Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Đề cương chuyên đề lịch sử đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.45 KB, 15 trang )

ĐỀ CƯƠNG CHUYÊN ĐỀ LỊCH SỬ ĐẢNG
Câu 1: Quá trình hình thành và xác lập đường lối cách mạng dân chủ nhân
dân?
1. Quá trình hình thành
Ngày 30/12/1930 là thời điểm đánh dấu NAQ từ chủ nghĩa yêu nước tiếp thu
chủ nghĩa Mác – Lênin và trở thành người cộng sản đầu tiên của VN. Từ đây học
thuyết Mác – Lênin được Người vận dụng và sự nghiệp đấu tranh GPDT VN, mà kết
quả trong những năm đầu là phát triển thêm những luận điểm về CM thuộc địa.
- Muốn cứu nước và GPDT khơng có con đường nào khác con đường CMVS.
Vấn đề dân tộc phải kết hợp chặt chẽ với vấn đề giai cấp của GCVS. ĐLDT phải gắn
liền với CNXH.
- CMVS ở chính quốc và CM thuộc địa đều có tầm chiến lược quan trọng ngang
nhau. Khơng thể coi nhẹ cuộc cách mạng này hay cuộc cách mạng kia.
- Các dân tộc thuộc địa phải tự giải phóng mình, khơng thể ỷ lại, trơng chờ ở các
lực lượng bên ngồi.
- CM một nước thuộc địa có khả năng thắng lợi trước, không những không lệ
thuộc, chờ đợi vào CMVS ở chính quốc mà cịn tác động tích cực đến CMVS ở chính
quốc.
- Các nước ĐD có cùng hồn cảnh quan hệ khăng khít với nhau, nhưng mỗi dân
tộc phải tự quyết định vấn đề của đất nước mình, phải thực hiện quyền dân tộc tự
quyết, phải phát huy tinh thần dân tộc của từng nước, nhưng cần xây dựng khối đoàn
kết chiến đấu giữa 3 nước anh em.
- Những người u nước chân chính có thể tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin để
thành người cộng sản. Đây là một bộ phận quan trọng trong thành lập ĐCSVN.
- Đạo đức cách mạng là cái “Gốc” của người cách mạng, trước hết phải rèn
luyện tư cách người cách mạng.
> Kết quả đầu tiên là sự ra đời “ Bản án chế độ thực dân Pháp” 1925. Bản án
chế độ TDP chưa phải là đường lối chính trị nhưng cũng khơng chỉ là bản cáo trạng
đơn thuần mà cịn chỉ ra con đường thực hiện bản án, đặt những viên đá đầu tiên tạo
nền tảng cho sự nghiệp GPDT thuộc địa, cho con đường CMDTDCND.
Bản án chế độ TDP và những tài liệu khác bí mật chuyển tới thanh niên yêu


nước VN bấy giờ như ngôi sao chỉ đường trong đêm tối. Ánh sáng của nó đã hưởng tư
duy cả một thế hệ yêu nước về phía con đường CM tiên tiến nhất, khoa học nhất. Nhờ
đó, khi NAQ về đến Quảng Châu đã thành lập Hội VN cách mạng thanh niên một cách
nhanh chóng. Đây là bước tiến quan trọng của con đường CMVN được đánh dấu bằng
sự ra đời của tác phẩm “Đường kích mệnh” (1927).
“Đường kách mệnh” là đề cương những bài giảng của NAQ từ năm 1925 huấn
luyện cho Hội VN cách mạng thanh niên, không phải là những nguyên li thuần túy mà


lại là kết quả vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn VN để hình thành những
vấn đề cơ bản của đường lối CM.
Mục tiêu của CM là đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Quyền lợi
của CM phải đem lại cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế
mới khỏi hy sinh làm CM nhiều lần, dân chúng mới được hưởng hạnh phúc. CMTS
Mỹ và CMTS Pháp trước đây đều khơng triệt để, chỉ có CM Nga là thành công và
thành công triệt để, nghĩa là dân chúng được hưởng hạnh phúc và tự do, bình đẳng thật
khơng phải tự do, bình đẳng giả dối như đế quốc Pháp khoe khoang ở VN. Từ so sánh
mục tiêu của các cuộc cách mạng lớn trên thế giới Người khẳng định phải đi theo cách
mạng Nga, tức theo chủ nghĩa Mác-Lenin.
Về lực lượng CM, Người nhấn mạnh công nông là gốc CM, là chủ CM trong đó
GCCN phải đóng vai trị lãnh đạo. Cịn học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn
của công nông. Sĩ, nông, công thương, phụ nữ, trẻ em đều tham gia CM được, khơng
phân biệt giai cấp, tuổi tác... Do đó, Người nhấn mạnh phải làm cho dân đoàn kết lại,
đồng tâm hiệp lực làm CM, CM là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc
một hai người, ai ai cũng phải hiểu rõ vì sao phải làm, ai ai cũng phải gánh một vai và
làm ngay không nên người này ngồi chờ người khác.
Về phương thức hoạt động, Người nhắn nhủ: phải giác ngộ, tổ chức quần chúng
phải giảng giải lí luận và chủ nghĩa Mác – Lênin cho dân hiểu, phải bày sách lược cho
dân, CM phải biết cách làm thì làm mới thành cơng. Dân khí mạnh thì dùng súng ống
nào cũng khơng chống lại nổi. Người cịn dành một phần quan trọng trình bày các hình

thức tổ chức quần chúng của Quốc tế cộng sản để hướng dẫn phương pháp tổ chức
quần chúng trong CMVN.
> Đường kích mệnh có giá trị trên nhiều lĩnh vực nhưng trước hết vẫn là hình
thành đường lối CMDTDCND ở VN khi Đảng cịn ở thời kì tiền thân. Nhờ đó, khi
Đảng ra đời liền có một đội ngũ những người cộng sản đã cùng đi trên con “Đường
kách mệnh" do Người khai phá nên nhanh chóng hợp nhất và đồn kết để thành
ĐCSVN vững mạnh.
2. Xác lập đường lối cách mạng
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã diễn ra một cách thuận lợi. Các thiên
kiến hẹp hỏi nhanh chóng được khắc phục nhờ vai trị chủ trì của NAQ "Chánh vắn tắt
Sách lược vắn tắt”, “Chương trình tóm tắt" đã được thông qua hội nghị và trở thành
đường lối CMDTDCND chính thức của ĐCSVN Đây là sự kế tục và nâng cao những
quan điểm của “Đường kách mệnh". Tuy là vắn tắt” nhưng đã xác định một hệ thống
đầy đủ những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược CMVN, vì vậy được gọi là
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta với nội dung:
- Mục tiêu con đường xuyên suốt của ĐCSVN là “làm tư sản dân quyền CM và
thổ địa CM để đi tới xã hội cộng sản”.
- Nhiệm vụ của CMTS dân quyền và thổ địa CM là: đánh đổ chủ nghĩa đế quốc
Pháp và bọn phong kiến làm cho nước VN được hoàn toàn độc lập.


-Lực lượng chủ yếu của CM là công nhân và nông dân, phải làm cho GCCN
lãnh đạo được dân chúng. Ngồi ra, Đảng phải hết sức lơi kéo tiểu tư sản, trí thức,
trung nơng, kể cả thanh niên và Tân Việt đi về phe GCVS.
- Về quan hệ quốc tế, Cương lĩnh xác định phải liên kết với những dân tộc bị áp
bức và quần chúng vô sản trên thế giới, nhất là với quần chúng vô sản Pháp.
- Đảng được thành lập lấy tên là ĐCSVN. Đảng là đội tiên phong của GCVS và
phải đủ năng lực lãnh đạo quần chúng. Điều lệ Đảng xác định bản chất và vai trò của
Đảng, điều kiện vào Đảng, hệ thống tổ chức, sinh hoạt và kỉ luật của Đảng. Quyết định
của Hội nghị là thành lập đảng riêng từng dân tộc trên bán đảo ĐD.

Những vấn đề cơ bản của đồng lối CMDTDCND trong Hội nghị thành lập Đảng
đã được lịch sử chứng minh là đúng đắn và sáng tạo. Vì nó phù hợp với li luận CM
thuộc địa và quan điểm về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, phù hợp với đặc
điểm xã hội VN và đáp ứng đúng nguyện vọng độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân
dân VN, trước hết là công nhân và nông dân..
> Đường lối CM DTDCND được xác định đúng đắn ngay từ khi Đảng mới
được thành lập, vừa là nền tảng bổ sung, phát triển về sau, vừa soi sáng con đường của
CMVN.
Câu 2: Những đổi mới căn bản về biện pháp tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ quá độ được xác định trong Đại hội VI?
Với phương pháp tư tưởng khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin: xuất phát từ
thực tế khách quan, ĐH lần thứ VI của Đảng đã đánh giá thực trạng đất nước với tinh
thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật”, chỉ ra tình trạng
khủng hoảng về kinh tế - xã hội và những ngun nhân của tình trạng đó. Đại hội
khơng xem nhẹ những nguyên nhân khách quan nhưng đặc biệt nhấn mạnh những
nguyên nhân chủ quan nằm trong sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí của nhà nước.
Đại hội chỉ rõ: đó là “những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính
sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”. “Khuynh hướng tư
tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế là
bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo
nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng bng lỏng trong quản lí kinh tế, xã hội,
không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng. Đó là tư tưởng tiểu
tư sản vừa “tả” khuynh vừa hữu khuynh”, những sai lầm nói trên bắt nguồn từ khuyết
điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ Đảng”.
Từ thực tiễn Cách mạng xã hội chủ nghĩa thời kì quá độ, ĐH VI rút ra 4 bài học
kinh nghiệm:
Một là, trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng phải qn triệt tư tưởng lấy dân
làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan.



Bà là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều
kiện mới.
Bốn là, phải chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một
đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc CM XHCN.
Đại hội quán triệt tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng
thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc VN XHCN, và xác định “nhiệm vụ
bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn
định mọi mặt tình hình kinh tế xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho
việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa XHCN trong chặng đường tiếp theo".
Trong những phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế - xã hội, nổi lên một
số biện pháp lớn như sau:
- Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, “dứt khoát sắp xếp lại
nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lí, trong đó các ngành, các vùng, các thành phần
kinh tế, các loại hình sản xuất có quy mơ và trình độ kĩ thuật khác nhau phải được bố
trí cân đối, liên kết với nhau, phù hợp với điều kiện thực tế, bảo đảm cho nền kinh tế
phát triển ổn định”. Trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên phải tập trung
“thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về: lương thực thực phẩm hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu". Đó chính là sự “cụ thể hóa nội dung chính của cơng nghiệp
hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên đã được ĐH lần thứ VI của Đảng xác định”.
- Xây dựng và củng cố QHSX XHCN và sử dụng cải tạo đúng đắn các thành
phân kinh tế, coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kì
quá độ. ĐH nhận thức rằng xây dựng QHSX XHCN là “công việc to lớn, không thể
làm xong trong một thời gian ngắn”. Đẩy mạnh cải tạo XHCN phải có hình thức và
bước đi thích hợp và phải làm trong thời gian dài. Đại hội xác định “đẩy mạnh cải tạo
XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt TKC lên CNXH, với những hình
thức và bướm đi thích hợp, làm cho QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của
LLSX, ln ln có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của LLSX
- Phương hướng đổi mới cơ chế quản lí là: xóa bỏ tập trung quan liêu bao cấp,

xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền
kinh tế. “Nền kinh tế phải được quản lí bằng các phương pháp kinh tế là chủ yếu”,
thực hiện chính sách phân phối chủ yếu là theo kết quả và hiệu quả kinh té...
> Đại hội lần thứ VI của Đảng là bước trưởng thành vượt bậc trong nhận thức
về cơ cấu kinh tế, về cơng nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên, thừa nhận
sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đại
hội chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với những hình thức
sản xuất kinh doanh thích hợp, coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội,
chăm lo toàn diện và phát huy yếu tố con người... “Đại hội VI là cột mốc lịch sử quan
trọng trong sự nghiệp CM XHCN của nhân dân ta”.
Câu 3: Đường lối đối ngoại được xác định tại Đại hội XII và những điểm
mới?


* Đường lối đối ngoại được xác định tại ĐH XII
Đại hội XII của Đảng đã đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại,
chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững mơi trường hịa bình và tạo điều thuận lợi để phát
triển đất nước. Đảng ta xác định đây là một trong những giải pháp quan trọng để phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020; đồng thời là sự thể hiện nhận thức, đánh giá
của Đảng ta về vai trò to lớn của cơng tác đối ngoại trong tình hình mới.
Kế thừa quan điểm chỉ đạo về đối ngoại của các kỳ Đại hội trước đây, Đại hội
XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra chủ trương có tính bước ngoặt về đường
lối đối ngoại trong điều kiện mới, thể hiện trên một số nội dung sau:
- Thứ nhất, Đảng ta đã gắn nhận định về tình hình thế giới, khu vực và thực tiễn
của thời đại để xác định mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ đối ngoại trong những năm tới.
+ Đảng ta đã nhận định: “Nhận thức đúng về xu thế của thời đại và cục diện thế
giới, khu vực, Đảng, Nhà nước đã có định hướng chỉ đạo và các chính sách đúng đắn,
kịp thời trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc”
- Thứ hai, Đại hội XII của Đảng đã đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động

đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững mơi trường hịa bình và tạo điều thuận
lợi để phát triển đất nước.
+ Đảng ta xác định đây là một trong những giải pháp quan trọng để phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020; đồng thời là sự thể hiện nhận thức, đánh giá của
Đảng ta về vai trò to lớn của cơng tác đối ngoại trong tình hình mới.
- Thứ ba, về mục tiêu và nhiệm vụ của đối ngoại, Đảng ta đã xác định trong văn
kiện Đại hội XII: mục tiêu tối thượng là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở
các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.
+ Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và
phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế; là bạn là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng
quốc tế
- Thứ tư, Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định phương châm và định hướng
lớn của hoạt động đối ngoại là “Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế”
- Thứ năm, Đảng lãnh đạo thống nhất, Nhà nước quản lý tập trung đối với các
hoạt động đối ngoại tạo nên diện mạo đa dạng với nội dung và hình thức phong phú
của đối ngoại Việt Nam trong tình hình mới.
- Thứ sáu, Đảng ta rất chú trọng hoạt động đối ngoại với các Đảng anh em, góp
phần định hướng, giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa Việt Nam với một
số nước, nhất là các nước láng giềng.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ mới với thế và lực mới do những thành tựu và
kinh nghiệm 30 năm đổi mới mang lại, với vị thế ngày càng nâng cao trên trường quốc


tế, cơ hội rất lớn và thách thức cũng không nhỏ. Đường lối đối ngoại đổi mới của
Đảng qua các kỳ Đại hội nhất là Đại hội XII đã thể hiện sự nhất quán, sáng tạo và hệ
thống với tầm cao mới.
* Điểm mới của đường lối đối ngoại tại Đại hội XII

- So với Đại hội XI, Đại hội XII đã bổ sung vào chủ đề nội dung “bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định” để nhấn mạnh tầm quan trọng
của công tác đối ngoại trong tổng thể đường lối phát triển đất nước và đồng thời nêu rõ
hai nhiệm vụ quan trọng nhất của đối ngoại là bảo vệ Tổ quốc và giữ vững mơi trường
hịa bình, ổn định để triển khai các nhiệm vụ xây dựng đất nước trong 5 năm tới và các
năm tiếp theo.
- Văn kiện Đại hội XII cũng đề cập rõ hơn và ở mức cao nhất mục tiêu đối
ngoại. Lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được nêu trong
Văn kiện Đại hội XI. Văn kiện Đại hội XII làm rõ hơn và phát triển thành “Bảo đảm
lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.”
- Lần đầu tiên, phương châm chỉ đạo các hoạt động đối ngoại được nêu rõ hơn.
Văn kiện Đại hội Đảng khẳng định phương châm đối ngoại “vừa hợp tác, vừa đấu
tranh.” Trước đó, phương châm này đã được nêu trong nghị quyết Trung ương VIII
(2003), nhưng ở tầm văn kiện Đại hội toàn quốc của Đảng, đây là lần đầu tiên Đảng ta
khẳng định phương châm này để nhấn mạnh tính chất hai mặt, đan xen và theo đó là
sự linh hoạt trong quan hệ đối ngoại.
- Ngoài ra, Văn kiện lần đầu tiên nêu rõ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.” Điều đó có nghĩa là lần đầu
tiên Đảng ta cụ thể hóa nội hàm của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
- Đặc biệt, văn kiện Đại hội XII đã nhấn mạnh yêu cầu phát triển công tác đối
ngoại đa phương, đặt ra yêu cầu mới: công tác đối ngoại đa phương không chỉ phải
chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia,” nhất là vào quá trình xây dựng
và định hình các quy tắc và luật lệ mới, mà còn phải phát huy vai trò của Việt Nam tại
các cơ chế đa phương. Định hướng này cũng chỉ rõ các cơ chế đa phương được ưu tiên
trong 5 năm tới là ASEAN và Liên hợp quốc.
Câu 4: Vai trò của Đảng CSVN đối với hệ thống chính trị?
Hệ thống chính trị là một phạm trù dùng để chỉ một chỉnh thể bao gồm nhà
nước, các đảng phái chính trị hợp pháp, các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp nhưng

ưu thế cơ bản là vai trò chủ đạo thuộc về các thiết chế của giai cấp cầm quyền để tác
động vào các quá trình kinh tế - xã hội nhằm củng cố, duy trì và phát triển chế độ xã
hội đương thời.
* Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị


Đảng CSVN giữ vai trị lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội. Sự lãnh đạo
của Đảng đối với hệ thống chính trị là vấn đề có tính nguyên tắc xuất phát từ quy luật
đấu tranh giai cấp đấu tranh dân tộc trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trước hết bắt nguồn từ vai trò lịch
sử của giai cấp công nhân trong thời đại mới. Với tư cách là “đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao động và
của dân tộc”, Đảng Cộng sản Việt Nam được lịch sử giao phó lãnh đạo cách mạng
nước ta, mà thơng qua hệ thống chính trị để tổ chức toàn xã hội là cách thức hiệu quả
nhất.
- Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống chính trị ln được
thể hiện trong các bản hiến pháp. Cụ thể vai trò của đảng cộng sản việt nam đã được
khẳng định trong Khoản 1 Điều 4, Hiến pháp năm 2013: “Đảng Cộng sản Việt Nam –
Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”
- Sự lãnh đạo của Đảng là tất yếu khách quan nhằm đảm bảo hệ thống chính trị
được vận hành đúng hướng, giữ vững bản chất cách mạng của chế độ, phối hợp đồng
bộ và phát huy được sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi mục tiêu nhiệm vụ cách
mạng ở từng thời điểm lịch sử cụ thể.
- Trên một góc độ khác, hệ thống chính trị được hình thành và phát triển gắn
liền với việc xây dựng thể chế chính trị mới, thực hiện và phát triển nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Như Đảng ta đã chỉ rõ, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục

tiêu, vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội, trong đó hệ thống chính trị được quan niệm
như một cơ cấu tổ chức quyền lực tối ưu, tạo ra những điều kiện rộng lớn để các tầng
lớp nhân dân tham gia quản lý nhà nước và quản lý xã hội.
- Theo quan điểm thống nhất, sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định đảm
bảo tính thống nhất trong cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành (theo chức năng nhiệm vụ),
có khả năng phát huy một cách tối ưu tính chủ động sáng tạo của các tổ chức hợp
thành, đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ trong mối quan hệ biện chứng giữa các bộ
phận trong hệ thống chính trị và nhờ đó tạo nên sức mạnh tổng hợp.
- Tiến trình dân chủ càng phát triển, hệ thống chính trị càng mở rộng với các
chức năng ngày càng tăng lên, đòi hỏi sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng.
Trên thực tế, bất cứ một thực thể chính trị nào muốn tồn tại với tính chất một tổ chức
có cấu trúc chỉnh thể đều phải tuân thủ quy luật của tổ chức, mà trong hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa trước hết là thực hành chế độ tập trung - dân chủ. Nguyên tắc này
được Lênin chỉ ra “tập trung dựa trên nền tảng dân chủ, tập trung để đảm bảo dân chủ
theo mục tiêu và lợi ích chung của tổ chức của cả cộng đồng xã hội”.


- Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là bộ phận lãnh
đạo toàn diện hệ thống chính trị nhằm đảm bảo giữ vững bản chất của chế độ, tăng
cường vai trò quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị được thực hiện một cách toàn
diện trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
trước. hết bằng đường lối chính trị với việc xác định rõ mục tiêu nhiệm vụ cách mạng
trước mắt và lâu dài; để ra các chủ trương, chính sách đúng đắn, tạo mọi điều kiện để
Nha nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phát huy vai trị chủ động sáng tạo trong
việc thể chế hố đường lối của Đảng, làm tốt chức năng quản lý và huy động sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân hoàn thành tốt mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.
Câu 5: Chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế chính trị tại Đại hội XII ?
Quan điểm về hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa:

- Kể từ khi đổi mới, Đảng chú trọng nghiên cứu lý luận, đổi mới nhận thức, có
nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp xây dựng, hồn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Văn kiện các Đại hội Đảng X, XI, XII đều ln
coi vấn đề hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước.
- Đại hội X nêu lên những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và đề ra nhiệm vụ “hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội XI thông qua Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, trong đó coi “hồn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập mơi trường cạnh tranh bình đẳng và
cải cách hành chính” là một trong ba đột phá chiến lược. Đại hội XII khẳng định “tiếp
tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là
một nhiệm vụ tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2016 - 2020. Điều này
cho thấy Đảng đã nhận thấy và tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của việc tạo lập và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường để phát triển kinh tế đất nước. Bởi vì một thể chế
kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu
lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mơ.
- Cụ thể hóa quan điểm và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị
Trung ương 6 khóa X đã ra Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 30-01-2008, về “Tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nghị quyết đã xác
định mục tiêu, quan điểm, chủ trương và giải pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến năm 2020.
- Nghị quyết xác định, mục tiêu chung của việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của
kinh tế thị trường, nhằm: thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững,
hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện
thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.



- Các quan điểm chủ đạo cũng đã được khẳng định như: Nhận thức đầy đủ, tôn
trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ
quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam, bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa của nền kinh tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể
chế kinh tế; giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường; giữa thể chế kinh tế với
thể chế chính trị, xã hội; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; nâng cao năng lực lãnh
đạo của Ðảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả
hệ thống chính trị trong q trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
- Về các chủ trương và giải pháp, Nghị quyết Trung ương 6, khóa X cũng nhấn
mạnh, cần:
+ Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta.
+ Hoàn thiện thể chế về sở hữu, thể chế về phân phối, phát triển các thành phần
kinh tế, các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất, kinh doanh.
+ Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng
bộ các loại thị trường.
+ Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội
trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ mơi trường.
+ Hồn thiện thể chế nâng cao vai trò lãnh đạo của Ðảng, hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước về kinh tế, tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội,
các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và của nhân dân vào quá trình phát triển kinh tế - xã
hội.
- Đại hội XII xác định mục tiêu: “Đến năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện
đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu
chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính
đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường”. Nhấn
mạnh tính hiện đại và hội nhập của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là sự khẳng định nhận thức của Đảng về việc tuân thủ các chuẩn mực chung của thế
giới để phát triển và quan trọng hơn là sự tuân thủ các cam kết quốc tế đã ký, nỗ lực

cải cách thể chế kinh tế bên trong, đáp ứng các tiêu chí để được cơng nhận là nền kinh
tế thị trường đầy đủ. Thuộc tính mới này đặt ra cho chúng ta yêu cầu phải tiếp tục hoàn
thiện thể chế phát triển; đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế nhằm
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả.
- Về các nhiệm vụ cụ thể cần thực hiện đến năm 2020 để tiếp tục hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường, các văn kiện Đại hội Đảng, nghị quyết Trung ương đều thống
nhất với các nội dung cơ bản như:
+ Tiếp tục thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.


+ Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các
loại hình doanh nghiệp.
+ Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường
+ Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
+ Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước về kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh
tế - xã hội.
> Tóm lại, cùng với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Đảng có chủ trương nhất quán về xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế cho
nền kinh tế này. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gồm hệ thống
các bộ quy tắc kinh tế thị trường, được các chủ thể kinh tế thị trường khác nhau (gồm
nhà nước, doanh nghiệp, hiệp hội, người dân…) vận hành với các cơ chế, cách thức
được xác định rõ theo hướng vừa bảo đảm phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường,
vừa bảo đảm cơng bằng xã hội và phát huy vai trị tích cực trong hỗ trợ phát triển của
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Câu 6: Phương hướng xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ lên CNXH được
thông qua tại Đại hội XIII?
Cương lĩnh năm 1991 viết bảy phương hướng cơ bản. Cách viết như Cương lĩnh
năm 1991 đề cập đến cả định hướng phát triển, nên có nhiều nội dung trùng với nội

dung đề cập ở mục III và IV. Đại hội X, qua tổng kết 20 năm đổi mới đã viết gọn lại.
Kế thừa cách viết như Đại hội X, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác
định: Cần quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường (So với Đại hội X thêm cụm từ “gắn với
phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường”.)
Nhìn nhận cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là vấn đề cơ bản của việc phát triển
mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Xem xét cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước một cách tồn diện hơn: cơng nghiệp hóa gắn hiện
đại hóa; gắn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức, tức là phù
hợp xu thế phát triển của nhân loại; gắn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với bảo vệ tài
ngun, mơi trường là phù hợp thực tế Việt Nam và kinh nghiệm của các nước đi
trước đã thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; gắn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nói chung với cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn là phù hợp thực
tế Việt Nam.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng qt
trong thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta sẽ thực hiện nhất qn, lâu dài mơ
hình kinh tế này. Những đặc trưng cơ bản của mơ hình kinh tế này đã được nêu ra và
về đại thể là được chấp nhận trong toàn Đảng. Đặc biệt, tại Đại hội XII của Đảng,


những đặc trưng của mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được
nhận thức đầy đủ, đúng đắn, phù hợp với kinh tế thị trường hiện đại hơn.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. (so với Đại
hội X bổ sung cụm từ “xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội”).
Nhận thức tồn diện hơn về xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
cũng như mối liên hệ giữa xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với xây

dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Tư
duy lý luận về vai trò của văn hóa đối với phát triển bền vững được khẳng định, phát
triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu và động lực của phát
triển. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người là sức mạnh nội sinh của phát triển
bền vững; làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là
văn hóa nhân cách, văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong chính trị; tư duy bước đầu về
xây dựng hệ giá trị, chuẩn mực của văn hóa, con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, chủ
động hội nhập quốc tế; đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà
nước trên lĩnh vực văn hóa. Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa là
tất yếu chính trị.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phịng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội (so với Đại hội X bổ sung cụm từ “trật tự, an toàn xã hội”).
Đã nhận thức và gắn kết nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quốc gia với nhiệm vụ
giữ vững chế độ, bảo vệ Đảng, giữ vững an toàn, trật tự xã hội, văn hóa cũng như gắn
kết phương hướng bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia với với yêu cầu giữ vững an
toàn, trật tự xã hội, bảo đảm cuộc sống của nhân dân. Trên thực tế, phương hướng bảo
đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an tồn xã hội ln gắn với
nhiệm vụ đối ngoại. Nhận thức mềm dẻo, linh hoạt phù hợp thực tiễn về “đối tác” và
“đối tượng” trong quốc phòng, an ninh được thay thế cho nhận thức cũ, cứng nhắc.
Gắn xây dựng đường lối quốc phòng, an ninh nhân dân với kiên quyết, kiên trì giữa
vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng đất, vùng trời, vùng biển của Tổ
quốc.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hồ bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế (Đại hội X chỉ viết “chủ động
và tích cực hội nhập tế quốc tế”).
Đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết trong đối ngoại. Đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế đã được kiên trì, kiên định trong qúa trình thực hiện Cương lĩnh. Từ “sẵn
sàng là bạn” “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” chúng ta đã chuyển thành
công sang phương châm “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách

nhiệm trong cộng đồng quốc tế” và “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế” tức là cơng
tác đối ngoại ngày càng toàn diện hơn. “Đối ngoại nhân dân” đã được thay bằng
“Ngoại giao nhân dân”. Chúng ta luôn giữ vững nguyên tắc chiến lược, mềm dẻo trong


sách lược bằng những biện pháp, hình thức linh hoạt, sáng tạo, tranh thủ điểm tương
đồng, hạn chế bất đồng, giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hồ bình.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất (so với Đại hội X thêm cụm từ
“tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất”).
Chuyển “dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của công cuộc đổi
mới” thành “dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của phát triển đất nước”.
Như vậy đầy đủ hơn, đúng đắn hơn, phù hợp thực tế hơn. Coi dân chủ xã hội chủ
nghĩa như một phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội. Gắn xây dựng dân
chủ xã hội chủ nghĩa với thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng
Mặt trận dân tộc thống nhất. Đại đoàn kết toàn dân tộc được mở rộng trên cơ sở “cộng
đồng Việt Nam” rộng hơn trước kia trên cơ sở các “dân tộc trong nước”. Lấy điểm
tương đồng về mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” để xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
So với Cương lĩnh 1991, lần đầu tiên tính chất pháp quyền xã hội chủ nghĩa
được khẳng định trong phương hướng xây dựng nhà nước ở Việt Nam. Coi xây dựng,
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân trên tất cả các mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp và xây dựng đội ngũ công chức là
nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Khẳng định và kiên trì, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ đại
biểu cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động mà còn của cả dân tộc.
Cùng với xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức thì Đảng Cộng sản Việt Nam

rất coi trọng xây dựng Đảng về đạo đức. Những luận điểm này phù hợp thực tiễn Việt
Nam và được thực tiễn chứng minh là đúng.
> Tóm lại, so với Đại hội X, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) có bổ
sung, phát triển ở 5 phương hướng (1,3,4,5,6). Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011) đã bổ sung nội dung về việc nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn:
- Giữa đổi mới, ổn định và phát triển;
- Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
- Giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa;
- Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa;
- Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hố, thực hiện tiến bộ và cơng bằng
xã hội;


- Giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa;
- Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế;
- Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;…
Câu 7: Mơ hình CNXH và mục tiêu xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ
được xác định tại Đại hội XII?
Cương lĩnh khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là
sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù
hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
1. Về mơ hình
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định rõ 3 điểm:
Một là, đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế
phát triển của lịch sử.
Hai là, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh;
- Do nhân dân làm chủ;

- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp;
- Có nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn
diện;
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp
nhau cùng phát triển;
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới;
So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) có một
số điểm mới sau:
(1) Thêm 2 đặc trưng: Đặc trưng bao trùm, tổng quát: “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, cơng bằng, văn minh” và đặc trưng “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Hai đặc
trưng này Đại hội X đã bổ sung. Điểm mới so với Đại hội X là chuyển từ “dân chủ’ lên
trước từ “công bằng” trong đặc trưng tổng quát, bởi vì, cả lý luận và thực tiễn đều chỉ
rõ dân chủ là điều kiện, tiền đề của công bằng, văn minh; đồng thời, để nhấn mạnh bản
chất của xã hội ta là xã hội dân chủ theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh.


(2) Bổ sung, phát triển một số đặc trưng cho chính xác với mục tiêu khi nước ta
đã xây dựng xong chủ nghĩa xã hội.
- Mở rộng biên độ “do nhân dân làm chủ”, chứ không giới hạn “do nhân dân lao
động làm chủ” như Cương lĩnh năm 1991.
- Đặc trưng về con người, Cương lĩnh năm 1991 xác định: Con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển
năm 2011) xác định: “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển tồn diện”.

- Đặc trưng về dân tộc, Cương lĩnh 1991 xác định: các dân tộc trong nước bình
đẳng, đồn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011) đã xác định: “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn
trọng và giúp nhau cùng phát triển”.
- Đặc trưng về hợp tác quốc tế, Cương lĩnh năm 1991 xác định : “Có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”, Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã mở rộng thành “có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên
thế giới”.
(3) Trong các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng,
có một đặc trưng trong q trình thảo luận có những ý kiến khác. Cương lĩnh năm
1991 xác định “có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Trên cơ sở tổng kết 20 năm đổi
mới, Đại hội X xác định “Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”.
- Thể hiện như Đại hội X là phù hợp với chính sách phát triển các thành phần
kinh tế của Đảng ta hiện nay, tránh được cách hiểu coi nhẹ đối với khu vực kinh tế dựa
trên chế độ sở hữu tư nhân.
- Kế thừa Đại hội X, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định “có
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp” (so với Đại hội X có bổ sung từ “tiến bộ”, Đại hội đã biểu quyết với
65,04%, đồng ý với đặc trưng này).
Ba là, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ 2 nội dung quan trọng:
(1) Nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài.
- Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: Quá trình xây dựng xã
hội xã hội chủ nghĩa là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp
giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát
triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
(2) Chỉ rõ những thuận lợi cơ bản:



- Có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dạn kinh nghiệm
lãnh đạo;
- Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt;
- Nhân dân ta có lịng u nước nồng nàn, có truyền thống đồn kết và nhân ái,
cần cù lao động và sáng tạo, luôn luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng;
- Chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan
trọng;
- Cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển
kinh tế tri thức cùng với q trình tồn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một thời cơ để
phát triển.
2. Về mục tiêu
Về mục tiêu tổng quát: Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 1991) viết: “Mục
tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền
tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn
hố phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng
phồn vinh, hạnh phúc”. So với Cương lĩnh năm 1991, có điều chỉnh một vài từ ngữ
(thay từ “xong” bằng từ “được”, dùng cụm từ “nền tảng kinh tế” thay cho “những cơ
sở kinh tế”, bổ sung cụm từ “ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”, thay cho từ “phồn
vinh”).
Về mục tiêu của chặng đường sắp tới: Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011) nêu mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI: toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu
xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.



×