Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Hoạt động bán lẻ tại chi nhánh hà thành ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1020.12 KB, 94 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
***







KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP




Đề tài:
HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ TẠI CHI NHÁNH HÀ THÀNH
NGÂN HÀNG
ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP



Sinh viên thực hiện : Nguyễn Kim Thƣ
Lớp : Nhật 4
Khoá : K43G
Giáo viên hƣớng dẫn : ThS. Bùi Liên Hà




Hà Nội - 2008
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ CỦA NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI 3
I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA NHTM 3
1. Khái niệm và đặc điểm hoạt động của NHTM 3
2. Phân loại các ngân hàng thương mại 7
3. Các hoạt động cơ bản của NHTM 9
4. Xu hướng vận động chủ đạo của mô hình tổ chức và hoạt động của các
NHTM trong khu vực và trên thế giới 13
II. HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ CỦA NHTM 15
1. Khái niệm và các đặc trưng hoạt động bán lẻ của NHTM 15
2. Vai trò hoạt động bán lẻ của NHTM 20
3. Phân loại các hoạt động bán lẻ của NHTM 25
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ CỦA CÁC NHTM
VIỆT NAM HIỆN NAY 27
1. Những kết quả đạt được 28
2. Những tồn tại trong hoạt động bán lẻ tại các NHTM Việt Nam hiện nay
29
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ TẠI CHI
NHÁNH HÀ THÀNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT
NAM 31
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CHI NHÁNH HÀ
THÀNH 31
1. Sơ lược về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 31
2. Tổng quan về Chi nhánh Hà thành Ngân hàng ĐT & PT Việt Nam 33
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ TẠI CHI NHÁNH HÀ
THÀNH 40
1. Nhóm sản phẩm dịch vụ tiền gửi 40

2. Nhóm sản phẩm dịch vụ cho vay 43
3. Các sản phẩm dịch vụ khác 45
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ TẠI CHI NHÁNH
HÀ THÀNH 57
1. Những cơ hội và thách thức đối với hoạt động bán lẻ tại Chi nhánh 57
2. Kết quả đạt được của Chi nhánh trong hoạt động bán lẻ 60
3. Những tồn tại và nguyên nhân 62
CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM THÚC ĐẨY
HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ TẠI CHI NHÁNH HÀ THÀNH NHĐT & PT
VIỆT NAM 64
I. XU HƯỚNG VỀ HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM
64
1. Những yếu tố tác động tới hoạt động bán lẻ của các NHTM 64
2. Xu hướng về hoạt động bán lẻ của các NHTM Việt Nam hiện nay 66
II. ĐỊNH HƯỚNG VỀ HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ CỦA CHI NHÁNH HÀ
THÀNH TRONG THỜI GIAN TỚI 68
III. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG
BÁN LẺ TẠI CHI NHÁNH HÀ THÀNH 70
1. Nhóm giải pháp về sản phẩm dịch vụ bán lẻ của Chi nhánh 70
2. Nhóm các giải pháp để gia tăng khách hàng của hoạt động bán lẻ 76
3. Nhóm các giải pháp khác hỗ trợ hoạt động bán lẻ của Chi nhánh 78
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ
TẠI CHI NHÁNH HÀ THÀNH 80
1. Kiến nghị với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 80
2. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước 82
3. Kiến nghị với Chính phủ 84
KẾT LUẬN 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
CÁC KÝ TỰ VIẾT TẮT


NHNN
Ngân hàng nhà nước
NHTW
Ngân hàng trung ương
NHTM
Ngân hàng thương mại
NHBL
Ngân hàng bán lẻ
CNTT
Công nghệ thông tin
TCTD
Tổ chức tín dụng
NHĐT&PT VN
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
DVKHCN
Dịch vụ khách hàng cá nhân
DVKHDN
Dịch vụ khách hàng doanh nghiệp
BIDV
Bank for Investment and Development Viet Nam















DANH MỤC BẢNG BIỂU SƠ ĐỒ

Stt
Chi tiết
Trang
1
Bảng 1.1: So sánh hoạt động bán lẻ và hoạt động bán
buôn của ngân hàng
20
2
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức phòng ban của Chi nhánh
34
3
Bảng 2.1: Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kinh doanh của
Chi nhánh
38
4
Bảng 2.2: Doanh số và thu phí dịch vụ thanh toán trong
nước của Chi nhánh
46
5
Bảng 2.3: Doanh số và thu phí dịch vụ thanh toán quốc
tế của Chi nhánh
50
6
Bảng 2.4: Doanh số và thu phí kinh doanh ngoại tệ của

Chi nhánh
51
7
Bảng 2.5: Máy ATM và số lượng thẻ ATM phát hành
của Chi nhánh
54
8
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ số tiền gửi theo cơ cấu khách hàng
42
9
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ cho vay theo cơ cấu khách hàng
44




Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương
Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G
1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam với dân số khoảng 85 triệu người và mức thu nhập bình quân
đầu người ngày càng tăng sẽ là thị trường đầy tiềm năng của các ngân hàng
thương mại (NHTM), thị trường này sẽ phát triển mạnh trong tương lai do tốc
độ tăng thu nhập và sự tăng trưởng của các loại hình doanh nghiệp. Vì vậy,
các NHTM Việt Nam đang có xu hướng chuyển sang bán lẻ, tăng cường tiếp
cận với khách hàng là cá nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khi chuyển sang
bán lẻ, các ngân hàng sẽ có thị trường lớn hơn, tiềm năng phát triển tăng lên
và có khả năng phân tán rủi ro trong kinh doanh.

Chi nhánh Hà thành là đơn vị đầu tiên trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam (BIDV) được định hướng trở thành ngân hàng bán lẻ
hiện đại kiểu mẫu. Để đạt được mục tiêu đó, ngay từ khi thành lập, Chi nhánh
đã có những chiến lược kinh doanh nhất định cho hoạt động bán lẻ, và chú
trọng vào cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng tiên tiến, hiện đại.
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý thuyết, đồng thời qua tìm hiểu thực
tế tại Chi nhánh Hà thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, tác giả đã
chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp là: “Hoạt động bán lẻ tại Chi nhánh Hà thành
Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích và nhiệm vụ chung của đề tài là hệ thống hoá lý luận về hoạt
động kinh doanh và đi sâu vào tìm hiểu hoạt động bán lẻ của ngân hàng. Từ
thực tiễn nghiên cứu tại Chi nhánh Hà thành, tác giả mong muốn đóng góp
một phần nhỏ trong việc đánh giá đúng thực trạng hoạt động bán lẻ của Chi
nhánh, từ đó đề ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hỗ trợ Chi nhánh hoàn
thiện và phát triển hoạt động bán lẻ trong thời gian tới.

Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương
Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G
2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Khoá luận nghiên cứu những vấn đề lý thuyết và
thực tiễn hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại và cụ thể là hoạt động
bán lẻ của Chi nhánh Hà thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Khoá luận nghiên cứu trong phạm vi hoạt động của
Chi nhánh Hà thành từ khi thành lập năm 2003 cho tới nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Bằng các phương pháp duy vật biện chứng, thống kê, mô tả, so sánh,
phân tích, khóa luận được viết dựa trên những nghiên cứu, tổng hợp từ các
nguồn tài liệu mang tính chất lý thuyết và từ thực tế hoạt động của Chi nhánh

Hà thành. Từ đó, tác giả đưa ra những giải pháp, kiến nghị đóng góp cho hoạt
động bán lẻ của Chi nhánh.
5. Kết cấu của khoá luận
Ngoài lời mở đầu và kết luận, khoá luận được kết cấu làm 3 chương:
Chƣơng I: Tổng quan về hoạt động bán lẻ của ngân hàng thƣơng mại
Chƣơng II: Thực trạng hoạt động bán lẻ tại Chi nhánh Hà thành
Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam
Chƣơng III: Giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động bán lẻ
tại Chi nhánh Hà thành Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam
Do điều kiện và khả năng hạn chế nên khoá luận chắc chắn không tránh
khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo của
các thầy cô để khoá luận được hoàn thiện hơn.
Qua đây, em xin chân thành cảm ơn Th.S Bùi Liên Hà đã tận tình hướng
dẫn và có những ý kiến đóng góp quý báu để em hoàn thành khoá luận này.

Sinh viên thực hiện
Nguyễn Kim Thư
Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương
Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G
3
CHƢƠNG I
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ CỦA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI

I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA NHTM
1. Khái niệm và đặc điểm hoạt động của NHTM
1.1. Khái niệm
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng với nền kinh
tế. Ngân hàng có thể tồn tại nhiều hình thức tuỳ thuộc vào sự phát triển của
nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng

thương mại thường chiếm tỷ trọng nhiều nhất về quy mô tài sản, thị phần và
số lượng các ngân hàng.
Theo Luật các Tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam:
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán
1
.
Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế và các cuộc cách
mạng công nghệ, hoạt động ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh về sự
đa dạng, hiện đại của sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Theo từ điển thuật ngữ tài
chính tín dụng: “Sản phẩm dịch vụ ngân hàng là những nghiệp vụ mà ngân
hàng thực hiện huy động vốn và sử dụng số vốn huy động được để cấp tín
dụng, phục vụ thanh toán cho khách hàng và làm các dịch vụ khác theo sự uỷ
thác của khách hàng”.
Các sản phẩm dịch vụ chủ yếu của NHTM được thể hiện ở nội dung các
khoản mục thuộc bảng tổng kết tài sản hay bảng cân đối kế toán của ngân
hàng và có thể phân thành ba nhóm: các sản phẩm huy động vốn - tiền gửi

1
Nguồn: Giáo trình Ngân hàng thương mại, quản trị và nghiệp vụ, Đại học KTQD, trang 9
Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương
Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G
4
(thuộc nghiệp vụ tài sản Nợ), các sản phẩm cho vay và đầu tư (thuộc nghiệp
vụ tài sản Có) và các sản phẩm dịch vụ trung gian.
Các sản phẩm dịch vụ huy động vốn thuộc nghiệp vụ tài sản Nợ phản
ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh doanh của NHTM, bao gồm
nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, đi vay và các huy động khác.
Các sản phẩm cho vay và đầu tư thuộc nghiệp vụ tài sản Có phản ánh

quá trình NHTM sử dụng vốn vào các mục đích nhằm tìm kiếm lợi nhuận
cũng như đảm bảo an toàn, bao gồm ngân quỹ, tín dụng, đầu tư tài chính, và
các loại hình khác.
Các sản phẩm dịch vụ trung gian là các sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng
cung ứng cho khách hàng để nhận phí, hoa hồng như sản phẩm dịch vụ thanh
toán, bảo lãnh và các hình thức khác theo yêu cầu, uỷ nhiệm của khách hàng.
Ba nhóm sản phẩm dịch vụ này là một thể thống nhất, có quan hệ mật thiết
và tác động hỗ trợ nhau, coi nhẹ nghiệp vụ nào cũng đều làm cho NHTM khó
phát huy hết sức mạnh tổng hợp, tạo ra vị thế cạnh tranh với các NHTM khác.
Trong giai đoạn các tổ chức tín dụng đang có sự cạnh tranh quyết liệt để
cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng như hiện nay, ngoài các sản phẩm
dịch vụ truyền thống thuộc ba nhóm trên, các NHTM cũng đang nỗ lực chú
trọng tìm kiếm lợi nhuận từ việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ mới, sử dụng
nhiều công nghệ ngân hàng tiên tiến, hiện đại như: phát hành các loại thẻ, môi
giới, mua bán các công cụ tài chính, mua bán các món vay… đang trở nên
phổ biến và đem lại lợi nhuận không nhỏ cho các ngân hàng.
1.2. Đặc điểm hoạt động của NHTM
NHTM không trực tiếp tham gia vào sản xuất và lưu thông hàng hoá như
các doanh nghiệp thông thường, mà nó thực hiện các chức năng trung gian tín
dụng, trung gian thanh toán, và làm dịch vụ tiền tệ, tư vấn tài chính cho khách
hàng… Thông qua việc thực hiện chức năng trung gian, NHTM nắm trong tay
một bộ phận lớn của cải của xã hội, dưới dạng giá trị nhưng không có quyền
Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương
Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G
5
sở hữu chúng, mà chỉ có thể sử dụng với các điều kiện ràng buộc, đòi hỏi
NHTM phải chịu trách nhiệm vật chất với chủ sở hữu thực của các tài sản
này. Có thể nói, các NHTM hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng “Quyền sử
dụng các khoản tiền tệ”. Do vậy, hoạt động của NHTM cũng có nhiều đặc
trưng riêng biệt:

Thứ nhất, hoạt động của NHTM đề cao tính an toàn
Do NHTM hoạt động chủ yếu bằng vốn huy động từ nền kinh tế và
phải có trách nhiệm hoàn trả, nên việc thiếu khả năng thanh toán sẽ nhanh
chóng dẫn đến sự đổ vỡ, phá sản. Các NHTM luôn đề cao các biện pháp đảm
bảo an toàn kinh doanh trong khi thực hiện hoạt động cung ứng sản phẩm
dịch vụ ngân hàng. Chẳng hạn: duy trì mức vốn huy động hợp lý để phù hợp
nhu cầu sử dụng của ngân hàng và ý muốn của người gửi tiền, chống đỡ được
những biến động của thị trường; lựa chọn khách hàng, lựa chọn danh mục đầu
tư; đa dạng hoá tài sản để phân tán rủi ro, nâng cao lợi nhuận và đảm bảo tính
thanh khoản.
Thứ hai, hoạt động của NHTM có tính phụ thuộc cao vào khách hàng
Sản phẩm dịch vụ của các NHTM có tính phi vật chất, quá trình “sản
xuất” và “tiêu thụ” sản phẩm được tiến hành đồng thời, và không thể dự trữ,
không thể tồn kho để khi thị trường cần thì đưa ra tiêu thụ như hàng hoá hữu
hình. Sản phẩm dịch vụ ngân hàng chỉ bắt đầu khi khách hàng chuyển đến
ngân hàng các uỷ nhiệm của họ, phát sinh từ hợp đồng giao dịch thương mại,
tín dụng, hoặc phải hoàn thành các nghĩa vụ tài chính nào đó. Do vậy, việc
triển khai các nghiệp vụ ngân hàng phải quan tâm trước hết đến nhu cầu của
khách hàng, phải xuất phát từ khách hàng.
Thứ ba, hoạt động của NHTM phụ thuộc nhiều vào môi trường kinh
doanh và công nghệ ngân hàng
Ngân hàng nằm trong số loại hình doanh nghiệp được giám sát chặt chẽ
nhất, buộc phải quản lý theo luật và các quy định khác đã được ban hành, nói
Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương
Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G
6
cách khác, các hoạt động của NHTM phải thường xuyên được đổi mới với
những điều kiện kinh tế năng động và các điều chỉnh của pháp luật. Mặt khác,
mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng (người gửi tiền, người vay tiền) là
mối quan hệ dựa trên cơ sở tín nhiệm lẫn nhau và tạo thuận lợi cho nhau, do

vậy, môi trường kinh doanh (điều kiện kinh tế và luật pháp) của mỗi nước đều
ảnh hưởng đến việc thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng. Dưới sự tác động
mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ ngân hàng có những
bước tiến nhảy vọt và có khuynh hướng quốc tế hoá, trở thành nguồn lực nội
tại của mỗi ngân hàng về tư duy kinh doanh, tạo ra các sản phẩm thích ứng
với thị trường. Vì vậy, hoạt động ngân hàng không thể tách rời việc hiện đại
hoá ngân hàng.
Môi trường kinh doanh và công nghệ ngân hàng tác động đến chi phí sản
xuất, đến việc định giá sản phẩm dịch vụ ngân hàng theo những đặc tính riêng
khác với doanh nghiệp kinh doanh ở lĩnh vực khác. Sản phẩm dịch vụ ngân hàng
phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, xã hội và khả năng quản lý tài chính
của mỗi nước, do đó, hoạt động của các NHTM phải hết sức năng động, linh
hoạt, liên tục đổi mới để thích ứng với những biến đổi của điều kiện kinh tế xã
hội và điều chỉnh của pháp luật, đồng thời theo sát thông tin công nghệ ngân
hàng trên thế giới để tạo ra những sản phẩm mới hiện đại, phù hợp với xu thế
phát triển và được xã hội chấp nhận.
Thứ tư, hoạt động của NHTM có sự cạnh tranh quyết liệt về các sản
phẩm dịch vụ ngân hàng
Sản phẩm dịch vụ ngân hàng có tính xã hội hoá và tính nhạy cảm cao
nên chỉ cần có một sự thay đổi nhỏ về hình thức, lãi suất, mức độ tiện ích…
cũng sẽ có tác động lớn tới lượng khách hàng vì sự dịch chuyển của khách
hàng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác. Tính nhạy cảm cao thể hiện rõ
trong trường hợp khi ngân hàng này tạo ra một sản phẩm được xã hội ưa
chuộng thì ngay lập tức các ngân hàng khác cũng có thể tạo ra sản phẩm đó
Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương
Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G
7
để cạnh tranh. Đối với hoạt động của các doanh nghiệp trong những lĩnh vực
sản xuất kinh doanh khác thì cần có một khoảng thời gian nhất định để nghiên
cứu và tạo ra sản phẩm tương đương để cạnh tranh. Như vậy, sự cạnh tranh

quyết liệt của các ngân hàng phát sinh từ tính dễ thay đổi của khách hàng
trong quan hệ giao dịch với ngân hàng nhằm mục đích mua sản phẩm dịch vụ
ngân hàng tốt nhất với chi phí thấp nhất.
Những đặc điểm về hoạt động của NHTM như trên sẽ là cơ sở để các
nhà quản lý hoạch định chiến lược hoạt động phát triển các sản phẩm dịch vụ
ngân hàng, thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh phù hợp với môi trường kinh
doanh, điều kiện cụ thể của từng ngân hàng.
2. Phân loại các ngân hàng thƣơng mại
Có thể phân loại NHTM theo các tiêu thức khác nhau, cụ thể như sau:
2.1. Phân chia theo hình thức sở hữu
♦ Ngân hàng sở hữu tư nhân: Là loại hình ngân hàng được thành lập
bằng vốn của cá nhân. Nó thường là loại ngân hàng nhỏ, phạm vi hoạt động
hẹp gắn liền với doanh nghiệp và cá nhân ở địa phương.
♦ Ngân hàng sở hữu của các cổ đông (Ngân hàng cổ phần): Là loại
hình ngân hàng được hình thành thông qua phát hành (bán) các cổ phiếu.
Ngân hàng cổ phần có khả năng tăng vốn sở hữu nhanh chóng thông qua các
hình thức huy động vốn tập trung nên nó thường là các ngân hàng lớn. Ngân
hàng cổ phần thường có phạm vi hoạt động rộng, hoạt động đa năng, có các
chi nhánh hoặc công ty con.
♦ Ngân hàng sở hữu nhà nước: Là loại hình ngân hàng mà vốn sở hữu
do nhà nước cấp, có thể là nhà nước trung ương, hoặc tỉnh, thành phố. Là
ngân hàng được nhà nước hỗ trợ về tài chính và bảo lãnh phát hành giấy nợ.
Do đó, trong nhiều trường hợp các ngân hàng vừa hoạt động đồng thời phải
thực hiện các chính sách của nhà nước mà có thể gây bất lợi cho hoạt động
kinh doanh.
Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương
Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G
8
♦ Ngân hàng liên doanh: Là loại hình ngân hàng được hình thành dựa
trên sự góp vốn của hai hay nhiều bên thường là giữa ngân hàng trong nước

và ngân hàng nước ngoài để tận dụng lợi thế của mỗi bên.
2.2. Phân chia theo tính chất hoạt động
♦ Ngân hàng chuyên doanh và đa năng:
- Ngân hàng chuyên doanh: Là loại hình ngân hàng chỉ tập trung cung
cấp một số sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho một số đối tượng hay cho những
mục đích nhất định ví dụ như chỉ cho vay xây dựng cơ bản, hoặc cho vay
nông nghiệp, hoặc chỉ cho vay (không bảo lãnh hoặc cho thuê).v.v.
- Ngân hàng đa năng: Là loại hình ngân hàng cung cấp các sản phẩm
dịch vụ cho mọi đối tượng khách hàng. Đây là xu hướng hoạt động chủ yếu
hiện nay của các NHTM. Ngân hàng đa năng thường là ngân hàng lớn (có thể
sở hữu các công ty, các chi nhánh), hoạt động kinh doanh mang tính đa dạng
giúp ngân hàng tăng thu nhập và hạn chế rủi ro.
♦ Ngân hàng bán buôn và bán lẻ
- Ngân hàng bán buôn: Là loại hình ngân hàng chủ yếu cung cấp các sản
phẩm dịch vụ cho nhà nước, cho các ngân hàng, cho các công ty tài chính, và
cho các doanh nghiệp lớn. Ngân hàng bán buôn thường là các ngân hàng lớn
hoạt động tại các trung tâm tài chính quốc tế, cung cấp các khoản tín dụng lớn.
- Ngân hàng bán lẻ: Là loại hình ngân hàng chủ yếu cung cấp các sản
phẩm dịch vụ trực tiếp cho doanh nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân với các
khoản tín dụng nhỏ.
2.3. Phân chia theo cơ cấu tổ chức
♦ Ngân hàng sở hữu công ty và ngân hàng không sở hữu công ty
- Ngân hàng sở hữu công ty: Là loại hình ngân hàng nắm giữ phần lớn
cổ phần của công ty, cho phép ngân hàng được quyền tham gia các quyết định
quan trọng trong hoạt động của công ty. Do luật nhiều nước cấm hoặc hạn chế
ngân hàng thương mại tham gia trực tiếp một số loại hình kinh doanh như
Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương
Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G
9
chứng khoán, bất động sản nên các ngân hàng lớn đã thành lập hoặc mua lại

một số công ty chứng khoán, quỹ đầu tư… nhằm mở rộng hoạt động.
- Ngân hàng không sở hữu công ty: Là loại hình ngân hàng không mua cổ
phần để sở hữu công ty, hoặc không thành lập các công ty con vì lí do có vốn
nhỏ hoặc luật không cho phép hoặc không bị cấm hoạt động kinh doanh trong
các lĩnh vực khác ngoài hoạt động cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
♦ Ngân hàng đơn nhất và ngân hàng có chi nhánh
- Ngân hàng đơn nhất: Là loại hình ngân hàng không có chi nhánh, tức
là các sản phẩm dịch vụ chỉ do hội sở ngân hàng cung cấp.
- Ngân hàng có chi nhánh: Là loại hình ngân hàng có vốn tương đối
lớn, cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng qua mạng lưới nhiều chi
nhánh. Việc thành lập chi nhánh thường bị kiểm tra chặt chẽ bởi ngân hàng
nhà nước thông qua các quy định về mức vốn sở hữu, về chuyên môn đội ngũ
cán bộ, về sự cần thiết các sản phẩm dịch vụ ngân hàng trong vùng.v.v.
3. Các hoạt động cơ bản của NHTM
3.1. Hoạt động huy động vốn
Với một NHTM, huy động vốn đóng vai trò vô cùng quan trọng, cả về
trước mắt và lâu dài, vì nguồn vốn quyết định quy mô tài sản Có và góp phần
quan trọng tạo ra lợi nhuận của ngân hàng.
Vốn kinh doanh của ngân hàng chủ yếu được hình thành qua 3 kênh:
♦ Nguồn vốn chủ sở hữu
Vốn được huy động qua kênh này để thành lập NHTM với yêu cầu đáp
ứng đủ lượng vốn chủ sở hữu theo mức quy định của Nhà nước (Ngân hàng
trung ương). Vốn chủ sở hữu sẽ được bổ sung và tăng dần dưới nhiều hình
thức như: huy động thêm vốn từ các cổ đông, Nhà nước cấp, lợi nhuận bổ
sung. Xét về số lượng và đặc điểm, nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ lệ nhỏ
trong tổng nguồn vốn, thông thường chiếm khoảng 10%. Tuy chiếm tỷ lệ nhỏ
nhưng nó giữ một vị trí quan trọng để tạo uy tín, sự tin tưởng của khách hàng
Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương
Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G
10

dành cho ngân hàng. Nguồn vốn này chủ yếu dùng để xây dựng cơ sở hạ tầng,
mua sắm các phương tiện hoạt động.
♦ Nhận tiền gửi các loại
Các NHTM huy động vốn thông qua nhiều hình thức nhận tiền gửi. Tiền
gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân
hàng. Để gia tăng lượng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được
nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra nhiều hình
thức huy động khác nhau như: tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch), tiền gửi
có kỳ hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, tiền gửi tiết kiệm của dân cư,
tiền gửi của các ngân hàng khác.
Các ngân hàng có thể nhận tiền gửi từ nhiều đối tượng khách hàng khác
nhau như các tổ chức kinh tế - xã hội, các doanh nghiệp, các cá nhân, các
ngân hàng khác. Trong xu hướng các ngân hàng đặt mục tiêu và nhiều kì
vọng vào đối tượng khách hàng cá nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ để thu
hút lượng tiền gửi với giá trị nhỏ lẻ trên mỗi khách hàng nhưng với số lượng
khách hàng lớn và rộng khắp thì hoạt động bán lẻ cung cấp các sản phẩm dịch
vụ tiền gửi đã mang lại một lượng vốn đáng kể, thúc đẩy hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng phát triển. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết
kiệm của dân cư, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi
thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy
động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn
(ví dụ như tiền gửi với các kì hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ, bằng
vàng…). Mặt khác, các ngân hàng còn cung cấp dịch vụ thẻ trên tài khoản cá
nhân, dịch vụ chi trả lương qua tài khoản cá nhân, tăng tiện ích của các tài
khoản cá nhân là có thấu chi trên tài khoản với hạn mức thấu chi dựa trên thu
nhập ổn định hàng tháng, mức tiền lương, tài sản đảm bảo khác.v.v.


Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương
Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G

11
♦ Đi vay
Là một trong các hình thức huy động vốn của NHTM, thường được sử
dụng để giải quyết như một biện pháp tình thế khi nhu cầu vay vốn tăng đột
biến của khách hàng hoặc ngân quỹ bị thiếu hụt do nhiều khách hàng đến rút
tiền. Các NHTM có thể vay ở các tổ chức tín dụng khác, vay bằng cách phát
hành trái phiếu, kỳ phiếu hoặc vay ở NHTW dưới hình thức tái chiết khấu các
giấy tờ có giá. Tuy chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn huy động, nhưng vốn đi
vay cũng đóng vai trò quan trọng để hoạt động của NHTM diễn ra bình
thường và có hiệu quả. NHTM phải trả một khoản lợi tức cho người sở hữu
nó theo những cam kết đã thoả thuận.
3.2. Hoạt động sử dụng vốn
Là các nghiệp vụ mà NHTM sử dụng vốn đã huy động được để kinh
doanh nhằm mục đích sinh lời. Hoạt động này bao gồm:
♦ Cho vay vốn
Cho vay vốn giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong các hoạt động sử dụng
vốn của NHTM. Xét về phương diện kinh doanh, hoạt động cho vay vốn có
tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng. Cho vay
vốn được thực hiện trên những nguyên tắc: cho vay có mục đích, có hiệu quả
kinh tế, và tiền vay phải được hoàn trả cả vốn lẫn lãi khi đến hạn. Các ngân
hàng có thể cho vay vốn với các đối tượng khách hàng và mức tín dụng khác
nhau. Hoạt động cho vay vốn mang tính chất truyền thống đã từng là chủ đạo
trong hoạt động của các ngân hàng là cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, các
tập đoàn kinh tế lớn với các dự án được thẩm định chặt chẽ. Hiện tại, cho vay
vốn theo hướng bán lẻ của ngân hàng là cấp tín dụng, cung cấp các sản phẩm
dịch vụ cho vay nhiều hình thức cho đối tượng khách hàng cá nhân, doanh
nghiệp vừa và nhỏ với mức tín dụng nhỏ, lẻ. Các ngân hàng thương mại đang
ngày càng mở rộng hoạt động cho vay với việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ
Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương
Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G

12
ngân hàng bán lẻ phong phú và đa dạng như: cho vay tiêu dùng, cho vay trả
góp, cho vay cầm cố bằng sổ tiết kiệm, kỳ phiếu hay các chứng chỉ có giá khác.
♦ Gửi tiền vào NHTW và các Tổ chức Tín dụng khác
Theo luật các Tổ chức tín dụng, NHTM phải mở tài khoản và gửi một
khoản tiền vào NHTW, theo hình thức hai loại tiền gửi:
- Tiền gửi theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc (dự trữ thanh toán): Là loại tiền gửi
bắt buộc mà không được NHTW trả lợi tức cho NHTM. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
càng cao thì khả năng cho vay của NHTM càng thấp và ngược lại.
- Tiền gửi thanh toán và kỳ hạn khác: Trong hoạt động kinh doanh của
NHTM, có những thời điểm vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, vốn này phải được
sinh lời dưới các hình thức như gửi vào NHTW, hoặc gửi vào các tổ chức tín
dụng khác.
♦ Đầu tư chứng khoán
Là hình thức các NHTM sử dụng vốn để mua các chứng khoán như
chứng khoán của Chính phủ, của các ngân hàng khác, các công ty tài chính,
các công ty khác, vì chúng mang lại thu nhập cho ngân hàng và có thể bán đi
để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết.
3.3. Hoạt động trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết
các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị
hàng hoá và dịch vụ, các hợp đồng thương mại… Để việc thanh toán nhanh
chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng cung cấp cho khách hàng
nhiều hình thức thanh toán như: thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu,
các loại thẻ, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và tiền
giấy khi khách hàng cần.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và thị trường tài chính bao trùm
nền kinh tế toàn cầu như hiện nay, chức năng trung gian thanh toán của ngân
hàng đặc biệt trở nên quan trọng. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá
Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương

Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G
13
góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán của hệ thống ngân hàng không
chỉ trong một quốc gia mà còn trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán
quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng
biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả,
phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
Nền kinh tế phát triển, đời sống nâng cao, thì việc người dân sử dụng
ngày càng nhiều các sản phẩm dịch vụ ngân hàng như một điều tất yếu trong
cuộc sống hiện đại. Hoạt động trung gian thanh toán của ngân hàng đã phát
triển nở rộ khi ngân hàng sử dụng các công nghệ ngân hàng hiện đại để cung
cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng tới từng cá nhân, tăng tính lợi ích của tài
khoản cá nhân ở mỗi ngân hàng trong một nước và trên toàn thế giới. Hoạt
động trung gian thanh toán là hoạt động cung cấp các sản phẩm dịch vụ chiếm
tỉ trọng lớn nhất trong số sản phẩm dịch vụ bán lẻ của các NHTM khi mà số
lượng khách hàng cá nhân, các doanh nghiệp vừa, nhỏ tiếp cận và sử dụng các
sản phẩm dịch vụ thanh toán của ngân hàng đang tăng lên ổn định.
4. Xu hƣớng vận động chủ đạo của mô hình tổ chức và hoạt động của các
NHTM trong khu vực và trên thế giới
♦ Thứ nhất: Các NHTM đang dần phát triển theo hướng tập đoàn hoá
Trên thị trường tài chính thế giới đang dần hình thành các mô hình tập
đoàn tài chính đa năng hoạt động bao gồm các chức năng của ngân hàng bán
buôn, ngân hàng bán lẻ, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, công ty tài
chính, công ty chứng khoán.v.v.
Xu hướng này cũng có nghĩa là tương lai sẽ có rất ít ngân hàng có duy
nhất thành phần sở hữu, hoặc thuần tuý kinh doanh chỉ một hoặc một số
nghiệp vụ ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại sẽ
diễn ra một quá trình chuyên ngành hoá trong tập đoàn tài chính đa năng và
trong mỗi chuyên ngành hẹp đều có bán buôn và bán lẻ - Có những người
mua để bán và những người mua để tiêu dùng trực tiếp.

Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương
Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G
14
♦ Thứ hai: Phát triển mạnh mô hình ngân hàng liên doanh, ngân hàng hợp
nhất và ngân hàng 100% vốn nước ngoài
Mô hình này cho phép "đơn nhất" ngân hàng phục vụ người xuất khẩu
với ngân hàng phục vụ người nhập khẩu giữa hai bên, ba bên, thậm chí nhiều
bên ở các quốc gia có quan hệ ngoại thương với nhau. Mô hình này là cơ sở
để hình thành các tập đoàn tài chính xuyên quốc gia trong hầu hết các lĩnh
vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán và dịch vụ tài chính. Do đó số
lượng khách hàng và mạng lưới kinh doanh của các ngân hàng sẽ rộng hơn,
đồng thời cơ hội và thách thức của mỗi ngân hàng sẽ tăng lên.
♦ Thứ ba: Hình thành mô hình siêu thị tài chính
Những thành tựu của kỹ thuật và công nghệ ngân hàng hiện đại sẽ cho
phép thiết lập và vận hành loại mô hình "chợ bé - vốn lớn". Theo đó, mọi nhu
cầu về đầu tư (mua công cụ tài chính), vay vốn (chuyển quyền sở hữu các công
cụ tài chính), huy động và cho vay, chuyển tiền, ngân hàng tại "nhà", kinh doanh
hoán đổi ngoại tệ đều thực hiện được ở các "cửa sổ" tương ứng tại sở giao dịch
của siêu thị tài chính hoặc trên mạng của siêu thị tại "nhà". Mô hình này giúp
cho các sản phẩm dịch vụ ngân hàng dễ dàng được tiếp cận và sử dụng nhiều
hơn đối với đại đa số người dân. Khi các sản phẩm dịch vụ ngân hàng trở nên
gần gũi và có nhiều tiện ích hơn sẽ thu hút được số đông không chỉ những cá
nhân chưa sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng mà cả những khách hàng yêu
cầu chất lượng sản phẩm cao, do đó lượng khách hàng tiềm năng sẽ tăng lên,
thúc đẩy hoạt động bán lẻ của các ngân hàng phát triển.
♦ Thứ tư: Hình thành mạng lưới gồm các ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân
hàng hoạt động vệ tinh xung quanh các tập đoàn Tài chính - Ngân hàng lớn
Các vệ tinh này không phải là đối tượng cạnh tranh của các tập đoàn lớn,
mà nó sẽ hoạt động lâu dài trên những mảng thị trường riêng, có đối tượng kinh
doanh riêng. Phần lớn khu vực thị trường và đối tượng kinh doanh của các vệ

tinh này được duy trì bền vững nhờ sự phân tách khách quan trên thị trường tài
Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương
Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G
15
chính thế giới. Đồng thời các vệ tinh này sẽ là đội quân dự bị số một cho sự phát
triển của các tập đoàn tài chính lớn trong tương lai.
♦ Thứ năm: NHTW có chức năng, nhiệm vụ, đối tượng hoạt động riêng mang
tính độc lập tương đối với Chính phủ và với hệ thống các ngân hàng trung gian
NHTW là cơ quan phát hành tiền pháp định, quản lý các mặt hoạt động
và duy trì "sân chơi" bình đẳng cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng hoạt động
kinh doanh theo Luật pháp. Đồng thời, NHTW cũng là cơ quan tổ chức thanh
tra, giám sát môi trường tài chính về tính minh bạch, tính đúng pháp luật
trong cạnh tranh của các ngân hàng; NHTW hoạt động độc lập tương đối với
Chính phủ trong lĩnh vực hoạch định, điều hành chính sách tiền tệ, làm chức
năng ngân hàng như các ngân hàng, làm chức năng thanh toán liên ngân hàng
và hoạt động kinh doanh trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, thị trường mở,
ngoại hối, đào tạo và dịch vụ khác với các tổ chức tài chính, ngân hàng trong
và ngoài nước.
II. HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ CỦA NHTM
1. Khái niệm và các đặc trƣng hoạt động bán lẻ của NHTM
1.1. Khái niệm
Theo các chuyên gia kinh tế của Học viện Công nghệ Châu á (AIT):
Hoạt động bán lẻ của ngân hàng thương mại là hoạt động cung ứng
sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tới từng cá nhân riêng lẻ, các doanh nghiệp vừa
và nhỏ thông qua mạng lưới các chi nhánh, và khách hàng có thể tiếp cận
trực tiếp với sản phẩm dịch vụ ngân hàng qua các phương tiện điện tử viễn
thông và công nghệ thông tin
2
.
Phân biệt giữa bán buôn với bán lẻ, nếu xuất phát từ mục đích của

người mua, và theo đó sẽ tác động trực tiếp đến “qui trình” bán hàng cũng
như mức giá cả của người bán thì: Nếu người mua với mục đích trực tiếp sử
dụng hàng hoá đó đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất hay sinh hoạt của

2
Nguồn:
Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương
Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G
16
chính mình hay gia đình mình, thậm chí doanh nghiệp mình thì đó gọi là mua
cho tiêu dùng. Trong trường hợp này, người bán cho người tiêu dùng trực tiếp
gọi là bán lẻ. Ngược lại, nếu người mua với mục đích tiếp tục dùng hàng hoá
đó bán lại cho người khác, thì người mua đó được gọi là người mua trung
gian – mua để bán. Trong trường hợp này người bán ban đầu gọi là người bán
buôn cấp 1. Bán buôn do đó có thể có các cấp tiếp theo: cấp 2, cấp 3 Đương
nhiên giá cả hàng hoá trong quan hệ bán buôn bao giờ cũng thấp hơn bán lẻ
tại cùng thời điểm và cùng thị trường. Sản phẩm dịch vụ ngân hàng có tính
đặc thù so với các loại hàng hoá khác, thuật ngữ “bán buôn” và “bán lẻ” trong
hoạt động cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng có thể hiểu rằng: hoạt động
bán lẻ là ngân hàng cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho số lượng
lớn các khách hàng cá nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ với một mức giá trị
giao dịch có thể rất nhỏ. Ngược lại, hoạt động bán buôn là ngân hàng cung
cấp các sản phẩm dịch vụ chủ yếu là huy động vốn và cho vay các tổ chức
kinh tế, các ngân hàng khác, các doanh nghiệp lớn với giá trị giao dịch thường
rất lớn.
Trong hoạt động ngân hàng, việc phân biệt các hoạt động kinh doanh
của ngân hàng như trên có liên quan đến phân bổ chi phí, hạch toán giá thành
và giá bán, đồng thời, nó còn là cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng kế
hoạch phát triển sản phẩm, chiến lược xác định thị trường của mỗi ngân hàng
thương mại. Trong xu hướng các NHTM Việt Nam hiện nay đang phát triển

theo hướng trở thành ngân hàng đa năng thì vấn đề quản trị kinh doanh theo
nhóm khách hàng và loại sản phẩm là phương thức tốt nhất cần có cho mỗi
ngân hàng. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tất yếu phải nhận dạng và phân
biệt chính xác các nghiệp vụ bán buôn và bán lẻ trong hoạt động kinh doanh
của các NHTM.


Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương
Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G
17
1.2. Các đặc trưng hoạt động bán lẻ của NHTM
Trong nền kinh tế mở, nhu cầu sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng
ngày càng cao, nhất là sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ (NHBL). Mục tiêu
hướng tới của dịch vụ NHBL là khách hàng cá nhân, các doanh nghiệp vừa,
nhỏ nên các sản phẩm dịch vụ này thường đơn giản, dễ thực hiện và thường
xuyên, tập trung vào dịch vụ tiền gửi và tài khoản, vay vốn, mở thẻ tín
dụng… Khách hàng cá nhân với số lượng đông đảo, đồng thời là thành phần
chính của nền kinh tế, đã làm hoạt động bán lẻ của các ngân hàng trở nên sôi
động và có nhiều đặc trưng.
Những đặc trưng chính của hoạt động bán lẻ của ngân hàng đó là:
Thứ nhất, hoạt động bán lẻ có khả năng đem lại lợi nhuận cao cho các
NHTM
Hoạt động bán lẻ được coi là mảng kinh doanh rất hiệu quả, đang ngày
càng thu hút các NHTM tiên tiến trên thế giới. Lợi nhuận từ hoạt động bán lẻ
mà các ngân hàng thu được xuất phát từ đặc điểm nhu cầu của khách hàng cá
nhân tuy là nhỏ về giá trị mỗi giao dịch nhưng lại rất lớn về quy mô, số lượng
giao dịch. Chẳng hạn, số vốn huy động từ mỗi cá nhân có thể không lớn, song
nếu gom tất cả các món huy động sẽ tạo ra một lượng vốn đáng kể, đồng thời
có tính ổn định và tăng trưởng bền vững. Đặc biệt khi ngân hàng hoạt động ổn
định, mức lãi suất đảm bảo tính hấp dẫn thì khách hàng sẽ không thay đổi

ngân hàng gửi tiền. Đối với sản phẩm dịch vụ cho vay tiêu dùng thì hầu hết
giá trị món vay là nhỏ lẻ, phân tán; kĩ thuật vay đơn giản, thời hạn cho vay
ngắn, lợi nhuận cao do mức phí tính khá cao. Xã hội ngày càng phát triển, đời
sống nâng cao thì nhu cầu sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng của người
dân càng tăng lên, nền khách hàng mục tiêu cho hoạt động bán lẻ ngày càng
tăng, nhờ vậy, nguồn thu của các NHTM sẽ tăng trưởng ổn định.


Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương
Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G
18
Thứ hai, hoạt động bán lẻ có tính tương đối an toàn, có rủi ro thấp hơn
nhiều so với hoạt động bán buôn truyền thống của các NHTM
Kinh doanh sản phẩm dịch vụ bán buôn truyền thống của các ngân hàng
thì giá trị mỗi giao dịch tương đối lớn trên một khách hàng, tính thanh khoản
của ngân hàng sẽ phụ thuộc vào một số khách hàng, điều đó tạo rủi ro cao cho
ngân hàng nếu khách hàng đó có vấn đề về tài chính hay mất khả năng chi trả
sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của ngân hàng. Ngược lại, hầu hết
các sản phẩm dịch vụ bán lẻ cho các khách hàng cá nhân là nhỏ, áp lực trả nợ
của khách hàng không lớn, hơn nữa ngân hàng có khả năng phản ứng và điều
chỉnh chính sách khi có sự thay đổi trong môi trường kinh doanh. Do đó rủi ro
của hoạt động bán lẻ của ngân hàng cho khách hàng cá nhân, doanh nghiệp
vừa, nhỏ sẽ thấp hơn nhiều. Việc mở rộng hoạt động cung ứng các sản phẩm
dịch vụ ngân hàng tiên tiến, hiện đại cho số lượng lớn khách hàng sẽ giúp các
ngân hàng hạn chế bớt những rủi ro như rủi ro lãi suất, đặc biệt là những rủi do
tín dụng do tính chất thông tin bất cân xứng của thị trường tài chính mang lại.
Thứ ba, hoạt động bán lẻ của ngân hàng hiện đại đòi hỏi cơ sở hạ tầng
và công nghệ ngân hàng tương xứng
Trên thị trường tài chính, trong lĩnh vực cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân
hàng thì có thể thấy rằng công nghệ thông tin (CNTT) đóng vai trò quan trọng

để thực hiện và phát triển hoạt động bán lẻ của ngân hàng thương mại, cụ thể:
- CNTT là tiền đề quan trọng để lưu giữ và xử lý cơ sở dữ liệu tập trung,
cho phép các giao dịch trực tuyến được thực hiện.
- CNTT hỗ trợ triển khai hoạt động cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng bán lẻ tiên tiến, hiện đại như chuyển tiền tự động, huy động vốn và cho
vay dân cư dưới nhiều hình thức khác nhau.
- Nhờ khả năng trao đổi thông tin tức thời, CNTT góp phần nâng cao hiệu
quả của việc quản trị ngân hàng, tạo điều kiện thực hiện mô hình xử lý tập
Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương
Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G
19
trung các giao dịch có tính chất phân tán như chuyển tiền, giao dịch thẻ, tiết
giảm đáng kể chi phí và thời gian giao dịch.
- CNTT có tác dụng tăng cường khả năng quản trị trong ngân hàng, hệ
thống quản trị tập trung sẽ cho phép khai thác dữ liệu một cách nhất quán,
nhanh chóng, chính xác.
Do đặc điểm có số lượng lớn các khách hàng cá nhân, nên các ngân
hàng kinh doanh bán lẻ đòi hỏi phải thực hiện xử lý nhiều nghiệp vụ qua hệ
thống máy tính điện tử, các phần mềm chuyên dụng, đồng thời cũng cần có cơ
sở hạ tầng tương xứng để phục vụ nhiều khách hàng, do đó, các NHTM
không thể triển khai, mở rộng hoạt động cung ứng sản phẩm dịch vụ, tiên tiến
hiện đại nếu cơ sở hạ tầng nghèo nàn. Bên cạnh đó, đội ngũ nhân viên có trình
độ cao nắm vững lý thuyết, hiểu biết về các công nghệ ngân hàng hiện đại và
thành thạo trong các hoạt động nghiệp vụ cũng là một đòi hỏi đặc thù của hoạt
động cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới.
Xét trên một số chỉ tiêu thì hoạt động bán lẻ và hoạt động bán buôn của
ngân hàng thương mại có sự khác biệt thể hiện dưới bảng sau:













Khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương
Nguyễn Kim Thư Kinh tế và kinh doanh quốc tế 43G
20

Bảng 1.1: So sánh hoạt động bán lẻ và hoạt động bán buôn của ngân hàng

Chỉ tiêu
Bán lẻ
Bán buôn
Đối tượng
khách hàng
Các cá nhân, hộ gia đình,
doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các trung gian tài chính,
doanh nghiệp lớn
Số lượng
khách hàng
Số lượng rất lớn
Chiếm tỷ lệ không lớn trong
tổng số khách hàng của
ngân hàng

Giá trị giao
dịch/khách
hàng
Nhỏ, không lớn
Lớn
Tính chất các
sản phẩm
dịch vụ
Đơn giản, thường xuyên, dễ
thực hiện. Có tính đại chúng
có thể áp dụng chung cho
nhiều khách hàng
Thường phức tạp hơn. Tính
cá biệt cho mỗi khách hàng
tuỳ theo đặc điểm, yêu cầu
của khách hàng
Mối quan hệ
với khách
hàng
Thiết lập trong quá trình
phục vụ và tuỳ theo loại sản
phẩm cung ứng mà mối
quan hệ giữa khách hàng và
ngân hàng có thể tăng lên và
mở rộng
Mối quan hệ khăng khít,
chặt chẽ và tìm hiểu lẫn
nhau giữa ngân hàng và
khách hàng
(Nguồn: Tổng hợp từ các nguồn tài liệu)

2. Vai trò hoạt động bán lẻ của NHTM
Các NHTM đang ngày càng nhận ra vai trò và những lợi thế mà hoạt
động bán lẻ mang lại, không chỉ đối với ngân hàng, mà nó còn đóng vai trò
quan trọng cho sự phát triển và tăng trưởng kinh tế - xã hội của mỗi nước và
của toàn cầu. Các NHTM Việt Nam đang mở rộng, phát triển hoạt động cung

×