Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Bài SKKN rèn đọc diễn cảm lớp 4 nâng cao chất lượng phân môn Tập đọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.83 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
TÊN
MỤC
I.
1
2
3
4
II.
1
2
3

4
III
1
2

NỘI DUNG

TRANG

Phần mở đầu
Lí do chọn đề tài.
Mục đích nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu.
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lí luận
Thực trạng của việc dạy và học Tập đọc ở trường Tiểu
học Ngư Lộc II


Các giải pháp đã sử dụng nhằm nâng cao chất lượng
phân môn Tập đọc lớp 4
* Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lí
và giáo viên
* Giải pháp 2: Giúp giáo viên nắm vững nội dung
chương trình và mục đích u cầu mơn học, tiết học
* Giải pháp 3: Chỉ đạo giáo viên chuẩn bị bài dạy
* Giải pháp 4: Chỉ đạo giáo viên linh hoạt để rèn kĩ
năng đọc cho học sinh trong giờ Tập đọc
* Giải pháp 5: Phát huy tính tích cực của học sinh
trong tổ chức các hoạt động dạy học.
* Giải pháp 6: Chỉ đạo dạy thực nghiệm và dạy đại trà
* Giải pháp7: Đảm bảo tốt về cơ sở vật chất và sự
phối hợp giữa các tổ chức trong và ngoài nhà trường.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

1/32


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Môn Tiếng Việt ở trường phổ thơng có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt
động ngôn ngữ cho học sinh. “Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong
bốn dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết.”[1]
Chúng ta biết rằng: “Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hố,
khoa học, tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương
thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu khơng biết đọc thì con người

khơng thể tiếp thu nền văn minh của loài người. Biết đọc, con người đã nhân khả
năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây, con người biết tìm hiểu, đánh giá cuộc
sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội”[1]. Khi đọc các tác phẩm văn
chương, con người không chỉ được thức tỉnh nhận thức mà cịn rung động tình
cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh sáng
tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn. “Đặc biệt trong thời đại bùng nổ thông tin
thì biết đọc ngày càng quan trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn
thơng tin. Đọc chính là học, học nữa, học mãi, đọc để tự học, học cả đời.” [1]
Vì vậy, dạy đọc có một ý nghĩa to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ
bản, đầu tiên đối với mỗi người đi học. Trước hết là trẻ phải học đọc, sau đó trẻ
phải đọc để học. Đọc giúp trẻ em chiếm lĩnh một ngôn ngữ để dùng trong giao
tiếp và học tập. Nó là cơng cụ để học tập các mơn học khác. Nó tạo ra hứng thú
và động cơ học tập. Nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần
học tập cả đời. Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ
ngơn ngữ cũng như tư duy của người đọc.
Nhiệm vụ của dạy đọc là hình thành năng lực đọc cho học sinh; Giáo dục lòng
ham đọc sách, phương pháp làm việc với sách; Làm giàu kiến thức cho học sinh,
phát triển ngôn ngữ và tư duy, giáo dục tư tưởng, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ cho
các em. Việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở các em lòng
yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách lơgic cũng như
biết tư duy có hình ảnh. Như vậy, đọc có một ý nghĩa to lớn cịn vì nó bao gồm
các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Phương pháp dạy học đóng vài
2/32


trò quan trọng và quyết định đến hiệu quả của việc dạy học ở tiểu học. Dạy học
có phương pháp và đúng phương pháp sẽ không chỉ truyền đạt được kiến thức
cho học sinh một cách đầy đủ mà thêm vào đó, khơi gợi được hứng thú, tinh thần
tự giác và chủ động cho học sinh. Trái lại, việc dạy học sai phương pháp sẽ làm
cho việc học trở thành việc nhồi nhét kiến thức, khiến cho học sinh ngày một thụ

động, đối phó, thậm chí ảnh hưởng đến cả lối tư duy và đạo đức của các em.
Đặc biệt ở bậc học tiểu học vấn đề này được các nhà giáo dục và xã hội đặc
biệt quan tâm, đòi hỏi công tác chỉ đạo các nhà quản lý và giáo viên trường tiểu
học phải có biện pháp quản lý, giảng dạy phù hợp, không ngừng đổi mới phương
pháp dạy học (PPDH) nhằm hướng cho học sinh vào hoạt động học tập một cách
tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo.Vì thế, PPDH phải phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lí của trẻ đó là: Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của
người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.
Trong q trình dự giờ giáo viên dạy Tập đọc lớp 4, tôi thấy chất lượng đọc
và khả năng hiểu văn bản của học sinh chưa cao, rất ít học sinh đọc diễn cảm tốt.
Một số giáo viên còn quan niệm dạy Tập đọc cứ theo quy trình mà dạy, khơng có
gì khó và đặc biệt cịn có quan điểm dạy phân mơn Tập đọc thì đổi mới cái gì. Là
người giáo viên nếu chỉ bằng lịng với những kiến thức mình đã có được ở trong
trường học và lượng kiến thức đã được tiếp thu chun đề thì đó sẽ là một điều
đáng tiếc. Theo tôi, một mặt phải nắm chắc được yêu cầu của cả cấp học, lớp học.
Mặt khác, phải tiếp tục tìm tịi phương pháp, hình thức tổ chức cụ thể cho từng
tiết học của mỗi phân môn. Sau một tiết dạy, phải tự đúc rút được kinh nghiệm để
rồi tìm ra những cái hay hơn và mạnh dạn tổ chức các hoạt động dạy- học theo
quy trình hợp lý, linh hoạt có sáng tạo nhằm đổi mới phương pháp dạy- học đạt
hiệu quả cao trong giảng dạy. Vì vậy, tơi đã nghiên cứu và tìm ra “Một số giải
pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập đọc lớp 4.”
2. Mục đích nghiên cứu:
- Giúp cho cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học Tập đọc lớp 4.
- Nâng cao chất lượng phân mơn Tập đọc nói riêng, mơn Tiếng Việt nói chung,
góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3/32


3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu kỹ các phương pháp dạy học Tập đọc.Tìm các giải pháp chỉ đạo

nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập đọc cho học sinh lớp 4 ở trường Tiểu
học Ngư Lộc 2, huyện Hậu Lộc.
4. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng kết hợp các phương pháp:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
“Ngơn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của lồi người” (LêNin). Ngơn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, tồn tại và phát triển theo sự tồn
tại, phát triển của xã hội lồi người. Ngơn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt,
là phương tiện nhận thức và giao tiếp hữu hiệu nhất của con người. Ngôn ngữ
luôn gắn chặt với tư duy “Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy”( Mark).
Tư duy của con người không thể phát triển nếu thiếu ngôn ngữ, việc chiếm lĩnh
ngôn ngữ là tiền đề phát triển tư duy. Nhờ có ngơn ngữ, con người mới có
phương tiện để nhận thức và thể hiện nhận thức của mình, để giao tiếp và hợp tác
với nhau… Nói đến sự phát triển của xã hội khơng thể khơng nói đến vai trị đặc
biệt quan trọng của ngơn ngữ.
Mục đích nghiên cứu ngơn ngữ trong nhà trường là giúp học sinh có thể sử
dụng ngôn ngữ làm phương tiện sắc bén để giao tiếp. Ngơn ngữ học nói chung,
Tiếng Việt nói riêng có mối quan hệ mật thiết với phương pháp dạy học. Phương
pháp dạy học dựa trên cơ sở văn học, lý thuyết văn học, trong q trình học sinh
phân tích các tác phẩm, mặc dù chưa học những kiến thức về lý luận văn học mà
khả năng đọc của học sinh phát triển. Việc đọc những bài văn, bài thơ ở tiết Tập
4/32


đọc đã được xây dựng trên cơ sở những quy luật chung nhất về tác phẩm và sự
tác động của nó đến người đọc.

“Đọc là một hoạt động của con người, dùng mắt để nhận biết các kí hiệu và
chữ viết, dùng trí óc để tư duy và lưu giữ những nội dung mà mình đã đọc và sử
dụng bộ máy phát âm phát ra âm thanh nhằm truyền đạt đến người nghe. Đối với
người đọc phải đọc đúng (chuẩn về mặt chính âm, ngắt nghỉ đúng chỗ, đúng các
hệ thống trong văn bản, đọc đúng giọng điệu), đọc có biêu cảm là sử dụng ngữ
điệu trong khi đọc (tiết tấu, cao độ, điều chỉnh âm lượng). Đọc thành tiếng tức là
hoạt động đọc sử dụng thị giác để tác động lên văn bản từ trên xuống dưới, từ
trái qua phải, đồng thời sử dụng trí óc để phân tích, tư duy, ghi nhớ. Sau đó sử
dụng cơ quan phát âm để phát ra thành tiếng nhằm mục đích hướng tới một đối
tượng nghe nào đó. Đọc thầm tức là hoạt động đọc sử dụng thị giác để tác động
lên văn bản từ trên xuống dưới, từ trái qua phải, đồng thời sử dụng trí óc để phân
tích, tư duy, ghi nhớ. Đọc mang tính chất nghệ thuật về thực chất là việc đọc
trong quá trình hình thành các cơ chế đọc. Đọc hiểu là đọc kết hợp với sự hình
thành năng lực giải thích, phân tích, khái qt, biện luận đúng sai về logic, tức là
kết hợp với năng lực, tư duy và biểu đạt. Nó là khái niệm bao chùm có nội dung
quan trọng trong q trình dạy văn, là một khái niệm khoa học chỉ mức độ cao
nhất của hoạt động học, đọc hiểu cũng chỉ năng lực của người đọc.” [1]
Phát triển ngôn ngữ cho học sinh thực chất là phát triển hoạt động lời nói.
Quá trình phát triển lời nói gắn bó rất chặt chẽ với 2 cơ chế của hoạt động lời nói
là sản sinh ngơn ngữ và tiếp nhận ngơn ngữ. Q trình hình thành lời nói ở học
sinh gắn bó rất chặt chẽ với hoạt động của tư duy. Sự mạch lạc trong lời nói của
học sinh thực chất là sự mạch lạc của tư duy. Việc tiếp thu ngơn ngữ có nhiều đặc
điểm khác với việc tiếp thu kiến thức trong các lĩnh vực khác. Mặt khác, quan hệ
giữa phương pháp dạy học Tiếng Việt và tâm lý học, đặc biệt là tâm lý học lứa
tuổi rất chặt chẽ, khơng có những hiểu biết về quá trình tâm lý con người nói
chung, về học sinh tiểu học nói riêng thì khơng thể dạy học tốt và phát triển lời
nói cho học sinh. Lứa tuổi của các em ở tiểu học là tuổi chơi mà học, học mà
chơi. Các cơ quan trong cơ thể chưa phát triển hoàn thiện nên mức độ tập trung
5/32



chú ý chưa lâu, chưa bền, ngồi lâu trong một tiết học nếu khơng thay đổi hình
thức tổ chức dạy học chắc các em sẽ không thấy thoải mái. Bởi vậy, cần có
những biện pháp tổ chức hoạt động dạy và học linh hoạt để các em có cơ hội vừa
học, vừa vận động cơ thể.
Học phân môn Tập đọc, việc đọc và cảm thụ là hai khâu có quan hệ mật
thiết với nhau, gắn bó hỗ trợ đắc lực cho nhau. Cảm thụ tốt giúp cho việc đọc
diễn cảm được tốt. Ngược lại việc đọc diễn cảm giúp cho cảm thụ bài văn thêm
sâu sắc.
2. THỰC TRẠNG VIỆC DẠY VÀ HỌC TẬP ĐỌC Ở TRƯỜNG TIỂU
HỌC NGƯ LỘC 2.
2.1, Nội dung Sách giáo khoa Tiếng Việt 4
Trong nội dung phân mơn tập đọc lớp 4 gồm có 62 bài tập đọc thuộc các loại
hình văn bản nghệ thuật, báo chí, khoa học, trong đó có 45 bài văn xi, 1 vở
kịch và 17 bài thơ. Sách giáo khoa có 2 tập, mỗi tập gồm 5 chủ điểm, mỗi chủ
điểm học trong ba tuần.
Bám sát các chủ điểm, nội dung tập đọc phản ánh nhiều lĩnh vực khác nhau.
Phân môn Tập đọc cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội
và con người; cung cấp vốn từ, tăng khả năng diễn đạt, trang bị một số hiểu biết
ban đầu về tác phẩm văn học (như đề tài, cốt truyện, nhân vật…) và góp phần rèn
luyện nhân cách cho học sinh.
2.2, Thực trạng việc dạy và học của giáo viên và học sinh
Xuất phát từ các thể loại văn bản khác nhau đòi hỏi người giáo viên cần có
biện pháp dạy học ứng với từng kiểu bài, từng thể loại bài. Để nâng cao chất
lượng dạy các thể loại văn bản tôi tiến hành dự giờ mỗi thể loại một bài xem thực
trạng dạy của giáo viên và phỏng vấn trò chuyện với học sinh:
* Dự giờ tiết dạy: Thể loại Thơ
(Tiết 3): Truyện cổ nước mình ( Sách TV4 - Tập 1 - Trang 19)
- Người dạy : Nguyễn Thị Yến, dạy lớp 4C. Ngày dạy: ……
- Người dự cùng giáo viên khối 4 - Đơn vị trường tiểu học Ngư Lộc 2.

Sau đây là đánh giá nhận xét cuả tổ chuyên môn:
6/32


* Ưu điểm:
- Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy- học theo đúng đặc trưng môn học.
- Học sinh thuộc lòng được bài thơ trên lớp.
- Giáo viên đã chú ý thay đổi hình thức dạy học để chống nhàm chán cho học
sinh như: Tổ chức học nhóm, thi đọc giữa các nhóm, …
* Nhược điểm:
- GV phân nhóm khơng đồng đều về trình độ, nhóm 1 phần lớn là học sinh tiếp
thu bài nhanh được đọc nhiều, nhóm 4 phần lớn là học sinh đọc chậm lại được
đọc ít.
- Học sinh được đọc thầm một cách hình thức. Học sinh chỉ chăm chú đọc thuộc
lịng khơng quan tâm đến việc luyện giọng đọc diễn cảm. Quá trình đọc từng khổ
thơ theo hình thức nối tiếp nhiều học sinh ngồi làm việc riêng.
- Phần đánh giá nhận xét của học sinh cịn rụt rè. Chỉ có học sinh khá giỏi làm
việc, học sinh trung bình, yếu hầu như khơng động não. Điều đó ảnh hưởng rất
lớn đến kĩ năng đọc hiểu của các em.
* Dự giờ tiết dạy: Thể loại Văn xi
Dự giờ (tiết 8 ):Bài: Một người chính trực ( Sách TV4- Tập 1 -trang 36)
- Người dạy Trần Thị Huyền , dạy 4A. Ngày dạy: ……
- Người dự cùng giáo viên khối 4 - Đơn vị trường tiểu học Ngư Lộc 2
Sau đây là đánh giá nhận xét của tổ chuyên môn:
* Ưu điểm:
- Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học theo đúng quy trình của phân môn
Tập đọc. Phong cách sư phạm tương đối tốt.
- Học sinh được luyện đọc nhiều, đọc to, rõ ràng.
- Phần tìm hiểu nội dung bài giáo viên sử dụng những câu hỏi ở sách giáo khoa
để khai thác, giáo viên nêu câu hỏi, học sinh trả lời, học sinh khác nhận xét.

* Nhược điểm:
- Học sinh phát âm một số tiếng còn lẫn lộn: tr/ch, l/n, thanh hỏi/ thanh ngã.
- Hình thức tổ chức dạy học cịn đơn điệu, học sinh sẽ dễ nhàm chán. Học sinh
chưa phát huy tính tích cực trong học tập.
7/32


- Đa số học sinh ngắt nghỉ chưa hợp lí, khả năng đọc diễn cảm của học sinh chưa
đảm bảo yêu cầu.
- Phần chú giải giáo viên cho học sinh đọc, như thế chỉ là hình thức máy móc,
chắc chắn học sinh sẽ không hiểu sâu nghĩa một số từ mới đó.
* Dự giờ tiết dạy: Thể loại Kịch
Dự giờ: Bài: Ở Vương quốc Tương Lai ( TV 4 - tập 1- trang 70)
- Người dạy: Hoàng Thị Ân - dạy lớp 4B; - Ngày dạy : ……
- Người dự cùng: giáo viên khối 4 - Đơn vị trường tiểu học Ngư Lộc 2
Sau đây là đánh giá nhận xét của tổ chuyên môn:
* Ưu điểm:
- Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học theo đúng quy trình của phân môn
Tập đọc. Giáo viên đã quan tâm đến luyện phát âm cho học sinh.
- Học sinh được luyện đọc nhiều, đọc đúng tốc độ, biết nghỉ hơi đúng sau dấu
phẩy, dấu chấm.
- Giáo viên đã sử dụng công nghệ thơng tin vào bài giảng nên học sinh có hứng
thú trong học tập.
* Nhược điểm:
- Khi đọc, học sinh chưa thể hiện đúng đặc trưng của văn bản kịch, chưa phân
biệt được tên nhân vật và lời nói của nhân vật.
- Học sinh chưa thể hiện được ngữ điệu các câu kể, câu hỏi, câu cảm.
- Việc hướng dẫn luyện đọc của giáo viên còn hạn chế; giọng đọc của giáo viên
chưa tốt.
- Tuy có ứng dụng cơng nghệ thơng tin, xong việc sử dụng còn lúng túng và hiệu

quả chưa cao.
Do đó, qua q trình dự giờ thăm lớp, thăm dò ý kiến của giáo viên và trò
chuyện với học sinh tơi nhận thấy :
Một số học sinh cịn phát âm sai do ảnh hưởng phương ngữ. Một số học sinh
chưa đảm bảo về tốc độ đọc. Phần đọc diễn cảm học sinh đọc chưa đảm bảo yêu
cầu.
8/32


Học sinh chưa chủ động tích cực hoạt động chiếm lĩnh kiến thức. Khả năng hiểu
nghĩa từ còn hạn chế, chỉ đọc phần giải nghĩa trong sách giáo khoa mà chưa hiểu
được nghĩa văn cảnh.
Giáo viên tổ chức học sinh tìm hiểu bài chỉ dựa vào các câu hỏi trong SGK và
thêm câu hỏi phụ với hình thức giáo viên hỏi, học sinh đáp chưa chú trọng thực
sự đến việc rèn cho học sinh cách trả lời các câu hỏi, diễn đạt ý bằng những câu
ngắn gọn, rõ ràng. Giáo viên không nhận xét việc trao đổi học tập từng nhóm,
dẫn đến kĩ năng nghe và nói của học sinh chưa tốt.
Tổ chức các hoạt động tách rời nhau. Ví dụ: Hoạt động luyện đọc chỉ duy
nhất tập trung vào luyện đọc hay hoạt động 3 chỉ tập trung tìm hiểu bài… Khi
hướng dẫn học sinh phát âm giáo viên phát âm mẫu học sinh phát âm theo, chứng
tỏ giáo viên chưa phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh.
Sử dụng đồ dùng dạy học quá đơn điệu chắc chắn không đáp ứng được nhu
cầu đổi mới.
2.3- Kết quả thực trạng:
Ngồi việc dự giờ, tơi tiến hành điều tra kết quả học tập của học sinh khối 4
trường Tiểu học Ngư Lộc 2, tôi nhận thấy: Đa số các em mới chỉ dừng lại ở việc
đọc to nhưng mức độ đọc lưu lốt cịn một số em vẫn chưa đạt yêu cầu, các em
còn đọc nhát gừng, đọc lặp từ, thêm từ, bớt từ… Mức độ đọc diễn cảm chỉ có rất
ít em đạt được. Các em chưa thể hiện rõ giọng đọc của từng thể loại như thơ,
kịch… Đặc biệt vẫn cịn một số học sinh khơng biết thế nào là đọc diễn cảm.

Bảng 1 -Thống kê chất lượng đọc của học sinh khối 4 (Tháng ……):

Lớp



Chất lượng, mức độ đọc

Số lượng

Tỷ lệ

Đọc vừa đủ nghe, rõ ràng

84/120

70%

Ngắt nghỉ hơi đúng ở các dấu câu, các

78/120

65%

80/120

66,6%

số


4

120 cụm từ rõ nghĩa, đọc đúng tiếng từ.
Đảm bảo tốc độ đọc

9/32


Hiểu nội dung văn bản

65/120

54,1%

Giọng đọc có biểu cảm ( đọc diễn cảm)

15/120

12,5 %

Như vậy chất lượng đọc thực tế cho thấy còn thấp. Đặc biệt là kỹ năng đọc hiểu
và đọc diễn cảm. Để khắc phục tình trạng này, tơi đã tìm ra một số giải pháp chỉ
đạo nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập đọc cho học sinh lớp 4, giúp cho
giáo viên dạy tốt phân môn Tập đọc khối lớp 4 và nhân rộng trong toàn trường.
3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
PHÂN MÔN TẬP ĐỌC LỚP 4
* Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý và giáo viên
Triển khai, quán triệt đầy đủ và kịp thời các văn bản, Chỉ thị của ngành về
việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, giúp cho cán bộ quản lý và giáo
viên và các lực lượng tham gia giáo dục phải có quan điểm đúng đắn về đổi mới

phương pháp dạy học ở tiểu học nói chung và đổi mới PPDH mơn Tiếng Việt nói
riêng.
Xây dựng các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức của việc đổi mới PPDH
góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục, tránh tư tưởng ngại khó hoặc đổ
lỗi cho các điều kiện khách quan.
Tăng cường chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học thông qua công tác bồi
dưỡng và dự giờ thăm lớp của giáo viên. Tổ chức có hiệu quả các đợt sinh hoạt
chuyên môn, chuyên đề cấp tổ và cấp trường. Tiếp tục phát động giáo viên tự làm
đồ dùng dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. Trang bị những
kiến thức và kỹ năng chuyên môn cần thiết để đáp ứng yêu cầu đổi phương pháp
dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và khả năng tự học
của học sinh.

* Giải pháp 2: Giúp giáo viên nắm vững nội dung, chương trình và mục đích
u cầu mơn học, tiết học.

10/32


Trong dạy học, để tổ chức các hoạt động dạy học tốt thì phải xác định đúng
mục tiêu của phân mơn đó, của từng bài cụ thể. Xác định càng rõ ràng, đúng đắn
thì tổ chức các hoạt động sẽ tốt.
Để tổ chức các hoạt động dạy – học phân mơn Tập đọc thì trước hết phải bố
trí thời gian nghiên cứu hệ thống chủ điểm trong SGK Tiếng Việt 4 (Tập 1, 2),
nghiên cứu kĩ từng tiết học, sự phân bố các bài tập đọc ở mỗi đơn vị học, phải
xác định rõ bài đó thuộc thể loại văn bản nào (Văn xi, thơ, kịch) bài đó thuộc
chủ đề gì? Như vậy sẽ tạo nên một số thuận lợi sau: Xác định rõ được mục đích
yêu cầu đúng của từng bài đó, xác định được giọng đọc của từng kiểu bài và mức
độ yêu cầu học sinh học xong bài đó đọc với giọng như thế nào? Với bài học này
học sinh của lớp mình thường phát âm sai tiếng nào và cần hướng dẫn học sinh

luyện đọc như thế nào cho chuẩn.
Vì vậy, ngay từ đầu năm học, trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi thực
hiện việc trao đổi với tổ chuyên môn các nội dung sau:
+ Nắm bắt ý kiến đề xuất hoặc nội dung trao đổi của giáo viên về việc dạy học
theo từng môn học và những vấn đề cịn khó khăn vướng mắc, những điều kiện
cần thiết cần được bổ sung.
+ Định hướng chỉ đạo nội dung cần tập trung chú ý để nâng cao chất lượng dạy
học cụ thể của từng môn, trong đó có phân mơn Tập đọc.
+ Tổ chức hội thảo để giúp giáo viên xác định đúng nội dung chương trình, mục
đích u cầu của mơn học, tiết học.
Ví dụ: Bài “Một người chính trực” là bài dạy thuộc tiết thứ 7, tuần 4 , chủ đề “
Măng mọc thẳng ”– Chủ đề thứ hai của TV4 (tập I) và bài này được học trong 1
tiết. Yêu cầu của bài là “học sinh đọc lưu lốt, trơi chảy tồn bài. Biết đọc truyện
với giọng kể thong thả, rõ ràng. Đọc phân biệt được lời các nhân vật, thể hiện rõ
sự chính trực, ngay thẳng của Tơ Hiến Thành.” [2] Chú ý đọc các từ ngữ mới, các
từ dễ sai do ảnh hưởng phương ngữ như: Long Xưởng, triều Lý, tham tri chính
sự, …. SGV có thể u cầu các từ khác như: chính trực, di chiếu, gián nghị đại
phu,..) giáo viên cần chắt lọc từ ngữ khó đọc theo đặc điểm của địa phương lớp
11/32


mình phụ trách, khơng nhất thiết theo SGV, biết nghỉ ngơi hợp lý sau dấu chấm,
dấu phẩy và các cụm từ trong câu dài.
Nhưng tới bài “Ở Vương quốc Tương Lai” ( Tiết 14 thuộc chủ đề: “Trên đôi
cánh ước mơ” tuần học thứ 7) ở mức độ thể loại kịch yêu cầu học sinh ở mức
độ cao hơn đó là: “Biết đọc phân biệt tên nhân vật và lời nói của nhân vật; Đọc
đúng một số từ mà học sinh lớp phụ trách hay phát âm sai như: giúp đỡ, tương
lai, sáng chế. Đọc đúng ngữ điệu các câu hỏi, câu kể, câu cảm; Biết đọc vở kịch
với giọng rõ ràng, hồn nhiên, thể hiện được tâm trạng háo hức, ngạc nhiên, thán
phục của Tin-tin và Mi-tin; thái độ tự tin, tự hào của những em bé ở vương quốc

Tương Lai. Biết hợp tác, phân vai đọc vở kịch.” [3]
+ Nghiên cứu được mục đích, yêu cầu của từng bài dạy thì sẽ lựa chọn được các
biện pháp, hình thức tổ chức phù hợp với tiết dạy, lựa chọn được đồ dùng nào sẽ
phục vụ cho từng hoạt động trong tiết dạy.
* Giải pháp 3- Chỉ đạo giáo viên chuẩn bị bài dạy
3.1- Chỉ đạo giáo viên lựa chọn đồ dùng dạy học
Xác định tốt mục tiêu của bài dạy rồi nhưng để thực hiện tốt việc tổ chức các
hoạt động dạy – học thì phải có phương tiện dạy – học. Hơn nữa, để đáp ứng với
nội dung, phương pháp đổi mới thì đồ dùng dạy- học khơng thể thiếu được trong
bất kì mơn học nào, nhất là phân mơn Tập đọc.
Chính vì thế, sau khi đã xác định được mục tiêu bài bài dạy rồi, giáo viên
phải xác định rõ từng hoạt động cụ thể cần sử dụng đồ dùng nào? Đồ dùng nào đã
có sẵn? Đồ dùng nào có thể sưu tầm được? đồ dùng nào cần tự làm? Giáo viên
phải vạch rõ kế hoạch để chuẩn bị đồ dùng dạy- học có chất lượng
Đồ dùng DH phải đa dạng như: Tranh ảnh (vẽ, chụp hoặc máy chiếu), vật
thật, câu đố, phiếu học tập bài hát, câu ca dao.
Cần xác định rõ đồ dùng dạy học phục vụ cho hoạt động dạy học nào có thể sử
dụng trong phần giới thiệu bài, trong phần giảng từ hay trong khi giải nghĩa từ
khó hiểu
Ví dụ: Bài “Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca ” (TV4- Tập 1) để giúp học sinh
hiểu nghĩa từ “dằn vật ”. Giáo viên nên sử dụng tranh SGK phóng to để giảng từ
12/32


giúp học sinh thấy được sự đau đớn, buồn khổ một cách dai dẳng của An-đrâyca….Ngoài ra việc sử tranh trong SGK ở bài này còn sử dụng vào phần giới thiệu
bài.
Hoặc bài “Trung thu độc lập” (TV4- Tập 1) để giúp học sinh hiểu nghĩa từ
“trăng ngàn” giáo viên sử dụng công nghệ thông tin (chức năng PowerPoint) tạo
hiệu ứng để HS thấy trăng chiếu trên vùng núi rừng thật đẹp, thật sáng và gợi cho
anh chiến sĩ nghĩ tới một tương lai tươi sáng vào ngày mai.

3.2. Hướng dẫn giáo viên lựa chọn các hình thức tổ chức dạy học
Một tiết học thành công hay không phụ thuộc lớn vào cách thức tổ chức các
hoạt động dạy và học. Học sinh học tập tích cực hay khơng tùy thuộc vào các
hình thức tổ chức dạy học, việc đổi mới phương pháp dạy học. Trong giờ học,
GV phải linh hoạt trong việc tổ chức các hình thức dạy học, nhưng một hình thức
dạy học khơng thể thiếu được ở hầu hết các tiết học là học nhóm.
Học trong nhóm có nhiều phẩm chất năng lực khác nhau, đủ trình độ sẽ tạo
điều kiện cho các thành viên trong nhóm hỗ trợ nhau, giúp đỡ nhau, kèm cặp
nhau, bổ sung cho nhau để từng học sinh dần dần hoàn thiện hơn. Chính vì thế
theo tơi trong phân mơn Tập đọc cũng như các phân mơn khác nên tổ chức phân
nhóm đủ trình độ. Cịn nếu muốn dành thời gian cho từng đối tượng, giáo viên
cần phải phân nhóm cùng trình độ.
- Cấu tạo nhóm.
+ Nhóm 2 (cặp): phân kiểu này là hiệu quả vì hai em trao đổi, làm việc được
nhiều lần trong học nhóm.
+ Phân nhóm nhiều học sinh (Học sinh ở hai bàn tạo thành một nhóm hay học
sinh ở một dãy tạo thành nhóm).
+ Phần nhóm số lượng người ứng với số lượng nhân vật hoặc số đoạn trong bài
tập đọc, dùng trong hoạt động luyện đọc nhóm, luyện đọc lại.
- Cách phân nhóm:
Cứ ba tuần (ứng với một chủ đề), yêu cầu giáo viên thay đổi học sinh trong
nhóm. Các nhóm thay đổi nhóm trưởng, để học sinh có cơ hội được tiếp xúc, giao
lưu với mọi đối tượng, đồng thời học sinh có cơ hội tốt làm nhóm trưởng. Có như
13/32


thế mới đào tạo được nguồn làm lớp trưởng trong mỗi tháng, mỗi đợt … Nhằm
đạt được mục tiêu đào tạo: “Phát triển con người toàn diện, đáp ứng được nhu
cầu cuộc sống hiện đại”.
3.3- Yêu cầu giọng đọc của giáo viên.

Trước khi lên lớp, giáo viên phải đọc bài nhiều lần để đọc tốt và hiểu thấu
đáo nội dung bài đọc. Giáo viên có giọng đọc tốt sẽ góp phần đáng kể trong việc
rèn đọc cho học sinh rất nhiều. Bởi vì, các em ln ln lấy giọng đọc của thầy
cô giáo làm chuẩn. Bởi vậy, giáo viên phải nghiên cứu nội dung, cách đọc và tập
đọc nhiều lần. Tùy theo từng bài mà giáo viên đọc mẫu (hay học sinh giỏi) đọc cả
bài hay một đoạn, nhưng trước hết người giáo viên phải đọc đúng, ngồi ra cịn
phải đọc diễn cảm tốt bài văn, bài thơ. Muốn vậy giáo viên phải rèn luyện kỹ
năng đọc cho mình một cách nghiêm túc. Luyện đọc diễn cảm sao cho mỗi bài
đọc của giáo viên xứng đáng là bài đọc mẫu cho học sinh. Hoặc trong lớp có học
sinh đọc có biểu cảm tốt, giáo viên sẽ chuẩn bị trước là hướng dẫn học sinh đó
giọng đọc của bài để các em đọc thay giáo viên trong tiết học.
Ví dụ: Đọc bài: “Điều ước của vua Mi-đát” (TV4 -Tập 1) giọng đọc khoan
thai, đổi giọng linh hoạt, phù hợp với tâm trạng thay đổi của vua Mi- đát (từ phấn
khởi, thỏa mãn chuyển sang hoảng hốt, khẩn cầu, hối hận). Đọc phân biệt lời các
nhân vật:
+ Lời xin, lời khẩn cầu của vua Mi-đát: “Xin Thần tha tội cho tôi! Xin người lấy
lại điều ước để cho tôi được sống!”
+ Lời phán bảo oai vệ của thần Đi-ô-ni-dốt: “Nhà ngươi hãy đến sơng Pác-tơn,
nhúng mình vào dịng nước, phép màu sẽ biến mất và nhà ngươi sẽ rử sạch được
lòng tham.”[3]
Hay là bài: “Vẽ về cuộc sống an toàn”( TV4-T2). Đây là một bản tin nên
giáo viên đọc với giọng thông báo tin vui, rõ ràng, rành mạch, tốc độ khá nhanh.
Nhấn giọng những từ ngữ: nâng cao, đông đảo, năm mươi nghìn, phong phú, tươi
tắn, rõ ràng, hồn nhiên, trong sáng, sâu sắc, bất ngờ...
- GV có thể đọc mẫu ( Hoặc học sinh giỏi đọc mẫu) trong các trường hợp:
+ Đọc mẫu toàn bài để gây chú ý cho học sinh.
14/32


THƠNG TIN HỎI ĐÁP:

-------------------------Bạn cịn nhiều thắc mắc hoặc muốn tìm kiếm thêm nhiều tài liệu sáng kiến kinh nghiệm
mới mẻ khác của Trung tâm Best4Team
Liên hệ dịch vụ viết thuê sáng kiến kinh nghiệm
Hoặc qua SĐT Zalo: 091.552.1220 hoặc email: để hỗ trợ
ngay nhé!

15/32



×