Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Phát triển công nghiệp phụ trợ nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 113 trang )

Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


1
TRỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
***
















KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ NHẰM
TĂNG CỜNG THU HÚT ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NỚC
NGOÀI VÀO VIỆT NAM



Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Phương Thảo
Lớp : Anh 12
Khóa : 43C - KT&KDQT
Giáo viên hƣớng dẫn : ThS. Trần Thị Ngọc Quyên









Hà Nội – 06/2008
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


2
Danh mục các chữ viết tắt
Chữ viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
AFTA
ASEAN Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN
ASEAN
Association of Southeast
Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia

Đông Nam Á
FDI
Foreign direct investment
Đầu tư trực tiếp nước
ngoài
MNC
Multinational Coporation
Công ty đa quốc gia
SMEs
Small and medium-sized
Enterprises
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
CNH-HĐH

Công nghiệp hóa – Hiện
đại hóa
CNPT

Công nghiệp phụ trợ
DN

Doanh nghiệp
ĐTNN

Đầu tư nước ngoài
TNHH

Trách nhiệm hữu hạn
VN


Việt Nam
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


3
Danh mục bảng biểu

Bảng 1: 20 mặt hàng có kim ngạch xuất – nhập khẩu nhiều nhất của ASEAN
13
Bảng 2: Cơ cấu mua sắm các linh phụ kiện của các nhà lắp ráp xe máy Nhật
Bản (tính đến năm 2007) 46
Bảng 3: Số lượng các doanh nghiệp thuộc ngành dệt và may mặc phân loại theo
loại hình sở hữu. 69
Bảng 4: Đặc thù của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 69
Bảng 5: Tình hình phát triển của ngành xe máy 71
Bảng 6: Tình hình sản xuất và thực hiện nội địa hóa của Honda VN 72
Bảng 7: Thị phần các nhà lắp ráp xe máy 73
Bảng 8: Danh sách các doanh nghiệp liên doanh sản xuất FDI 74
Bảng 9: Tổng giá trị sản xuất các sản phẩm điện, điện tử của một số nền kinh tế
82
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


4
Lời mở đầu
1. Lý do lựa chọn đề tài:
Thuật ngữ “công nghiệp phụ trợ” mặc dù xuất hiện khá lâu tại các quốc
gia khác nhưng tại Việt Nam, thuật ngữ này chỉ trở nên phổ biến kể từ năm
2003, khi Chính phủ chỉ đạo các công đoạn chuẩn bị để tiến tới ký kết “Sáng
kiến chung Việt Nam – Nhật Bản nhằm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh

và tăng cường khả năng cạnh tranh của Việt Nam. Trong đó, hạng mục đầu tiên
là nhằm phát triển CNPT ở Việt Nam. Với sự kiện này, CNPT bước đầu đã đạt
được một số thành tựu nhất định.
Mặt khác, trong xu thế tự do hóa thương mại và đầu tư hiện nay, tỷ lệ nội
địa hóa 100% đã trở nên không thích hợp nữa và chính sách này đang dần được
bãi bỏ trước sức ép của toàn cầu hóa. Không một quốc gia nào có thể sản xuất
hoàn toàn trong nước theo kiểu kết hợp chiều dọc như một nền kinh tế đóng. Để
tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh toàn cầu, ngành công nghiệp của Việt
Nam cần phải kết hợp các đầu vào tốt nhất từ khắp nơi trên thế giới. Nhưng câu
hỏi then chốt là làm thế nào để để đạt được tỷ lệ nội địa hóa tối ưu – nên nội địa
hóa bộ phận nào và nên nhập khẩu bộ phận nào? Hay nói khác đi, ngành CNPT
nên được phát triển theo hướng nào để có thể tận dụng được tất cả những lợi thế
so sánh của Việt Nam và mang lại hiệu quả cao nhất của ngành này?
Câu hỏi này có mối quan hệ chặt chẽ với hành vi mua sắm của các doanh
nghiệp FDI. Ngành CNPT được coi là phát triển khi nó có thể đáp ứng được
những yêu cầu khắt khe của các doanh nghiệp FDI này. Hơn nữa, khi xem xét
trên quan điểm “động cơ nội địa hóa” của các doanh nghiệp FDI thì các doanh
nghiệp này đều thể hiện mong muốn có thể thu mua các linh – phụ kiện nội địa
nhằm giảm chi phí sản xuất, chi phí hậu cần, từ đó giảm giá thành sản phẩm,
nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm. Do vậy, phát triển CNPT nhằm đáp ứng
nhu cầu doanh nghiệp lắp ráp, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI, từ đó tăng
cường thu hút FDI là một hướng đi đúng đắn. Xuất phát từ những lí do trên, em
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


5
đã chọn đề tài “Phát triển Công nghiệp phụ trợ nhằm tăng cƣờng thu hút
vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam” làm nội dung nghiên cứu cho
khóa luận tốt nghiệp của mình.


2. Mục tiêu và nhiệm vụ của nghiên cứu của khóa luận:
Mục tiêu của khóa luận là chỉ ra con đường nào và đề xuất các giải pháp
phát triển CNPT nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt
Nam. Để thực hiện được mục tiêu trên, khóa luận cần phải thực hiện các nhiệm
vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về ngành CNPT ở Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng phát triển CNPT và khả năng đáp ứng nhu cầu về
sản phẩm phụ trợ đối với các doanh nghiệp FDI của Việt Nam trong
thời gian vừa qua.
- Trên cơ sở những phân tích trên, đề xuất một số giải pháp phát triển
CNPT từ đó tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Ngành CNPT ở Việt Nam trong mối liên hệ với
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu ngành CNPT từ những
năm 1990, khi CNPT bắt đầu trở nên phổ biến tại các nước Đông Á.
+ Về không gian: Ngành CNPT ở Việt Nam., cụ thể là ngành sản xuất ô
tô, ngành xe máy, ngành điện – điện tử, và ngành dệt may.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Để làm rõ những nội dung cơ bản đã đặt ra của khóa luận, trong quá trình
nghiên cứu, tác giả đã sử dụng một số phương pháp: kết hợp điều tra, thống kê,
tổng hợp, so sánh, và dự báo trong quá trình nghiên cứu.
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


6


5. Bố cục luận văn:
Luận văn được cấu trúc thành 3 chương với phần mở đầu, kết luận, danh
mục bảng biểu, chữ viết tắt, tài liệu tham khảo và mục lục.
Chương I: Tổng quan về ngành CNPT và đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương II: Thực trạng phát triển ngành CNPT nhằm tăng cường thu
hút FDI tại Việt Nam
Chương III: Giải pháp phát triển ngành CNPT nhằm thu hút FDI tại
Việt Nam trong thời gian tới
Do kiến thức còn nhiều hạn chế, nên trong quá trình tìm hiểu và nghiên
cứu, khóa luận không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến quý báu của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn Th.S Trần Thị Ngọc Quyên đã tận tình hướng
dẫn giúp em hoàn thành luận văn này.



Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


7
Chƣơng I: Tổng quan ngành công nghiệp phụ trợ và
đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài

1.1 Tổng quan về ngành công nghiệp phụ trợ
1.1.1 Khái niệm CNPT:
1.1.1.1. Sự ra đời của thuật ngữ CNPT:
“CNPT”-“Supporting Industries” là một thuật ngữ tiếng Anh do người
Nhật Bản nghĩ ra và được các doanh nghiệp Nhật Bản sử dụng đầu tiên rất lâu
trước khi trở thành một thuật ngữ chính thức. “CNPT” trở nên phổ biến ở Nhật
Bản vào giữa những năm của thập niên 1980 khi thuật ngữ này được sử dụng

trong một văn bản chính thức là “Sách trắng về hợp tác kinh tế 1985” (“White
Paper on Economic Cooperation 1985”) của Bộ Công Nghiệp và Thương mại
quốc tế Nhật Bản. Theo đó, thuật ngữ “Công nghiệp phụ trợ” được sử dụng để
đề cập đến “các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp vào việc củng cố cơ sở hạ
tầng công nghiệp tại các nước châu Á trong trung và dài hạn”, hoặc có thể được
đề cập theo một nghĩa khác là “các doanh nghiệp sản xuất các bộ phận hoặc
thành phần”. Mục đích của Bộ Công nghiệp và Thương mại Nhật Bản lúc đó là
nhằm đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa và sự phát triển của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại các nước ASEAN, đặc biệt là các quốc gia trong ASEAN 4 (In-
đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Philipines, và Thái Lan).
Hai năm sau, Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế Nhật Bản lại một
lần nữa giới thiệu thuật ngữ này tới các nước ASEAN thông qua Kế hoạch Phát
triển Công nghiệp Châu Á mới. Kế hoạch là sự hợp tác kinh tế toàn diện dựa trên
ba lĩnh vực: viện trợ, đầu tư và thương mại. Trong khuôn khổ bản Kế hoạch,
Chương trình phát triển CNPT Châu Á đã được công bố trong năm 1993 nhằm
giải quyết sự mất cân bằng thương mại, cơ sở hạ tầng còn chưa phát triển, sự
thiếu hụt nguồn nhân lực có chuyên môn tại các quốc gia thuộc ASEAN 4 và đẩy
mạnh hợp tác công nghiệp giữa Nhật Bản và các quốc gia này. Theo Chương
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


8
trình này, phạm vi của ngành CNPT được mở rộng từ các doanh nghiệp vừa và
nhỏ sang thành một ngành công nghiệp sản xuất các sản phẩm trung gian và máy
móc, trang thiết bị cho ngành công nghiệp lắp ráp mà không đề cập đến quy mô
công ty.
Một câu hỏi được đặt ra là tại sao thuật ngữ này xuất hiện ở Nhật Bản mà
không phải là một quốc gia nào khác, và vào giữa những năm 1980 mà không
phải là một thời điểm sớm hơn hay muộn hơn. Sự kiện đồng Yên lên giá và nỗ
lực phát triển nền tảng công nghiệp của Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế

Nhật Bản nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại các nước
châu Á có thể coi là sự giải đáp cho câu hỏi này. Đồng Yên đã lên giá một cách
đột ngột sau Hiệp ước Plaza vào tháng 9 năm 1985, từ mức giá 240 Yên đổi một
Đô là Mỹ vào tháng 9 năm 1985 đã lên mức 160 Yên đổi một Đô la Mỹ. Chính
điều này đã có ảnh hưởng to lớn lên các doanh nghiệp xuất khẩu Nhật Bản.
Đồng Yên lên giá làm cho các doanh nghiệp Nhật Bản giảm xuất khẩu các sản
phẩm hoàn thiện và chuyển việc sản xuất sang các quốc gia có mức chi phí lao
động thấp hơn. Mặc dù vậy, các nhà máy của Nhật Bản tại nước ngoài phải nhập
khẩu bộ phận và thành phần từ các nhà thầu phụ của họ tại Nhật Bản vì các nhà
cung cấp các bộ phận và thành phần thiết yếu không có sẵn tại các nước đang
phát triển, bao gồm các nước ASEAN 4. Theo đó, thuật ngữ “CNPT” được sử
dụng để chỉ sự thiếu hụt của các ngành công nghiệp này tại các quốc gia đó. Có
thể nói, sự lên giá của đồng Yên và nỗ lực của Bộ Công nghiệp và Thương mại
quốc tế Nhật Bản là điều kiện cần và đủ cho sự ra đời của thuật ngữ CNPT tại
Nhật Bản và các nước Châu Á.
1.1.1.2. Khái niệm Công nghiệp phụ trợ:
“Supporting Industries” theo nghĩa tiếng Việt có nghĩa là “Công nghiệp
phụ trợ”. Mặc dù thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia, nhưng
vẫn còn rất mơ hồ và không có đồng nhất trong định nghĩa. Việc “CNPT” được
hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm tất cả các ngành công nghiệp sản xuất các thành
phần và bộ phận của một sản phẩm hay là được hiểu theo nghĩa hẹp là các ngành
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


9
công nghiệp chỉ cung cấp các bộ phận, thành phận và các dụng cụ cho các ngành
công nghiệp nhất định phụ thuộc nhiều vào cách hiểu của người sử dụng thuật
ngữ.
Tuy nhiên, trên thực tế, mỗi quốc gia có một cách hiểu khác nhau và
không thống nhất về khái niệm CNPT.

Tại Thái Lan, người ta định nghĩa CNPT là các doanh nghiệp sản xuất các
thành phần và bộ phận được sử dụng trong quá trình lắp ráp cuối cùng của ngành
công nghiệp ô tô, máy móc và sản xuất điện tử (Nguồn Ratana, 1999:2). Trong
khi khái niệm “CNPT” của Thái Lan chỉ bó hẹp trong một số ngành công nghiệp
nhất định, Phòng Năng lượng của Mỹ định nghĩa CNPT là ngành công nghiệp
cung cấp nguyên liệu cần thiết để hình thành hoặc chế tạo nên các sản phẩm
trước khi được tung ra thị trường bán cho người tiêu dùng.
Ngoài ra còn có một cách hiểu khác về CNPT mang tính tổng quát nhất.
Nhìn hình 1 ta thấy khái niệm ngành CNPT có 3 phạm vi:
 Phạm vi cốt lõi là phạm vi nhỏ nhất;
 Phạm vi rộng 1 bao gồm phạm vi cốt lõi và các dịch vụ sản xuất;
 Phạm vi rộng 2 bao gồm phạm vi cốt lõi và máy móc, nguyên vật
liệu











Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


10

Hình 1: Phạm vi ngành công nghiệp phụ trợ


Nguồn: “Tổng quan về khái niệm và sự phát triển ngành CNPT”- Nguyễn Thị
Xuân Thủy thực hiện (2006)
Theo cách hiểu này, khái niệm cốt lõi định nghĩa CNPT là ngành công
nghiệp cung cấp bộ phận (parts), thành phần (components) và dụng cụ (tools) để
sản xuất ra hàng hóa cuối cùng (Assembly/Sub-assembly). Có hai phạm vi khái
niệm rộng hơn:
i) Khái niệm rộng 1 (broad scope 1): theo khái niệm này thì CNPT
được định nghĩa là ngành cung cấp các bộ phận, thành phần, dụng cụ
để sản xuất ra các bộ phận và thành phần đó, và các dịch vụ sản xuất
như dịch vụ hậu cần, dự trữ, phân phối và bảo hiểm.
ii) Khái niệm rộng 2 (broad scope 2): CNPT là ngành công nghiệp bao
gồm tất cả các đầu vào mang tính vật chất, bao gồm các bộ phận,
thành phần, dụng cụ, máy móc và nguyên vật liệu. Khái niệm này
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


11
giống như khái niệm mà Nhật Bản đã đưa ra trong Chương trình phát
triển CNPT tại các quốc gia châu Á vào năm 1993.
Mặc dù mỗi quốc gia có một cách hiểu khác nhau về CNPT nhưng có một
điểm chung: phạm vi cốt lõi của ngành CNPT là tạo ra các bộ phận, thành phần
cấu tạo trực tiếp nên sản phẩm lắp ráp cuối cùng.
Trong hoàn cảnh hiện tại của Việt Nam, với nguồn vốn đầu tư hạn chế, cơ
sở cho ngành công nghiệp (như hạ tầng cơ sở, nguồn nhân lực, công nghệ-kĩ
thuật…) còn chưa phát triển, sức ép từ phía hội nhập và cạnh tranh quốc tế, khái
niệm cốt lõi phù hợp với mục đích sử dụng để huy động mọi nguồn lực cho sự
phát triển của CNPT. Tuy nhiên, để phục vụ cho việc nghiên cứu và hoạch định
chính sách ở Việt Nam thì cần phải kết hợp một cách linh hoạt hai khái niệm
rộng đã đề cập bên trên. Khi đề cập đến CNPT tại Việt Nam, chúng ta cần phải

đề cập đến sản phẩm vốn (công cụ và máy móc) và các dịch vụ sản xuất (dịch vụ
hậu cần, lưu kho, phân phối và bảo hiểm) vì hai lĩnh vực này còn rất yếu và kém
tính cạnh tranh. Khi hai phạm vi này được bao hàm trong khái niệm CNPT thì
các nhà hoạch định chính sách sẽ cần phải hoàn thiện sản phẩm vốn và các dịch
vụ sản xuất nếu như muốn phát triển ngành CNPT.
Nói một cách khác, CNPT là một thuật ngữ đề cập đến một nhóm các hoạt
động công nghiệp cung cấp các đầu vào trung gian (không phải là nguyên vật
liệu thô và không phải là sản phẩm hoàn thiện). Các đầu vào trung gian này sẽ
được cung cấp cho các ngành công nghiệp chế biến sản phẩm đầu ra cuối cùng.
Khi đó, CNPT được đặt ở giữa quá trình sản xuất theo chiều dọc. Mặc dù được
gọi là một ngành công nghiệp nhưng CNPT không thể được hiểu như là một
ngành cụ thể giống như ngành điện tử, ô tô, may mặc, mà ngành CNPT là
ngành có mối liên hệ mật thiết với tất cả các ngành này.




Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


12
Hình 2: CNPT theo ngành công nghiệp sản xuất sản phẩm đầu ra

Nguồn: Phát triển ngành CNPT trong quá trình công nghiệp hóa tại Việt Nam-
Development of Supporting industries for Vietnam’s industrialization (Submitted
by Junichi Mori)-2003
Trong hình 2, ngành lắp ráp điện tử và ngành lắp ráp xe máy có chung
ngành CNPT là ngành chế biến nhựa và kim loại; ngành may mặc và da giầy
chung ngành CNPT là ngành dệt vải, làm da, và sản xuất phụ tùng; ngành chế
biến thức ăn sử dụng các hàng hóa nông-lâm-ngư nghiệp.

Một điều đáng chú ý nữa là phạm vi của CNPT không đề cập chính xác
tới quy mô của các doanh nghiệp trong ngành, chế độ sở hữu hoặc kiến trúc nền
sản xuất.
Hình 3: Ngành CNPT theo quy mô và chế độ sở hữu
DN nƣớc ngoài & DN liên doanh

Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DN xuất khẩu, DN lắp ráp và các
DN nƣớc ngoài khác




Doanh nghiệp vừa và nhỏ khác










Doanh nghiệp nước ngoài
và liên doanh trong ngành
CNPT






DN nhà
nước
trong
ngành
CNPT


DN vừa
và nhỏ
trong
ngành
CNPT
DN và nhỏ trong ngành
CNPT








Nguồn: “Tổng quan về khái niệm và sự phát triển ngành CNPT”- Nguyễn Thị
Xuân Thủy (2006)
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


13

Các doanh nghiệp này có thể là các doanh nghiệp trong nước, doanh
nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, các doanh nghiệp tư nhân lớn
mạnh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. Vì mục đích của CNPT là nâng
cao tính cạnh tranh của ngành công nhiệp nên CNPT thường chỉ bao gồm những
công ty có thể thỏa mãn tiêu chuẩn cao về chất lượng, chi phí và phân phối.
1.1.2. Đặc điểm của ngành CNPT
1.1.2.1. Là một ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn:
Trên thực tế, ngành CNPT đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn hơn ngành lắp ráp
cuối cùng. Trong khi các quy trình lắp ráp cuối cùng đòi hỏi nhiều nhân công thì
ngành CNPT lại đòi hỏi nhiều máy móc hơn và ít nhân lực hơn. Trong ngành sản
xuất bộ phận ô tô, sơn là một trong số hàng ngàn các bộ phận khác cấu tạo nên
một chiếc ô tô hoàn chỉnh. Sơn tưởng như là một khâu đơn giản, phụ thuộc chủ
yếu vào chất lượng sơn và không tốn kém về mặt máy móc và công nghệ, nhưng
trên thực tế, khi trả lời báo Vietnamnet, công ty Xuân Kiên cho biết họ đã phải
chi ra 120 tỷ đồng cho công nghệ sơn điện li. Ngoài ra, chi phí chuyển giao công
nghệ cho mỗi mẫu xe cũng có thể lên đến hàng trăm nghìn USD. Hơn nữa,
những máy móc trong ngành này lại không thể chia nhỏ được (một công ty
không thể mua 1/5 chiếc máy để tiết kiệm chi phí được). Một khi những máy
móc này được lắp đặt, chi phí vốn cho nhà máy sẽ không thay đổi dù cho chúng
có được hoạt động 24 tiếng một ngày và 365 ngày một năm, hay chỉ là trong một
khoảng thời gian nhỏ.
1.1.2.2. Đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao:
Nếu nhân công trong ngành lắp ráp, chế biến hay may mặc có thể là các
lao động phổ thông vì công việc lắp ráp hay may mặc là những công việc đơn
giản và có tính tuần hoàn, nhưng nhân công làm việc trong ngành CNPT hoàn
toàn khác. Trong các ngành CNPT có sử dụng đến máy móc thì nhân công chủ
yếu là những người vận hành máy móc, giám sát chất lượng, kĩ thuật viên hoặc
kĩ sư. Tất cả họ đều phải trải qua trường lớp đào tạo để có thể có đủ năng lực làm
việc với máy móc. Trong một số ngành như đúc, chế biến kim loại và phun
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp



14
nhựa, một số khâu còn đòi hỏi các nhân công có trình độ tay nghề cao và có
thậm chí phải khả năng tưởng tượng tốt.Cùng với sự phát triển của công nghệ -
kĩ thuật thì nguồn nhân lực cũng cần phải có sự tiến bộ về năng lực để có thể bắt
kịp được với sự phát triển đó. Chính vì đòi hỏi vốn lớn và nhân công có trình độ
nên ngành CNPT tại các nước đang phát triển có xu hướng kém cạnh tranh. Các
nước này không đủ vốn hoặc nhân công không có đủ năng lực để có thể hoạt
động tốt các máy móc sản xuất này.
1.1.2.3. Là ngành bao cung cấp đầu vào và máy móc, thiết bị cho các
ngành công nghiệp khác
Một sản phẩm lắp ráp hoàn thiện là kết quả của một quá trình sản xuất
phức tạp bao gồm nhiều bộ phận khác nhau. Mỗi bộ phận lại mang những đặc
điểm khác nhau, thuộc các ngành công nghiệp khác nhau. Chính vì vậy, thật dễ
hiểu khi nói rằng ngành CNPT là một ngành bao trùm một lượng lớn các ngành
công nghiệp khác. Trên thực tế, ngành công nghiệp điện tử, xe máy hoặc ô tô có
chung ngành CNPT như ngành phun nhựa, ép kim loại,…Các sản phẩm điện dân
dụng và xe máy đều sử dụng các bộ phận bằng nhựa được sản xuất thông qua
một quy trình sản xuất giống nhau được gọi là quá trình ép phun. Các bộ phận
kim loại nén được sử dụng cho các hàng hóa điện tử, xe máy và ô tô. Do đó
ngành CNPT có thể là một nguồn cung cấp ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của
các ngành sản xuất khác.
Hình 4: Những ngành CNPT cơ bản bao trùm nhiều ngành công nghiệp

Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


15
Trong hình vẽ trên, các bộ phận sản phẩm như: phụ tùng và linhh kiện,

đúc, rèn, khuôn nhựa và nguyên liệu là những sản phẩm trung gian thuộc ngành
CNPT và chúng là sản phẩm đầu vào trong nhiều ngành công nghiệp sản xuất
khác nhau: ô tô, điện tử, điện. Những sàn phẩm phụ trợ kể trên được coi là các
sản phẩm phụ trợ cơ bản vì chúng là sản phẩm đầu vào cho một số lượng lớn các
ngành công nghiệp khác.
1.1.2.4. Là ngành có giá trị gia tăng cao:
Giá trị gia tăng là khoản giá trị chênh lệch giữa đầu ra vào đầu vào của
một quá trình sản xuất công nghiệp. Tại các giai đoạn khác nhau của quá trình
sản xuất, giá trị gia tăng tạo ra sẽ khác nhau.
Hình 5: Chuỗi giá trị trong một ngành công nghiệp

Nguồn: Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa Việt Nam-
Giáo sự Trần Văn Thọ (2005)
Biểu đồ trên biểu diễn chu trình sáng tạo giá trị gia tăng trong một ngành
công nghiệp. Lí do khiến giá trị gia tăng trong ngành sản xuất linh-phụ kiện lớn
hơn trong ngành lắp ráp chính là do ngành CNPT có hàm lượng chất xám cao và
công nghệ hiện đại. Chính giá trị gia tăng cao đã lôi kéo được ngày càng nhiều
doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực CNPT. Nếu như trước đây, các nước ASEAN
và Trung Quốc chủ yếu phụ trách công đoạn lắp ráp, công đoạn giá trị gia tăng
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


16
thấp nhất, thì bây giờ họ đã leo thang lên trên thượng nguồn của chuỗi giá trị, đặt
biệt là giai đoạn sản xuất bộ phận, linh kiện (tức là di chuyển từ D lên C). Với
công nghệ ngày càng tiên tiến hiện đại, cộng với số lượng doanh nghiệp phụ trợ
ngày càng tăng, số lượng sản phẩm CNPT tại các quốc gia này ngày càng tăng,
không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu nội địa mà còn được xuất khẩu sang các nước
khác.
Bảng 1: 20 mặt hàng có kim ngạch xuất – nhập khẩu nhiều nhất của

ASEAN
.
Trên đây là 20 mặt hàng có kim ngạch xuất-nhập khẩu nhiều nhất của
ASEAN, phần lớn trong số này các sản phẩm CNPT, bao gồm các sản phẩm
trung gian và các sản phẩm máy móc. Điều này chứng tỏ ngành CNPT đang
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


17
khẳng định vai trò của nó trong nền kinh tế cũng như sức hấp dẫn của nó đối với
các nhà đầu tư.
1.1.2.5. Khả năng cạnh tranh của một sản phẩm phụ trợ phải đáp ứng
được ba yếu tố: chất lượng, chi phí và vận chuyển.
Theo như tiêu chuẩn của các nhà sản xuất Nhật Bản, tính cạnh tranh của
sản phẩm phụ trợ phụ thuộc vào chất lượng, chi phí và vận chuyển (QCD).
Trong ngành sản xuất lắp ráp máy móc, chi phí các bộ phận chiếm một
phần lớn trong tổng chi phí của các nhà sản xuất cuối cùng. Ví dụ, trong một bản
điều tra của Junichi Mori với các MNC trong lĩnh vực điện tử tại Ma-lai-xia và
Việt Nam năm 2004, đối với một nhà lắp ráp điện tử, chi phí các bộ phận cấu tạo
chiếm 80% của chi phí sản xuất, trong khi đó thì chi phí lao động chỉ chiếm
khoảng 2%. Nói một cách khái quát hơn nữa thì chi phí bộ phận thường chiếm
khoảng 70-90% so với chi phí lao động chỉ chiếm khoảng 10%. Theo đó, khả
năng cạnh tranh về mặt chi phí sẽ không thể đạt nếu như chi phí sản xuất ra các
bộ phận đó không được giảm.
Hơn nữa, các doanh nghiệp lắp ráp, đặc biệt là các doanh nghiệp lắp ráp
đến từ Nhật Bản yêu cầu vận chuyển với mật độ thường xuyên và đúng giờ
nhằm tối thiểu hóa chi phí lưu kho và thời gian quy trình sản xuất. Bình thường
thì các nhà lắp ráp luôn yêu cầu vận chuyển diễn ra hàng ngày, thậm chí đến
hàng giờ đối với nhiều doanh nghiệp sản xuất sản phẩm lắp ráp lớn. Việc vận
chuyển nhanh và kịp thời sẽ là không thể nếu các bộ phận này được nhập khẩu

vài tháng một lần hoặc là phải mất hàng nhiều ngày để có thể mang các bộ phận
này đến nhà máy. Vì vậy, các nhà lắp ráp cuối cùng muốn các nhà cung cấp
được đặt ở gần họ.
Một vấn đề nữa cũng ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của ngành
CNPT là chất lượng sản phẩm. Thậm chí nếu như các bộ phận được sản xuất
ra với giá rẻ thì các nhà lắp ráp cũng sẽ không bao giờ mua nếu như chất
lượng (và cả vận chuyển nữa) không được đảm bảo vì chất lượng sản phẩm
phụ trợ ảnh hưởng trực tiếp và nhiều nhất đến chất lượng sản phẩm cuối cùng.
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


18
1.1.3. Vai trò của ngành CNPT đối với sự phát triển của quốc gia:
1.1.3.1. Đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa theo hướng mở rộng và
chuyên sâu:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực chất là quá trình cải biến lao động
thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại nhằm phát
triển lực lượng sản xuất và thúc đẩy hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý để đạt
được tới năng suất lao động cao”. Vì một trong những tính chất của ngành CNPT
là ngành cung cấp đầu vào cho một số lượng lớn các ngành công nghiệp khác,
nên ngành CNPT phát triển chắc chắn sẽ góp một phần không nhỏ vào sự phát
triển của toàn bộ nền công nghiệp nói riêng và kinh tế nói chung. Theo khái
niệm của CNH, HĐH thì các yếu tố sau cần được thỏa mãn:
“Quá trình cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng
công nghệ tiên tiến hiện đại”, hay nói khác đi thì đây chính là quá trình chuyên
môn hóa. Phát triển CNPT giúp các doanh nghiệp không phải thực hiện mọi
khâu trong quá trình sản xuất ra một sản phẩm với khoản chi phí khổng lồ. Các
doanh nghiệp sẽ chuyển từ sản xuất theo chiều dọc sang sản xuất theo chiều
ngang. Với sự phát triển của CNPT, các doanh nghiệp chỉ cần tập trung vào
chuyên môn hóa vào khâu mà mình có khả năng làm tốt nhất với một mức đầu tư

chi phí hợp lý nhất. Các nhà lắp ráp hay chế biến sản phẩm cuối cùng sẽ không
phải lo nhập khẩu hoặc sản xuất đầu vào nữa vì họ có thể yên tâm vào các sản
phẩm đầu vào mua ngay trong nước. Kết quả là xã hội có sự phân công lao động
ngày càng sâu sắc.
“Sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại”: CNPT là một ngành đòi hỏi chi
phí cho máy móc, công nghệ lớn hơn bất kì một ngành công nghiệp nào khác.
Yếu tố công nghệ là một trơng những yếu tố quan trọng trong sự phát triển của
ngành CNPT. Những ngành như sản xuất linh kiện điện tử, linh kiện ô tô, xe
máy,… là những ví dụ điển hình của nhu cầu sử dụng công nghệ trong ngành
CNPT. Hơn nữa, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, cùng với sự phát triển
của công nghệ đang diễn ra hàng ngày trên toàn thế giới thì việc chuyển giao
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


19
công nghệ càng trở nên dễ dàng hơn. Với những nước đang phát triển, thì ngành
CNPT cần phải tận dụng lợi thế của người đi sau, tiết kiệm thời gian phát triển
công nghệ, mà thay vào đó là tiếp thu trực tiếp từ các nước có nền công nghiệp
phát triển thông qua hình thức FDI hoặc viện trợ ODA,… Chính vì thế, trong
quá trình HĐH-CNH, ngành CNPT là ngành có nhu cầu lớn nhất trong việc sử
dụng công nghệ hiện đạ lớn nhất.
“Hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý” Một cơ cấu kinh tế hợp lý là cơ
cấu kinh tế trong đó tỷ lệ nông nghiệp giảm, tỷ lệ công nghiệp và dịch vụ tăng
lên. CNPT là ngành bao trùm số lượng lớn các ngành công nghiệp khác nên
ngành này đang thu hút một số lượng lao động đáng kể. Hơn nữa, lao động trong
ngành này đòi hỏi phải là những lao động có tay nghề, có trình độ được đào tạo,
tiếp thu tốt công nghệ mới. Cùng với sự gia tăng của các doanh nghiệp đầu tư
trực tiếp nước ngoài, sẽ có một lượng lớn lao động trong nông nghiệp sẽ chuyển
sang làm việc cho các công ty trong ngành công nghiệp này vì thu nhập của họ
sẽ được cải thiện hơn. Người dân nhận thấy được lợi ích của đào tạo, giáo dục từ

đó làm động lực cho thế hệ sau không ngừng trau dồi thêm kiến thức. Kết quả là
cơ cấu lao động thay đổi, từ đó thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý hơn.
1.1.3.2. Một ngành CNPT cạnh tranh sẽ giúp nền kinh tế tăng trưởng
trong dài hạn:
Nếu như ba nhân tố cấu tạo nên tính cạnh tranh của một sản phẩm phụ trợ
được giải quyết thì ngành CNPT sẽ trở nên cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế trong dài hạn,vì:
Thứ nhất, một quốc gia với ngành CNPT cạnh tranh có thể duy trì nguồn
vốn FDI cho ngành lắp ráp cuối cùng tương đối lâu hơn một quốc gia không có
ngành CNPT cạnh tranh. Với xu hướng chi phí lao động ngày càng chiếm một tỷ
lệ nhỏ thì dù một nền kinh tế đang nổi với chi phí nhân công rẻ cũng không thể
đạt được công nghệ để sản xuất các đầu vào ở một mức giá cạnh tranh ngay lập
tức được. Theo đó, một nhà lắp ráp đa quốc gia có thể vẫn ở lại một quốc gia cho
dù quốc gia đó đang mất đi lợi thế về chi phí lao động, miễn là lợi ích mà họ
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


20
nhận được từ việc sử dụng các đầu vào cạnh tranh có thể bù đắp được chi phí lao
động đang tăng cao.
Thứ hai, sản phẩm của ngành CNPT có thể được xuất khẩu tới các quốc
gia mà ngành lắp ráp cuối cùng ở đó đang có nhu cầu.
Hình 6: Khả năng xuất khẩu của ngành CNPT

Nguồn: Báo cáo của Diễn đàn phát triển Việt Nam về CNPT tại Việt Nam từ
triển vọng của các doanh nghiệp sản xuất Nhật Bản (2006)
Có hai cách để xuất khẩu sản phẩm của ngành CNPT. Cách thứ nhất là
xuất khẩu gián tiếp. Các nhà cung cấp bộ phận sẽ cung cấp đầu vào cho các nhà
lắp ráp. Sản phẩm được xuất khẩu sẽ là sản phẩm hoàn chỉnh do các nhà lắp ráp
sản xuất. Khi đó một ngành CNPT cạnh tranh sẽ tạo ra các sản phẩm là các bộ

phận có chất lượng tốt, giá cả cạnh tranh và vận chuyển đúng thời gian, là cơ sở
tốt để các nhà lắp ráp có thể sản xuất ra các sản phẩm có đủ tiêu chuẩn xuất
khẩu. Cách thứ hai là xuất khẩu trực tiếp. Khi đó các bộ phận sản xuất ra sẽ được
xuất khẩu trực tiếp ra nước ngoài. Với khả năng cạnh tranh cao, các bộ phận xuất
khẩu sẽ đạt được giá cao và uy tín trên thị trường quốc tế.
Cuối cùng, sự phát triển của ngành CNPT sẽ tạo nên ảnh hưởng tích cực
trong việc thúc đẩy đổi mới công nghệ, từ đó cải thiện phúc lợi của một quốc
gia. Trong lý thuyết Khối kim cương, cùng với các yếu tố: điều kiện các yếu tố
sản xuất, các ngành hỗ trợ và có liên quan, điều kiện về cầu thì CNPT và các
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


21
ngành có liên quan cũng đóng góp vào việc hình thành khả năng cạnh tranh của
một quốc gia. Trong cuốn “Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia”, M.Porter đã
nhấn mạnh tầm quan trọng của CNPT mang tính cạnh tranh với vai trò là một
chất xúc tác quá trình đổi mới công nghệ tại các công ty xuyên quốc gia. Ngoài
ra, theo ông, đây còn là ngành tiếp nhận công nghệ mà các công ty đa quốc gia
chuyển vào. Thêm vào đó, CNPT nội địa có thể tận dụng lợi thế về không gian
địa lý để tạo nên dòng chảy thông tin nhanh hơn và trao đổi kĩ thuật cũng thuận
tiện hơn. Hơn nữa, M.Porter đề cập đến các công ty của một quốc gia sẽ hưởng
lợi nhiều nhất khi mà CNPT mang tính cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu mặc dù
một quốc gia không cần thiết phải có lợi thế cạnh tranh trong tất cả các ngành
CNPT nếu như quốc gia đó đã có những ngành chuyên môn hóa nhất định.
Nói tóm lại, ngành CNPT phát triển sẽ góp phần thu hút và giữ chân các
doanh nghiệp FDI, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm bằng cách xuất khẩu ra
thị trường quốc tế và thúc đẩy cải tiến công nghệ-kĩ thuật – những yếu tố tạo nên
một kinh tế tăng trưởng trong dài hạn
1.2. Tổng quan về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài:
1.2.1. Khái niệm FDI:

Vốn là một yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển của mọi quốc gia.
Đặc biệt đối với các quốc gia đang và kém phát triển, bên cạnh nguồn vốn trong
nước đóng vai trò quyết định, vốn đầu tư nước ngoài là một trong những nguồn
vốn bổ sung quan trọng. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, trong các hình thức đầu
tư quốc tế thì FDI là một trong những hình thức đầu tư đóng vai trò quan trọng
nhất.
Theo Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) thì FDI được định nghĩa như
sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước
(nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư)
cùng với quyền quản lý tài sản đó”. Theo khái niệm này, phương diện quản lý là
cách thức để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác.
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


22
Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund, IMF), Đầu Tư
Trực Tiếp Nước Ngoài (Foreign Direct Investment, FDI) Là một công cuộc đầu
tư ra khỏi biên giới quốc gia, trong đó người đầu tư trực tiếp (direct investor) đạt
được một phần hay toàn bộ quyền sở hữu lâu dài một doanh nghiệp đầu tư trực
tiếp (direct investment enterprise) trong một quốc gia khác. Quyền sở hữu này
tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phiếu mới được công nhận là FDI.
Theo Luật đầu tư 2005, Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư
bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Như vậy, theo khái niệm
này thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức do nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn
đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư tại một quốc gia khác.
Tóm lại, Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu
mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự
án nhằm giành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản
xuất hoặc kinh doanh dịch vụ.



1.2.2. Đặc điểm của FDI:
Thứ nhất, FDI là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư
tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về
lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những
ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
Thứ hai, chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư
nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh
nghiệp liên doanh tùy theo tỷ lệ lệ góp vốn của mình. Đối với nhiều nước trong
khu vực, chủ đầu tư chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài trong một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia với số vốn cổ phần
của bên nước ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 49%; 51% cổ phần còn lại do nước chủ
nhà nắm giữ. Trong khi đó, Luật đầu tư của Việt Nam cho phép rộng rãi hơn đỗi
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


23
với hình thức 100% vốn nước ngoài và quy định bên nước ngoài phải góp vốn
tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án.
Thứ ba, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp
nhận được công nghệ, kĩ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lí là những
mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được.
Thứ tư, nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của
chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định và trong quá trình hoạt động, nó còn
bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng
như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.
Thứ năm, thu nhập của chủ đầu tư không ổn định, phụ thuộc vào kết quả
kinh doanh
1.2.3. Phân loại FDI:
1.2.3.1. Theo hình thức pháp lý:

Theo Luật Đầu tư 2005, có các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ
yếu sau đây:
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do chủ đầu tư nước
ngoài đầu tư 100% vốn tại nước sở tại, có quyền điều hành toàn bộ doanh nghiệp
theo quy định của pháp luật tại nước sở tại. Theo quy định của pháp luật Việt
Nam, đối với những cơ sở kinh tế quan trọng do chính phủ quyết định, doanh
nghiệp Việt Nam trên cơ sở thỏa thuận với chủ doanh nghiệp mua lại vốn cổ
phần của vốn doanh nghiệp mua lại phần vốn của doanh nghiệp để chuyển thành
doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập do các chủ đầu
tư nước ngoài góp vốn chung với doanh nghiệp Việt Nam trên cơ sở hợp đồng
liên doanh. Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và
chịu rủi ro theo tỉ lệ góp vốn của mỗi bên vào vốn pháp định. Theo luật pháp
Việt Nam, phần góp pháp định của bên nước ngoài không bị hạn chế về mức
cao nhất nhưng không được ít hơn 30% vốn pháp định. Đối với những cơ sở sản
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


24
xuất quan trọng do Chính phủ quyết địnhh, các bên thỏa thuận tăng dần tỷ trọng
góp vốn của bên Việt Nam trong liên doanh.
Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO,
hợp đồng BT: các chủ đầu tư nước ngoài có thể có thể kí hợp đồng BCC với bên
Việt Nam trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh như hợp đồng chia lợi nhuận
hoặc phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân mới, hoặc các chủ đầu
tư có thể kí hợp đồng BOT, hợp đồng BTO và hợp đồng BT với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để thực hiện các dự án xây dựng mới, mở rộng, hiện đại hóa
và vận hành các dự án kết cấu hạ tầng trong lĩnh vực giao thông, sản xuất và
kinh doanh điện, cấp thoát nước, xử lý chất thải và các lĩnh vực khác do Thủ
tướng Chính phủ quy định.

Trong hình thức đầu tư phát triển kinh doanh, nhà đầu tư được đầu tư
phát triển kinh doanh thông qua các hình thức: mở rộng quy mô, nâng cao công
suất, năng lực kinh doanh; hoặc đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản
phẩm, giảm ô nhiễm môi trường.
Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư và đầu
tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp là hai hình thức đầu tư trực
tiếp nước ngoài còn khá mới mẻ tại Việt Nam. Theo đó, các nhà đầu tư nước
ngoài giành được quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp bằng cách góp
lượng cổ phần hoặc vốn đủ lớn hoặc bằng cách sáp nhập và mua lại doanh
nghiệp Việt Nam.
1.2.3.2. Theo động cơ của nhà đầu tư:
Vốn tìm kiếm tài nguyên: Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào ở nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động rẻ
hoặc nguồn lao động có kỹ năng chuyên môn. Nguồn vốn loại này còn nhằm
mục đích các tài sản sẵn có thương hiệu (ví dụ như các điểm du lịch nổi
tiếng,…), tài sản trí tuệ, nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào,…
Vốn tìm kiếm hiệu quả: Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu
vào kinh doanh thấp ở nước tiếp nhận như giá nguyên liệu rẻ, giá các yếu tố sản
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp


25
xuất như điện nước, chi phí thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng sản
xuất kinh doanh rẻ, thuế suất ưu đãi, v.v…
Vốn tìm kiếm thị trường: Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị
trường sang quốc gia khác hoặc giữ thị trường khỏi bị đối thủ cạnh giành mất.
Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn nhằm tận dụng các hiệp định hợp tác kinh tế
giữa nước tiếp nhận với các nước và khu vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn
đạp để thâm nhập vào các thị trường khu vực và toàn cầu.
Vốn tìm kiếm tài sản chiến lược: Đây là vốn chiến lược được đầu tư nhằm

mục đích ngăn cản các đối thủ đạt được nguồn tài nguyên tại các quốc gia nhận
đầu tư. Ví dụ như các nhà sản xuất dầu mỏ, họ có thể không cần dầu mỏ trong
thời gian hiện tại, nhưng họ vẫn đầu tư trước các đối thủ của họ vào mặt hàng
thiết yếu này.
1.2.3.3. Phân loại theo dạng đầu tư:
- Đầu tư mới (Greenfield Investment)
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài được sử dụng để xây dựng các doanh
nghiệp mới hoặc phát triển thêm các doanh nghiệp có sẵn trong nước. Đây là
phương thức các quốc gia nhận FDI thích nhất vì tạo được thêm công ăn việc
làm cho người trong nước, nâng cao sản lượng, chuyển giao kỹ thuật cao cấp,
đồng thời tạo được mối liên hệ trao đổi với thị trường thế giới.
Những mặt yếu của đầu tư mới là có thể “bóp nghẹt” sản xuất trong nước
vì nhờ khả năng cạnh tranh cao hơn về kỹ thuật và hiệu quả kinh tế, đồng thời
làm khô cạn tài nguyên trong nước. Ngoài ra, một phần lợi nhuận quan trọng sẽ
chảy ngược về công ty mẹ.
- Sáp nhập và tiếp thu (Mergers and acquisitions)
Xảy ra khi tài sản của một doanh nghiệp trong nước được chuyển giao cho
một doanh nghiệp nước ngoài. Hình thức chuyển giao có thể là một sự sáp nhập
(merge) giữa một công ty trong nước và một công ty nước ngoài để tạo thành
một doanh nghiệp với một tư cách pháp nhân mới. Doanh nghiệp mới này bắt
đầu có tính cách đa quốc gia. Trường hợp sáp nhập với công ty nước ngoài, phần

×