm dân cư đã đề ra các
quy phạm xã hội dưới dạng các phong tục tập quán. Sau này khi nhà nước ra đời, sự
ra đời của pháp luật đã tạo ra một hệ thống quy phạm xã hội một cách có hệ thống
được quy định và quản lý chặt chẽ bởi nhà nước. Mọi người trong xã hội phải sống

theo quy định đó, nếu vi phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp lý có thể là
trách nhiệm hình sự hoặc trách nhiệm dân sự. Trách nhiệm dân sự phát sinh trong
những trường hợp người dân có những hành vi trái pháp luật khiến phải bồi thường
bằng tiền do những thiệt hại mà họ gây nên. Những thiệt hại trách nhiệm này đôi
khi rất lớn, lớn hơn nhiều so với những thiệt hại về tài sản thông thường. Vì vậy nhu
cầu về mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự ra đời với mục đích bù đắp những thiệt hại
tài chính khi trách nhiệm dân sự (TNDS) phát sinh phải bồi thường bằng tiền.
Trong cuộc sống trách nhiệm dân sự có thể phát sinh theo nhiều nguyên nhân:
-

Đối với một cá nhân, trách nhiệm phát sinh có thể do điều khiển xe cơ

giới, do vật sở hữu của họ gây ra, do lỗi nghề nghiệp.
-

Đối với doanh nghiệp, trách nhiệm phát sinh là trách nhiệm của chủ sử

dụng lao động đối với người lao động, trách nhiệm do tài sản của doanh nghiệp gây
ra cho người khác, do hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gây ô nhiễm
môi trường,…
-

Đối với các nhà sản xuất hoặc phân phối phải chịu trách nhiệm khi hàng

hoá của họ gây thiệt hại cho khách hàng do lỗi sản phẩm, khơng có thiết bị an tồn,
khơng có chỉ dẫn đầy đủ.
-

Ngồi ra, trách nhiệm cịn phát sinh theo hợp đồng hoặc ngồi hợp đồng.


1.2. Đặc điểm của bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự rất phổ biến và có vai trị quan trọng trong đời
sống kinh tế - xã hội. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người
thứ ba cũng là dạng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Vì thế nó cũng có đấy đủ các đặc
điểm của bảo hiểm trách nhiệm:


9

-

Bảo hiểm trách nhiệm dân sự phát sinh khi người tham gia bảo hiểm có

hành vi trái pháp luật phải bồi thường bằng tiền đối với thiệt hại do họ gây nên. Vì
thế đối tượng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự mang tính trừu tượng, chỉ xác định
được chính xác khi nó đã xảy ra. Trách nhiệm dân sự phát sinh có thể được quy
định bởi pháp luật hoặc trong một số trường hợp có thể là do sự thoả thuận giữa hai
bên và tương ứng gọi là trách nhiệm ngoài hợp đồng và trách nhiệm trong hợp
đồng.
-

Bảo hiểm trách nhiệm chỉ có một rủi ro duy nhất đó là khi theo quy định

của pháp luật đã phát sinh trách nhiệm dân sự. Phần trách nhiệm dân sự chỉ phát
sinh khi có đủ 3 điều kiện sau:
* Có thiệt hại thực tế của bên thứ ba
* Có hành vi trái pháp luật của người được bảo hiểm. Hành vi trái pháp
luật này có thể xuất phát từ lỗi sơ xuất khơng cố ý hoặc hồn tồn khơng có lỗi mà
chỉ là do xuất phát từ trách nhiệm sở hữu tài sản.
* Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại của bên thứ ba và hành vi trái

pháp luật.
-

Bảo hiểm trách nhiệm thường áp dụng dưới hình thức bắt buộc với mục

đích ổn định tài chính cho người được bảo hiểm, quyền lợi cho người bị hại.
-

Mức trách nhiệm dân sự phát sinh phụ thuộc vào sự phán quyết của toà

án, của pháp luật. Trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm dựa trên cơ sở mức trách
nhiệm dân sự thực tế phát sinh đó. Tuy nhiên trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự,
trách nhiệm của người bảo hiểm thường được giới hạn ở một số tiền bảo hiểm nhất
định.
1.3. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm.
a) Đối tượng bảo hiểm:
Đây là loại hình bảo hiểm trách nhiệm có đối tượng bảo hiểm là phần TNDS
phát sinh của chủ xe gây ra thiệt hại cho người thứ ba trong quá trình lưu hành sử
dụng xe.


1
0
Người tham gia bảo hiểm thông thường là chủ xe, có thể là cá nhân hay đại diện cho
một tập thể. Công ty bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm cho phần trách nhiệm dân sự của
chủ xe phát sinh do sự hoạt động và điều khiển của người lái xe. Như vậy đối tượng
được bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Trách nhiệm dân sự cuar chư xe cơ giới đối với người thứ ba là trách nhiệm hay
nghĩa vụ bồi thường ngoài hợp đồngcủa chủ xe hay lái xe cho người thứ ba khi xe
lưu hành gây tai nạn.

Đối tượng được bảo hiểm không được xác định trước. Chỉ khi nào việc lưu
hành xe gây tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba
thì đối tượng này mới được xác định cụ thể. Lúc này trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới đối với người thứ ba là phần trách nhiệm được xác định như sau:
Số tiền bồi thường
TNDS

=

Mức độ
lỗi của xe

*

Thiệt hại thực tế
của bên thứ ba

Số tiền bồi thường tối đa mà người bảo hiểm phải trả phụ thuộc vào bản hợp
đồng giữa người được bảo hiểm và người bảo hiểm. Trong trường hợp hai bên
không thoả thuận được thì quyết định cuối cùng là của tồ án.
Các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba bao
gồm:
-

Thứ nhất: Có thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc sức khoẻ của bên thứ

-

Thứ hai: Chủ xe (lái xe) phải có hành vi trái pháp luật, có thể do vơ tình


ba.
hoặc cố ý mà lái xe vi phạm luật giao thông đường bộ, hoặc vi phạm các quy định
khác của pháp luật.
-

Thứ ba: Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của

chủ xe (lái xe) với những thiệt hại của người thứ ba.
-

Thứ tư: Chủ xe (lái xe) phải có lỗi: Thực tế chỉ cần một trong ba điều

kiện trên là đã phát sinh trách nhiệm dân sự. Điều kiện thứ tư này có thể có hoặc
khơng vì nhiều khi tai nạn xảy ra là do nguồn nguy hiểm cao độ mà khơng hồn


1
1
tồn do lỗi của chủ xe (lái xe). Ví dụ như: xe đang chạy bị nổ lốp, lái xe mất khả
năng điều khiển nên đã gây tai nạn.
Chủ xe (lái xe) gây thiệt hại cho bên thứ ba, bên thứ ba ở đây có thể là người
đi bộ hay người đi xe đạp hoặc các phương tiện cơ giới khác, đường xá, hoa màu,…
nhưng loại trừ:
-

Lái, phụ xe, người làm công cho chủ xe;

-

Những người lái xe phải nuôi dưỡng như cha, mẹ, vợ chồng, con cái…


-

Hành khách, những người có mặt trên xe;

-

Tài sản, tư trang, hành lý của những người nêu trên;

-

Thiệt hại xảy ra do bản thân phương tiện gây ra;

-

Thiệt hại về tình trạng sức khoẻ xảy ra cho bản thân người điều khiển xe;

-

Các khoản phạt mà lái xe hoặc chủ xe phải chịu.

b) Phạm vi bảo hiểm.
Trong bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, công ty bảo
hiểm chỉ nhận đảm bảo cho các rủi ro bất ngờ không lường trước được gây ra tai
nạn và làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe. Các thiệt hại nằm trong phạm
vi trách nhiệm của công ty bảo hiểm bao gồm:
-

Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khoẻ của bên thứ ba;


-

Thiệt hại về tài sản, hàng hoá… của bên thứ ba;

-

Thiệt hại tài sản làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh hoặc giảm thu

nhập;
-

Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp ngăn ngừa hạn

chế thiệt hại; các chi phí thực hiện biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm (kể cả
biện pháp không mang lại hiệu quả);
-

Những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của những người tham gia cứu

chữa, ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân.
Tuy nhiên cơng ty bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại
của các vụ tai nạn mặc dù có phát sinh trách nhiệm dân sự:
-

Hành động cố ý của chủ xe, lái xe và người bị thiệt hại;


1
2
-


Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an tồn để tham gia giao thơng

theo quy định của điều lệ trật tự an tồn giao thơng vận tải đường bộ;
-

Chủ xe hoặc lái xe vi phạm nghiêm trọng trật tự an tồn giao thơng

đường bộ như:
* Xe khơng có giấy phép lưu hành, giấy chứng nhận kiểm định an tồn kỹ
thuật và mơi trường.
* Lái xe khơng có bằng lái hoặc bị tịch thu, bằng không hợp lệ.
* Lái xe bị ảnh hưởng của các chất kích thích như: Rượu, bia, ma tuý…
* Xe chở chất cháy, chất nổ trái phép.
* Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, đua xe trái phép, chạy thử sau khi sửa
chữa.
* Xe đi vào đường cấm, đi đêm khơng có đèn hoặc chỉ có đèn bên phải.
* Xe khơng có hệ thống lái bên phải.
-

Thiệt hại do chiến tranh, bạo động;

-

Thiệt hại gián tiếp do tai nạn như giảm giá trị thương mại, làm đình trệ

sản xuất kinh doanh;
-

Thiệt hại đối với tài sản bị cướp, mất cắp trong tai nạn.


-

Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia, trừ khi có thoả thuận khác;

-

Ngồi ra cơng ty bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm đối với những

thiệt hại tài sản như: vàng, bạc, đá quý, tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, hài
cốt.
1.4. Phí bảo hiểm và mức trách nhiệm bảo hiểm.
a) Phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm được tính theo đầu phương tiện. Người tham gia bảo hiểm đóng
phí bảo hiểm TNDS theo số lượng đầu phương tiện của mình. Tuy nhiên, các
phương tiện khác nhau về chủng loại, độ lớn, giá trị, hình thức hoạt động nên xác
suất rủi ro gây tai nạn cũng khác nhau.
Phí bảo hiểm thường được tính như sau: (thường tính theo năm)
P=f+d


1
3
Trong đó:

P – Phí bảo hiểm /đầu phương tiện
f – Phí thuần
d - Phụ phí (được quy định là tỷ lệ phần trăm nhất định so với

tổng phí bảo hiểm)

Qua đó ta thấy phí bảo hiểm là một khoản tiền mà chủ xe nộp cho cơng ty bảo
hiểm để hình thành nên một quỹ tiền tệ chung đủ lớn để bồi thường cho những thiệt
hại. Nói cách khác, phí bảo hiểm chính là giá cả của sản phẩm bảo hiểm.
Ở nước ta, doanh nghiệp bảo hiểm và chủ xe cơ giới có trách nhiệm thực hiện
bảo hiểm theo Biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm tối thiểu ban hành kèm theo
Quyết định số 23/2003/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ tài chính.
Doanh nghiệp bảo hiểm có thể thoả thuận với chủ xe để bảo hiểm theo Biểu
phí và mức trách nhiệm cao hơn hoặc phạm vi bảo hiểm rộng hơn Quy tắc bảo
hiểm, Biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm ban hành theo Quyết định số 23/2003/
QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ tài chính.
b) Mức trách nhiệm bảo hiểm.
Mức trách nhiệm bảo hiểm là số tiền bảo hiểm cao nhất mà cơng ty bảo hiểm
có thể trả cho mỗi vụ tai nạn xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Để đảm bảo quyền lợi
của cả công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, công ty bảo hiểm đã đưa ra
các giới hạn bồi thường tối đa để người tham gia bảo hiểm lựa chọn. Điều này có
nghĩa là cơng ty bảo hiểm chỉ bồi thường tối đa mức trách nhiệm của mình được ghi
rõ trong hợp đồng bảo hiểm. Số thiệt hại cịn lại thì chủ xe hoặc lái xe phải chịu để
bồi thường cho người thứ ba.
Hiện nay theo quy định của Bộ tài chính thì mức trách nhiệm dân sự bắt buộc
phải tham gia là:
Về người: 30 triệu đồng/người/vụ
Về tài sản: 30 triệu đồng/vụ
Theo quy định trên thì mức trách nhiệm tối đa cơng ty bảo hiểm phải bồi
thường cho mỗi vụ là 30 triệu đồng về người và 30 triệu đồng về tài sản.


1
4
Người tham gia có thể tham gia với mức trách nhiệm bảo hiểm cao hơn, với
mỗi mức cao hơn đó đều được Bộ tài chính quy định rõ trong biểu phí TNDS đối

với từng loại xe.
2. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
2.1. Đối tượng bảo hiểm và phạm vi bảo hiểm.
a) Đối tượng bảo hiểm.
Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tài sản và nó được thực
hiện dưới hình thức tự nguyện, có đối tượng bảo hiểm là thiệt hại vật chất của xe
xảy ra do những tai nạn bất ngờ ngồi sự kiểm sốt của chủ xe trong những trường
hợp cụ thể do quy tắc bảo hiểm quy định.
Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe là để được bồi thường cho những thiệt
hại vật chất xảy ra với xe của mình do những rủi ro được bảo hiểm gây nên. Vì vậy
đối tượng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là bản thân những chiếc xe còn giá trị và
được phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia.
Để xác định xe cơ giới có thể bảo hiểm được, người ta dựa vào một số tiêu thức sau:
-

Xe cơ giới phải có động cơ.

-

Xe cơ giới di chuyển trên đường không cần đường dẫn (khác với tàu hoả,

xe điện)
-

Xe cơ giới phải có tối thiểu một chỗ cho người điều khiển xe.

-

Xe phải có giá trị sử dụng.


-

Xe phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về an tồn giao thơng vận tải.

Ngồi ra, xe phải đáp ứng đầy đủ các bộ phận về mặt kỹ thuật:
-

Tổng thành thân vỏ: bao gồm 3 nhóm:
* Thân vỏ, cabin, galăng, toàn bộ vỏ kim loại.
* Ghế đệm nội thất: bao gồm toàn bộ ghế đệm ngồi hoặc nằm, các trang

thiết bị điều hoà nhiệt độ, …
* Sắt xi: bao gồm khung, tổng bơm, phanh, các bình chứa nguyên liệu.
-

Tổng thành động cơ: bao gồm động cơ, bộ chế hồ khí, bơm cao áp, bộ

phận lọc gió.


1
5
-

Tổng thành hệ thống lái: vô lăng, trục tay lái.

-

Tổng thành hộp số: gồm hộp số chính, hộp số phụ, hệ thống dẫn trục các


-

Tổng thành trục trước: gồm dầm cầu, trục láp, hệ thống treo nhíp, cơ cấu

loại.
phanh, xi lanh phanh.
-

Tổng thành trục sau.

-

Tổng thành lốp.

Qua việc phân loại trên sẽ giúp cho người tham gia bảo hiểm dễ dàng lựa chọn bộ
phận cần tham gia bảo hiểm mà khơng cần phải tham gia tồn bộ xe. Trong tất cả
các tổng thành trên thì tổng thành thân vỏ thường chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ hậu
quả của các vụ tai nạn. Hiện nay ở Việt Nam hầu hết các chủ xe cơ giới tham gia
bảo hiểm toàn bộ xe.
b) Phạm vi bảo hiểm.
Phạm vi bảo hiểm là giới hạn những rủi ro mà theo thoả thuận nếu những rủi
ro đó xảy ra người bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất.
Thông thường đối với bảo hiểm vật chất xe, các rủi ro được bảo hiểm bao gồm:
-

Tai nạn do đâm va, lật đổ.

-

Cháy, nổ, bão lụt, sét đánh, động đất, mưa đá.


-

Mất cắp toàn bộ xe.

-

Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên.

Ngoài ra các cơng ty bảo hiểm cịn thanh tốn cho chủ xe tham gia bảo hiểm
những chi phí cần thiết và hợp lý, bao gồm:
-

Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các

rủi ro được bảo hiểm;
-

Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa xe gần nhất;

-

Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm;

Trong mọi trường hợp công ty bảo hiểm chỉ bồi thường với số tiền không vượt
quá số tiền bảo hiểm ghi trên đơn hay giấy chứng nhận bảo hiểm. Theo đó, công ty
bảo hiểm cũng không bồi thường cho những thiệt hại vật chất xe gây ra bởi:


1

6
-

Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng do khuyết tật

hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa. Hao mịn tự nhiên được tính dưới hình thức khấu
hao và thường được tính theo tháng.
-

Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị, săm lốp bị hư hỏng mà

không do tai nạn gây ra.
-

Mất cắp bộ phận xe.

Để tránh tình trạng trục lợi bảo hiểm, cơng ty bảo hiểm cũng không bồi
thường trong những trường hợp sau:
-

Hành động cố ý của chủ xe, lái xe;

-

Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo quy

định của luật an tồn giao thơng đường bộ.
-

Chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng luật an tồn giao thơng đường bộ


như:
* Xe khơng có giấy phép lưu hành;
* Lái xe khơng có bằng lái, hoặc có nhưng khơng hợp lệ;
* Lái xe bị ảnh hưởng của rượu bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương
tự khác trong khi điều khiển xe;
* Xe chở chất cháy, chất nổ trái phép;
* Xe chở quá trọng tải hoặc số hành khách quy định;
* Xe đi vào đường cấm;
* Xe đi đêm không đèn;
* Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa;
-

Những thiệt hại gián tiếp như: giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản

xuất kinh doanh;
-

Thiệt hại do chiến tranh.

Bảo hiểm vật chất xe cơ giới không phải là loại hình bảo hiểm bắt buộc trực
tiếp theo quy định của luật giao thông đường bộ.
Cần chú ý rằng trong thời han bảo hiểm, nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu cho
người khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn có hiệu lực đối với chủ xe mới. Trong


1
7
trường hợp chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì cơng ty
bảo hiểm sẽ hồn lại phí bảo hiểm theo quy định và làm thủ tục bảo hiểm cho chủ

xe mới nếu họ có u cầu.
Hiện nay ở nước ta có các hình thức bảo hiểm vật chất xe cơ giới như sau:
-

Bảo hiểm theo giá trị thực tế của xe tại thời điểm hiện tại:
* Bảo hiểm toàn bộ xe: bảo hiểm đầy đủ 7 bộ phận tổng thành của xe, kèm

theo các điều khoản bổ sung
* Bảo hiểm tổng thành thân vỏ xe: đối tượng bảo hiểm chỉ là phần thân vỏ
bên ngồi xe, cịn 6 tổng thành cịn lại khơng được bảo hiểm. Nếu tổn thất xảy ra
với 6 tổng thành cịn lại thì chủ xe phải tự chịu. Ở nước ta hiện nay khi các chủ xe
yêu cầu bảo hiểm bộ phận xe thì các cơng ty bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm tổng
thành thân vỏ và không nhận bảo hiểm riêng cho các tổng thành còn lại.
-

Bảo hiểm dưới giá trị: tức là xe tham gia bảo hiểm với giá trị thấp hơn

giá trị thực tế của xe tại thời điểm hiện tại. Khi xe xảy ra tổn thất thì cơng ty bảo
hiểm sẽ bồi thường theo tỷ lệ phần trăm giữa giá trị xe tham gia bảo hiểm và giá trị
thực tế của xe.
Ngồi tỷ lệ phí bảo hiểm vật chất được quy định đối với từng loại xe, cơng ty
bảo hiểm cịn có các điều khoản bổ sung cho những thiệt hại, điều kiện sửa chữa xe,
… khi có tổn thất xảy ra.
2.2. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm.
Đây là loại hình bảo hiểm tài sản nên giá trị bảo hiểm được xác định bằng giá
trị của xe tại thời điểm tham gia bảo hiểm tính theo giá thị trường.
Trong thực tế để xác định giá trị bảo hiểm của xe, công ty bảo hiểm và người
tham gia bảo hiểm sẽ tự thoả thuận với nhau thông qua một số chỉ tiêu như: loại xe,
giá trị mua mới của xe, thời gian đã sử dụng hoặc quãng đường xe đã thực hiện lưu
hành.

Giá trị bảo hiểm = Nguyên giá - Khấu hao
Khấu hao có thể tính theo năm, tháng, q, ngày. Nhưng thơng thường khấu
hao được tính theo tháng.


1
8
Việc xác định đúng giá trị của xe tham gia bảo hiểm là rất quan trọng vì đây là
cơ sở để bồi thường Tuy nhiên, giá xe trên thị trường ln có những biến động và
có thêm nhiều chủng loại xe mới tham gia giao thơng nên đã gây khó khăn cho việc
xác định giá trị xe. Do đó cán bộ khai thác phải nhạy bén với thông tin về giá cả các
loại xe trên thị trường, cần phải thường xuyên kết hợp với các chuyên viên mới có
thể định ra giá trị bảo hiểm hợp lý nhằm tránh trường hợp bảo hiểm trên giá trị gây
bất lợi cho cả người tham gia bảo hiểm và người bảo hiểm.
Bên cạnh đó, việc bảo hiểm cho bộ phận xe sẽ được tính trên cơ sở giá trị bảo
hiểm tồn bộ xe và tỷ lệ phần trăm về phần giá trị của bộ phận đó trên giá trị tồn
bộ xe. Thơng thường tỷ lệ này được công ty bảo hiểm quy định đối với từng loại xe.
2.3. Phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà chủ xe cơ giới khi tham gia bảo hiểm phải đóng
cho cơng ty bảo hiểm. Tỷ lệ phí đối với từng loại hình hoạt động của xe được Bộ tài
chính quy định rất cụ thể và rõ ràng. Ngồi tỷ lệ phí đơn thuần, người tham gia bảo
hiểm có thể tham gia thêm một số điều khoản bổ sung do công ty bảo hiểm quy
định. Những điều khoản bổ sung này thường tạo điều kiện thuận lợi cho cả hai bên
trong việc giải quyết bồi thường.
Phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới thường được tính như sau:
P = Gb x R
Trong đó:

Gb : Số tiền bảo hiểm.
R : Tỷ lệ phí bảo hiểm.


Phí bảo hiểm bao gồm cả phí ngắn hạn và phí dài hạn. Phí ngắn hạn thường là
phí trong thời hạn vài tháng. Phí dài hạn là phí tối thiểu từ một năm trở lên.
Bảng 1: Tỷ lệ phí ngắn hạn
Thời hạn bảo hiểm
Mức phí áp dụng (% phí bảo hiểm năm)
Dưới 3 tháng
30%
Từ 3 đến 6 tháng
60%
Trên 6 đến 9 tháng
90%
Trên 9 đến 12 tháng
100%
Bảng 2: Tỷ lệ phí dài hạn
Thời hạn bảo hiểm

Mức phí áp dụng (% phí bảo hiểm năm)


1
9
Trên 12 tháng đến 15 tháng
Trên 15tháng đến 18 tháng
Trên 18 tháng đến 21 tháng
Trên 21 tháng đến 24 tháng
Trên 24tháng đến 30 tháng
Trên 30 tháng đến 36tháng

124%

144%
162%
168%
208%
240%

Phí bảo hiểm được xác định cho từng đối tượng tham gia bảo hiểm cụ thể và
công ty bảo hiểm thường căn cứ vào các nhân tố sau:
-

Loại xe: Mỗi loại xe thường có những đặc điểm kỹ thuật khác nhau, có

mức độ rủi ro khác nhau nên phí bảo hiểm cũng được quy định riêng cho từng loại
xe. Việc phân loại này dựa trên cơ sở tốc độ tối đa của xe, tỷ lệ gia tốc, chi phí và
mức độ khó khăn khi sửa chữa và sự khan hiếm của phụ tùng. Đối với một số loại
xe có mức độ rủi ro cao như xe kéo rơ moóc, xe chở hàng nặng thì phí bảo hiểm
thường được cộng thêm một tỷ lệ nhất định.
Việc xác định phí bảo hiểm phụ thuộc vào các nhân tố sau:
* Tình hình bồi thường tổn thất của những năm trước đó: căn cứ vào các số
liệu thống kê của những năm trước đó, cơng ty bảo hiểm sẽ tính được phí thuần đối
với từng loại xe nhất định.
* Các phụ phí bao gồm: chi đề phịng hạn chế tổn thất, chi quản lý,… Phần
phụ phí này thường được tính bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với phí bồi
thường.
-

Khu vực giữ và để xe: Ở Việt Nam hiện nay chưa có những chỗ trơng

giữ xe thuận lợi, điều kiện tốt,… do cơ sở hạ tầng cịn yếu kém. Tuy nhiên khơng
phải cơng ty nào cũng quan tâm đến vấn đề này nhưng cungx có một số cơng ty tính

phí bảo hiểm dựa theo khu vực giữ xe rất chặt chẽ.
-

Mục đích sử dụng xe: Đây là một trong những nhân tố rất quan trọng

trong việc xác định mức độ rủi ro có thể xảy ra đối với chiếc xe sẽ được bảo hiểm.
Ví dụ một chiếc xe được sử dụng với mục đích đi lại thơng thường trong một khu
vực nhất định thì phí bảo hiểm sẽ thấp hơn một chiếc xe được sử dụng với mục đích
kinh doanh, đi lại nhiều trong một khu vực rộng lớn.


2
0
-

Tuổi tác kinh nghiệm lái xe của người yêu cầu bảo hiểm và những người

thường xuyên sử dụng chiếc xe được bảo hiểm: Theo số liệu thống kê thì các lái xe
trẻ tuổi bị tai nạn nhiều hơn so với các lái xe lớn tuổi. Các công ty bảo hiểm thường
áp dụng giảm phí cho những lái xe trên 50 tuổi và 55 tuổi do họ có nhiều kinh
nghiệm hơn. Tuy nhiên đối với những lái xe trên 65 tuổi thì lại được tính theo mức
phí khác, vì ở độ tuổi này cho dù có nhiều kinh nghiệm nhưng độ minh mẫn và tính
chính xác khơng cao, sức khoẻ đã bắt đầu yếu.
Ngồi ra, cơng ty bảo hiểm cịn quy định mức miễn thường đối với chủ xe để
tăng ý thức đề phịng, hạn chế rủi ro, tránh tình trạng trục lợi bảo hiểm.
Khi áp dụng mức miễn thường thì tỷ lệ giảm phí so với tổng phí được quy định như
sau:
Bảng 3: Mức miễn thường và tỷ lệ giảm phí bảo hiểm
Mức miễn thường
1.000.000đ hoặc 100 USD

2.000.000đ hoặc 200 USD
3.000.000đ hoặc 300 USD
4.000.000đ hoặc 400 USD
5.000.000đ hoặc 500 USD
6.000.000đ hoặc 600 USD
7.000.000đ hoặc 700 USD

Tỷ lệ giảm phí
Giảm 0,5% so với tổng phí
Giảm 0,8% so với tổng phí
Giảm 1,1% so với tổng phí
Giảm 1,4% so với tổng phí
Giảm 1,7% so với tổng phí
Giảm 2,0% so với tổng phí
Giảm 2,3% so với tổng phí

Để khuyến khích xe tham gia bảo hiểm với số lượng lớn, công ty bảo hiểm
thường thực hiện biện pháp giảm phí theo mức phí chung. Bên cạnh đó, đối với
những xe tham gia bảo hiểm mà trong một số năm khơng phát sinh khiếu nại thì
cơng ty bảo hiểm cũng tiến hành giảm phí cho những chiếc xe đó nhằm tăng ý thức
đề phịng hạn chế tổn thất của người tham gia bảo hiểm.
Đối với những xe hoạt động mang tính chất mùa vụ, tức là chỉ hoạt động một
số ngày trong năm, thì chủ xe chỉ phải đóng phí bảo hiểm cho những ngày hoạt
động đó theo cơng thức:
Phí
Bảo hiểm

=

Mức phí

cả năm

x

Số ngày sử dụng
365 ngày



×