Nhóm hãy phân tích để chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt trong nghề nghiệp của các chức danh thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư. Theo nhóm các chức danh này phải tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp nào khi làm việc với nhau trong hoạt động tư pháp?
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.09 KB, 17 trang )
BỘ TƯ PHÁP
ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÀI TẬP NHĨM
Mơn: Nghề luật và phương pháp học luật
Nhóm 4 – Lớp N08.TL4
Đề bài 4:
Nhóm hãy phân tích để chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt
trong nghề nghiệp của các chức danh thẩm phán, kiểm sát
viên và luật sư. Theo nhóm các chức danh này phải tuân thủ
các quy tắc đạo đức nghề nghiệp nào khi làm việc với nhau
trong hoạt động tư pháp?
Thành viên nhóm:
Hà Nội, 2021
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................2
I.
Phân tích để chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt trong nghề nghiệp của
các chức danh thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư:.........................................2
1.
Điểm tương đồng:..................................................................................2
2.
Điểm khác biệt:.....................................................................................3
II.
Các chức danh thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư phải tuân thủ các quy
tắc đạo đức nghề nghiệp nào khi làm việc với nhau trong hoạt động tư pháp:.7
1.
Quy tắc đạo đức chung:.........................................................................7
2.
Mối quan hệ giữa các chức danh trong hoạt động tư pháp:..................9
KẾT LUẬN..........................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................14
MỞ ĐẦU
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều câu chuyện xuất phát từ những đồ
dùng thông hàng ngày chứa đựng những giá trị và có ý nghĩa sâu sắc. Và câu
chụn của Bác về “Chiếc đờng hờ” chính là một biểu hiện của những giá trị ấy.
Giữa mùa thu năm 1954, Bác đến thăm Hội nghị rút kinh nghiệm cải cách ruộng
đất ở Hà Bắc. Khi nói đến nhiệm vụ của Đảng, Người đã lôi ra một chiếc đồng
hồ và hỏi rằng bộ phận nào của chiếc đồng hồ là quan trọng nhất. Người đã ví
một chiếc đồng hồ như các cơ quan của một Nhà nước, như các nhiệm vụ của
Cách mạng. Người căn dặn: “Đối với chi bộ, đảng bộ hay tất cả các cơ quan,
đơn vị cũng vậy, mỗi phòng, ban là một bộ phận khơng thể thiếu. Tất cả đều có
một nhiệm vụ riêng, dù việc lớn việc nhỏ nhưng đó đều là một phần quan trọng
trong một tập thể, mỗi nhiệm vụ như một mắc xích nối lại với nhau để tạo thành
một khối vững chắc, thì mỗi chúng ta phải thật sự đoàn kết, nổ lực, cố gắng phát
huy khả năng của mình, hỗ trợ lẫn nhau để hồn thành nhiệm vụ”. Lời căn dặn
của Người khơng chỉ nói về các cơ quan trong bộ máy Nhà nước nói chung mà
cịn là nói về ngành Luật pháp nói riêng.
Để hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa ba chức danh thẩm phán, kiểm sát viên
và luật sư và quy tắc đạo đức nghề nghiệp khi làm việc với nhau của ba chức
danh này, nhóm chúng em xin lựa chọn đề bài số 4 cho bài tập nhóm: “Nhóm
hãy phân tích để chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt trong nghề nghiệp của
các chức danh thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư. Theo nhóm các chức
danh này phải tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp nào khi làm việc với
nhau trong hoạt động tư pháp?”.
1
NỘI DUNG
I. Phân tích để chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt trong nghề nghiệp của
các chức danh thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư:
1. Điểm tương đồng:
Thứ nhất, thẩm phán, luật sư và kiểm sát viên đều là những nghề thuộc nhóm
nghề luật, có liên quan đến lĩnh vự pháp luật; là nhà làm luật, người làm công
tác pháp luật, người thực thi pháp luật; cùng thuộc hệ thống cơ quan bảo vệ pháp
luật, cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp.
Thứ hai, cả 3 nghề này đều được pháp luật Việt Nam quy định rõ về các yếu
tố có liên quan: Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi và bổ sung năm 2012), Pháp
lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 2002 (sửa đổi và bổ sung
năm 2011), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2014.
Thứ ba, thẩm phán, luật sư và kiểm sát viên phải đảm bảo đủ những điều
kiện hành nghề như:
- Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung
thực, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa.
- Trình độ cử nhân luật trở lên.
- Được đào tạo bài bản về nghiệp vụ.
- Đã có thời gian cơng tác thực tế.
- Có sức khỏe tốt, để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Thứ tư, không thể phủ nhận những cám dỗ trong quá trình rèn luyện đạo đức,
những người thuộc nhóm nghề này ln chịu sự tác động tới từ nhiều yếu tố cả
khách quan và chủ quan, từ bên ngồi mơi trường và bên trong.
Thứ năm, 3 nghề này đều cần tuân theo một loại chuẩn mực đạo đức xã hội là
đạo đức nghề luật: đề cao sự liêm chính, cơng bằng, bình đẳng và sự đúng mực
với luật pháp.
2
Thứ sáu, phải “chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
quy định của pháp luật.
2. Điểm khác biệt:
2.1. Định nghĩa:
Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm
nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền
của Tòa án1. Thẩm phán cũng còn gọi là quan tòa là người thực hiện quyền xét
xử chính tại một phiên tịa, có thể là chủ tọa một mình hoặc là một thành phần
trong hội đồng xét xử gồm nhiều thẩm phán. Thẩm phán là một công chức nhà
nước.
Kiểm sát viên là một vị trí trong Viện kiểm sát nhân dân và được cơ quan tư
pháp giao nhiệm vụ buộc tội những bị cáo vi phạm pháp luật trong các vụ án
hình sự xét xử trong các phiên toà. Theo quy định của pháp luật Việt Nam:
Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện
chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp 2. Kiểm sát viên
là một công chức nhà nước.
Luật sư theo pháp luật Việt Nam quy định là người có đủ tiêu chuẩn, điều
kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu
cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng) 3. Luật sư
bằng trí thức pháp luật và kỹ năng nghề nghiệp thực hiện cung cấp các dịch vụ
pháp lý theo yêu cầu của thân chủ như: tư vấn pháp luật, soạn thảo văn bản, tổ
chức đàm phán, thương lượng về các vấn đề pháp luật, và có thể đại diện cho
thân chủ hoặc bảo vệ quyền lợi của thân chủ trước tòa án trong quá trình tiến
Xem khoản 1, Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 2002 (sửa đổi và bổ sung năm
2011).
1
2
Xem thêm tại Mục 3, Điều 74 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
3
Xem thêm tại Điều 2 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012).
3
hành tố tụng. Luật sư là người hành nghề tự do, không phải viên chức hay công
chức nhà nước.
2.2. Đặc điểm, nhiệm vụ:
a. Đặc điểm:
Thẩm phán: là một nghề luật được thực hiện bởi thẩm phán. Thẩm phán có
tính đặc thù trong áp dụng pháp luật: thẩm phán với vai trò là người đưa ra phán
quyết dựa trên những chứng cứ khách quan, thực tế, khơng định kiến với mục
đích duy nhất là bảo vệ công lý. Thẩm phán phải là người tôn trọng bằng chứng,
xem xét đứng đắn các bằng chứng thực tế mà mỗi bên đương sự đưa ra trong
quá trình giải quyết vụ án của mình. Thẩm phán phải sử dụng năng lực và toàn
bộ kiến thức cần thiết nhằm giải quyết đúng đắn vụ án trên cơ sở bằng chứng
thực tế. Tinh thần của người Thẩm phán địi hỏi họ phải ln kiên quyết, vững
vàng ý chí để đạt được mục tiêu cuối cùng là một phán quyết thấu tình đạt lý,
đảm bảo tính đúng đắn của bản án, không bỏ lọt kẻ phạm tội.
Kiểm sát viên: là một nghề luật được thực hiện bởi kiểm sát viên. Kiểm sát
viên sẽ có quyền ra các lệnh như bắt giữ, truy tố tội phạm và tham gia điều tra.
Khi nghi ngờ một kết quả điều tra của bản án nào khơng hợp lý thì kiểm sát viên
có quyền điều tra lại từ đầu. Mục tiêu của kiểm sát viên là bảo vệ phát chế hạn
chế được những sai phạm xảy ra trong quá trình xét xử và các bản án oan sai.
Luật sư: là một nghề luật do luật sư thực hiện. Luật sư là một nghề nghiệp tự
do “Luật sư độc lập trong hành nghề và tự chịu trách nhiệm về hoạt động nghề
nghiệp của mình”4. Nghề luật sư là một nghề cung cấp dịch vụ gồm các chức
năng: chỉ dẫn và phản biện. Luật sư là một nghề “bán kinh doanh”. Luật sư
không chỉ đơn thuần cung cấp dịch vụ để lấy tiền như những nghề nghề nghiệp
khác, mà cịn là những người đóng góp trực tiếp cho việc bảo đảm tuân thủ pháp
luật và bình ổn cho xã hội.
b. Nhiệm vụ:
4
Nguyễn Hà Trang (2008), “Xây dựng quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư ở Việt Nam”, Tạp chí
Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề Tổ chức và hoạt động luật sư, Hà Nội, tr 55-60.
4
Thẩm phán làm nhiệm vụ xét xử theo sự phân cơng của Chánh án Tịa án nơi
mình cơng tác hoặc nơi mình được biệt phái đến5; Thẩm phán phải gương mẫu
trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật,…6; Không được làm những việc mà
pháp luật cấm7.
Kiểm sát viên có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp được phân công theo pháp luật và chịu dự chỉ đạo của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân8. Khi được giao nhiệm vụ trái với pháp luật
thì được phép khơng thực hiện và tiến hành báo cáo với cấp trên cao hơn để theo
dõi và xử lý. Đảm bảo có năng lực và phải chịu mọi trách nhiệm trước pháp luật
về hành vi, quyết định của mình trong việc thực hành quyền cơng tố, tranh tụng
tại phiên tòa và kiểm sát hoạt động tư pháp. Kiểm sát viên không được làm
những việc pháp luật cấm9. Và một số nhiệm vụ cụ thể khác của từng kiểm sát
viên được quy định thêm ở Luật Tố tụng hình sự 201510.
Luật sư phải tơn trọng sự lựa chọn của khách hàng và chỉ nhận vụ việc theo
khả năng chuyên môn và điều kiện cho phép. Luật sư thông báo cho khách hàng
về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư trong việc thực hiện
dịch vụ pháp lý. Luật sư khơng chuyển giao vụ, việc mà mình đã nhận cho luật
sư khác làm thay, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc trường hợp bất
khả kháng11. Luật sư phải có trách nhiệm bí mật thơng tin về vụ, việc, về khách
hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng
đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác12.
2.3. Điều kiện hành nghề:
Thẩm phán: được quy định tại Điều 67 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014.
Xem Điều 11 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 2002 (sửa đổi và bổ sung năm 2011).
Xem Điều 13 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 2002 (sửa đổi và bổ sung năm 2011).
7
Xem Điều 15 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 2002 (sửa đổi và bổ sung năm 2011).
5
6
8
Xem thêm tại Điều 83 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
9
Xem thêm tại Điều 84 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
10
Xem thêm tại Điều 42 Luật Tố tụng hình sự năm 2015.
11
Xem thêm tại Điều 23 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012).
12
Xem thêm tại Điều 23 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012).
5
Kiểm sát viên: được quy định tại Điều 75 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 2014.
Luật sư: được quy định tại Điều 10 và Điều 11 Luật Luật sư năm 2006 (sửa
đổi bổ sung năm 2012).
2.4. Phạm vi hành nghề:
Phạm vi hành nghề của thẩm phán gồm: áp dụng luật hoặc thực hiện luật để
đưa ra phán quyết trong phiên toà xét xử; nghiên cứu vấn đề theo luật pháp;
quyết định quy trình thực hiện theo luật pháp và quy tắc; viết ý kiến, quyết định
và hướng dẫn về các trường hợp, khiếu nại và tranh chấp.
Phạm vi hành nghề của kiểm sát viên gồm: thực hành quyền công tố; kiểm
sát hoạt động tư pháp.
Phạm vi hành nghề luật sư gồm: tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, tư
vấn pháp luật, dịch vụ pháp lý khác13.
2.5. Các chuẩn mực đạo đức:
Thẩm phán cần có tính độc lập để giải quyết vụ việc trên cơ sở đánh giá của
bản thân để không bị tác động bởi bất cứ sự can thiệp nào cũng như để độc lập
với các yếu tố tác động từ trong nội bộ và ngồi Tịa án. Thẩm phán cũng phải
ln tận tụy, cống hiến hết mình trong cơng việc và phải ln học tập, trau dồi,
rèn luyện, tích lũy kinh nghiệm để nâng cao kiến thức và luôn nắm bắt thông tin
đầy đủ, kịp thời và nhanh chóng.
Kiểm sát viên với khẩu hiệu “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” và lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về mười chữ vàng cho cán bộ ngành Kiểm sát: “Cơng minh,
chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn” khi được bổ nhiệm cần phải
tuyên thệ theo quy định của bộ Luật như tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, bảo
vệ nhân dân, đấu tranh không khoan nhượng với mọi tội phạm và vi phạm pháp
luật,…14
Luật sư có nghĩa vụ bảo đảm chất lượng dịch vụ pháp lý cung cấp cho khách
hàng, sử dụng kiến thức chuyên môn, các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết để bảo
13
Xem thêm tại Điều 22 Mục 1 Chương 3 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi và bổ sung năm 2012).
14
Xem thêm tại Điều 85 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
6
vệ tốt nhất quyền và lợi ích của khách hàng theo quy định của pháp luật, Quy tắc
Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư. Ngoài ra, luật sư có nghĩa vụ thực hiện
trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và các đối tượng khác theo quy định
của pháp luật, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam 15 bằng sự tận tâm, vô tư và
trách nhiệm nghề nghiệp như các vụ việc có nhận thù lao. Và hơn hết, luật sư
cần coi trọng, bảo vệ danh dự, uy tín của đội ngũ luật sư như bảo vệ danh dự, uy
tín của chính mình; xây dựng, củng cố, duy trì niềm tin của khách hàng, cộng
đồng xã hội với luật sư và nghề luật sư16.
2.6. Xử lí vi phạm:
Thẩm phán: quy định tại Theo Điều 6 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân năm 2002 (sửa đổi và bổ sung năm 2011).
Kiểm sát: quy định tại khoản 2 Điều 99 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 2014.
Luật sư: quy định tại Điều 85, Điều 89 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ
sung năm 2012).
II. Các chức danh thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư phải tuân thủ các quy
tắc đạo đức nghề nghiệp nào khi làm việc với nhau trong hoạt động tư
pháp:
1. Quy tắc đạo đức chung:
Đạo đức là một phạm trù chỉ những phẩm chất đạo đức của con người, là
một khái niệm rộng nên không thể định nghĩa một cách rõ ràng và cụ thể; tuy
nhiên đây lại là một phạm trù rất quan trọng bởi nó đánh giá ý thức, giá trị của
mỗi người. Trong đời sống, mỗi nghề nghiệp khác nhau đều đòi hỏi phẩm chất
đạo đức khác nhau. Đạo đức nghề nghiệp là những tiêu chuẩn, phẩm chất của
một cá nhân trong quá trình làm việc, cơng tác, một hoạt động nào đó, phẩm
chất đạo đức, nguyên tắc, thước đo hành vi của đạo đức nghề nghiệp phụ thuộc
vào từng ngành nghề và lĩnh vực cụ thể.
15
16
Xem thêm tại chương I Quyết định số 68/QĐ-HĐLST năm 2011 của Hội đồng Luật sư toàn quốc.
Xem thêm tại Mục 2 Chương II Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính Phủ.
7
Như phần trên đã nói luật sư, thẩm phán và kiểm sát viên tuy là ba chức
danh tư pháp khác nhau nhưng đều nằm trong khuôn khổ “nghề luật”. Nghề luật
là một nghề mang tính đặc thù và đặc biệt, mỗi một quyết định, hành vi của
người hành nghề luật có thể liên hệ đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm và tài sản của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Như vậy, thông qua hoạt
động nghề nghiệp của mình, bằng các tác nghiệp, người hành nghề luật hướng
tới cái thiện, cái đúng, cái đẹp, sự công bằng để phán quyết.
Tuy cùng thuộc nhóm nghề luật nhưng luật sư, thẩm phán và kiểm sát viên
lại làm những công việc khác nhau, đứng ở những vị trí khác nhau thậm chí đối
lập nhau trong hệ thống tư pháp, do đó rất khó có thể đồng nhất các nguyên tắc
và chuẩn mực đạo đức của những người làm những công việc khác nhau, đứng ở
những vị trí khác nhau đó. Tuy nhiên, có thể nhận thấy những điểm chung sau
đây:
Thứ nhất, những phẩm chất đạo đức cần có theo nghĩa xã hội thông thường người hành nghề luật trước hết là một con người, một công dân. Người hành
nghề luật phải có những phẩm chất tốt đẹp về mặt đạo đức như những người
cơng dân bình thường khác trong xã hội. Một người hành nghề luật có trình độ
chun mơn cao, có bản lĩnh nghề nghiệp và có trách nhiệm đối với cơng việc
của mình nhưng lại thiếu những phẩm chất cần có của một người cơng dân bình
thường thì khơng thể coi là một người có đạo đức nghề nghiệp tốt. Người hành
nghề luật cần có một lối sống lành mạnh, suy nghĩ trong sáng, thái độ thân thiện
với tất cả mọi thành viên trong xã hội, công việc và cuộc sống. Những phẩm
chất đó là tính trung thực, lịng dùng cảm, tính cơng bằng, khách quan...17
Thứ hai là bản lĩnh nghề nghiệp. Bản lĩnh là sự kiên định, quyết đốn, là khả
năng hướng tới cái đúng, cơng lý và sự hồn thiện. Đây là một tố chất khơng thể
thiếu trong suốt quá trình hoạt động nghề nghiệp. Bản lĩnh nghề nghiệp của
người hành nghề luật được hình thành, xây dựng và phát triển trên cơ sở của sự
17
Học viện Tư pháp, Đạo đức nghề luật, NXB Tư pháp, Hà Nội 2011, tr70-73
8
tự tin, thái độ cương quyết, tính độc lập và thái độ khách quan, tôn trọng luật
pháp và xã hội.
Thứ ba là tinh thần trách nhiệm trong công việc của mình. Trách nhiệm là
một khái niệm mang tính pháp lý tuy vậy nó là một tố chất của đạo đức nghề
nghiệp. Nếu ở phương diện luật học, người ta nói nghĩa vụ đi đơi với quyền thì ở
phương diện đạo đức, người ta để cao tinh thần trách nhiệm mà không gắn với
quyền lợi. Như vậy, trách nhiệm của người hành nghề luật được hiểu là thái độ
tự tin vào cơng việc hàng ngày của mình và ý thức bảo đảm cho những gì mình
thực hiện là đúng đắn. Người hành nghề luật có trách nhiệm nghĩa là người đó ý
thức được cơng việc mình làm, dám chịu trách nhiệm về các hành vi của mình
và điều quan trọng là tự giác thực hiện các công việc được giao theo đúng lương
tâm.
Cuối cùng là tình yêu thương con người, nghề luật hướng tới một nhóm đối
tượng là những người mà số phận pháp lý của họ do những người làm nghề luật
quyết định trong phạm vi thẩm quyền, đó có thể là nạn nhân của tội phạm, nạn
nhân của những sai lầm trong nhận thức của bản thân hoặc là nạn nhân của gia
đình, của điều kiện, hồn cảnh sống khơng được trọn vẹn. Vì vậy, người làm
nghề luật phải hướng tới mục tiêu cứu giúp con người, giúp con người nhận ra
sai lầm và tạo cho họ những cơ hội để giáo dục cải tạo, để sửa chữa, khắc phục
sai lầm. Dù vậy thế nào là yêu thương con người, thế nào là nhân đạo, nhân đạo
với ai và ở mức độ nào ln là những vấn đề có nhiều ý kiến tranh luận nhưng
nếu luật sư, thẩm phán hay kiểm sát viên mà khơng có tình u thương con
người thì khơng thể là người có đạo đức nghề luật.
2. Mối quan hệ giữa các chức danh trong hoạt động tư pháp:
Vì cùng thực hiện những hoạt động tư pháp do vậy 3 chức danh luật sư,
thẩm phán và kiểm sát viên cũng cần có những quy tắc nhất định khi cùng nhau
làm việc, giải quyết các vấn đề luật pháp. Mối quan hệ giữa các chức danh tư
pháp trong hoạt động nghề luật dựa trên cơ sở hợp tác, tôn trọng lẫn nhau hướng
tới mục tiêu chung của tư pháp là thực thi pháp luật, bảo vệ pháp chế, bảo vệ
9
quyền lợi của Nhà nước, các tổ chức và công dân, góp phần ổn định và phát
triển.
Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ nêu trên, các cơ quan tư pháp và các
chức danh tư pháp ln có mối quan hệ phối hợp với nhau. Mối quan hệ phối
hợp này được xác lập và tồn tại hợp lý sẽ là một trong những điều kiện bảo đảm
cho hiệu quả của hoạt động tư pháp. Ngược lại, nếu mối quan hệ phối hợp được
thiết lập không hợp lý sẽ làm cho các cơ quan tư pháp hoạt động rời rạc, đơn lẻ
hoặc mất tính độc lập tương đối với nhau.
Trong hoạt động xét xử các vụ án, mỗi chức danh tư pháp thực hiện các hoạt
động tố tụng khác nhau, tuy nhiên giữa chúng có mối quan hệ nhất định. Mối
quan hệ này được thể hiện cụ thể trong quy trình thủ tục tố tụng: Thẩm phán, hội
thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong việc căn cứ chủ yếu vào
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng
cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của luật sư, người bào chữa, các bị cáo hay đương
sự của vụ án, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác để ra phán
quyết đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Toà án là cơ quan xét xử duy nhất
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhiệm vụ xét xử được giao trực
tiếp cho thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Trong mọi hoạt động của mình, Thẩm
phán phải hành xử đúng mực, lịch thiệp, thận trọng; duy trì trật tự và sự tơn
nghiêm trong q trình tố tụng; ln thể hiện sự kiên nhẫn, nhân ái đối với các
bị cáo, đương sự, người tham gia tố tụng khác18 và ứng xử có văn hóa, tơn trọng,
bảo vệ danh dự, uy tín của lãnh đạo và đồng nghiệp; hợp tác với đồng nghiệp để
hồn thành nhiệm vụ được giao19. Thơng qua hoạt động xét xử, thẩm phán trực
tiếp góp phần vào việc thực thi và bảo vệ pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý
nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các
18
Mục 1, Điều 7, chương II Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của thẩm phán theo Quyết định số 87/QĐ-HĐTD
ngày 04 tháng 7 năm 2018 của Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia.
19
Mục 1e, Điều 11, chương III Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của thẩm phán theo Quyết định số 87/QĐ-HĐTD
ngày 04 tháng 7 năm 2018 của Hội đồng tuyển chọn, gi ám sát Thẩm phán quốc gia.
10
quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời ngăn ngừa mọi
sự tùy tiện, lạm quyền từ phía cơ quan và cán bộ viên chức nhà nước, ngăn ngừa
hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật kỷ cương, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của Nhà nước.
Theo quan niệm truyền thống, luật sư được coi là một nghề với “sứ mệnh”
cao cả là bảo vệ quyền con người góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội.
Trong thực tế, hành nghề luật sư thường gắn rất chặt với hoạt động tư pháp mà
trọng tâm là hoạt động xét xử của tòa án. Cũng chính vì vậy mà nhiều nước trên
thế giới trong đó có Việt Nam coi luật sư là một hoạt động “bổ trợ tư pháp”.
Hoạt động tích cực của đội ngũ luật sư trong khuôn khổ luật định giúp thẩm
phán và những người tiến hành tố tụng khác làm rõ sự thật khách quan của vụ
việc, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo và các đương sự khác, đồng thời cũng
giúp thẩm phán và những người tiến hành tố tụng khác sửa chữa các sai lầm,
khuyết điểm - nếu có. Luật sư phải nghiêm chỉnh chấp hành nội quy và các quy
định có liên quan trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng; có thái độ
hợp tác, lịch sự, tôn trọng những người tiến hành tố tụng mà luật sư tiếp xúc khi
hành nghề20.
Hoạt động của kiểm sát viên là kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của
tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức nghề nghiệp, tổ chức xã hội và của
công dân. Hoạt động kiểm sát có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ với hoạt động
thực hành quyền công tố, bảo đảm cho hoạt động thực hành quyền công tố đúng
tội, đúng người, đúng pháp luật và giải quyết các vụ, việc dân sự đúng pháp luật.
Kinh nghiệm nước ngoài cho thấy, bên cạnh việc thực hành quyền công tố, cơ
quan công tố/kiểm sát các nước đều có vị trí, vai trị nhất định trong lĩnh vực dân
sự, thương mại. Kiểm sát viên cần ứng xử có văn hố, tơn trọng danh dự, uy tín
của cơ quan, tổ chức, cá nhân có quan hệ cơng tác; chân thành, có tinh thần hợp
tác, phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau hoàn thành nhiệm vụ. Trường hợp cơ quan, tổ
20
Điều 23.1, quy tắc 23 Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, theo quyết định số
201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội đồng luật sư toàn quốc.
11
chức, cá nhân có quan hệ cơng tác có thái độ, hành vi, phát ngơn khơng phù hợp
thì phải bình tĩnh, chủ động, linh hoạt xử lý phù hợp với chức trách, nhiệm vụ
được giao và vị trí của Viện kiểm sát trong quan hệ công tác21.
Hoạt động tư pháp là hoạt động quyền lực của Nhà nước, được thực hiện bởi
cơ quan tư pháp và các cán bộ tư pháp. Khi thực hiện một công việc cụ thể
thuộc lĩnh vực hoạt động tư pháp, cán bộ tư pháp có thể độc lập và cũng có thể
phải phối hợp với đồng nghiệp. Mối quan hệ phối hợp giữa các chức danh tư
pháp trước hết thể hiện trong quan hệ phối hợp giữa những thành viên trong
cùng một đơn vị, giúp cơng việc được tiến hành nhanh chóng và có chất lượng.
Trong cơng việc, các chức danh tư pháp cịn có mối quan hệ về tố tụng hay về
hành chính với lãnh đạo, người quản lý. Do đặc thù của công tác tư pháp khơng
có tính chất hoạch định trước theo kế hoạch như cơng tác hành chính, nếu cán
bộ tư pháp khơng có thái độ tuyệt đối tn thủ sự phân công, phân nhiệm của
lãnh đạo tất yếu dẫn tới tình trạng vụ việc ách tắc, khơng được giải quyết đúng
hạn luật định.
Xét từ khía cạnh hiệu quả của cơng việc, mỗi cơ quan tư pháp, cán bộ tư
pháp có vị trí, vai trị khác nhau. Nếu mỗi chức danh tư pháp ý thức được trách
nhiệm, nghĩa vụ của mình thì guồng máy tư pháp sẽ chuyển động nhịp nhàng và
có khả năng đạt hiệu quả cao. Để hoạt động tư pháp có hiệu quả, sự phối kết hợp
giữa các cơ quan và cán bộ tư pháp trong phạm vi luật định là rất cần thiết. Quan
niệm “việc tôi tôi làm, việc anh anh làm” sẽ làm phức tạp và kéo đài quá trình
giải quyết các tranh chấp, vụ án, không kịp thời khắc phục hậu quả đã xảy ra,
làm giảm hiệu quả lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, thúc đẩy quá trình thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của Nhà nước22.
Bên cạnh quan hệ phối hợp, quan hệ chế ước giữa các cơ quan và cán bộ tư
pháp được thực hiện thông qua việc một cơ quan hay cán bộ tư pháp được quyền
21
Điều 7 Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động ngành kiểm sát nhân dân theo
Quyết định số 08/QĐ-VKSTC ngày 16 tháng 01 năm 2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
22
Học viện Tư pháp, Đạo đức nghề luật, NXB Tư pháp, Hà Nội 2011 tr36-43.
12
kiểm tra, giám sát, phủ nhận quyết định của cơ quan, cán bộ tư pháp khác hoặc
yêu cầu thực hiện một cơng việc nào đó nhằm tạo ra cơ chế đối trọng, giám sát
lẫn nhau để hạn chế hoặc khắc phục sai lầm đã hoặc sẽ xảy ra.
13
KẾT LUẬN
Trong ngành Luật pháp, thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư đều là những
nghề thuộc nhóm nghề luật, có liên quan đến lĩnh vực pháp luật và đều phải đảm
bảo chuẩn mực đạo đức xã hội giống nhau khơng thể thiếu, góp phần tạo nên
sức mạnh của pháp luật. Tuy nhiên, những chức danh này cũng có những sự
khác nhau trong nhiệm vụ và đặc điểm hành nghề. Dù giống nhau hay khác nhau
thì ba chức danh, ngành nghề này vẫn có mối quan hệ mật thiết, bổ sung và
tương trợ lẫn nhau để tạo sức mạnh của Nhà nước pháp luật.
Song, hoạt động nghề nghiệp của các chức danh tư pháp không riêng biệt,
độc lập mà trái lại ln có mối liên hệ mật thiết, gắn bó với nhau tạo thành một
thể thống nhất trong khuôn khổ thực thi quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các hoạt động này được xây dựng và thực hiện
trên nền tảng tư tưởng pháp lý tiên tiến của nhân loại: “Công bằng, nhân đạo,
dân chủ và pháp chế”. Đây không chỉ là mục tiêu, định hướng cơ bản trong hoạt
động thực tiễn của các chức danh tư pháp, mà còn là tiêu chuẩn, nguyên tắc của
Nhà nước pháp quyền nhằm hướng tới lợi ích chung cho tồn xã hội. Trong đó,
hoạt động tư pháp “phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm mình
các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội
tham nhũng và các loại tội phạm có tổ chức; bảo vệ trật tự, kỷ cương: bảo đảm
và tôn trọng quyền dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công
dân”.
14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi và bổ sung năm 2012).
2. Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 2002 (sửa đổi và
bổ sung năm 2011).
3. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014.
4. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
5. Luật Tố tụng hình sự năm 2015.
6. Học viện Tư pháp, Đạo đức nghề luật, NXB Tư pháp.
7. Quyết định số 68/QĐ-HĐLST năm 2011 của Hội đồng Luật sư toàn quốc.
8. Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính Phủ.
9. Nguyễn Hà Trang (2008), “Xây dựng quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư ở Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề Tổ
chức và hoạt động luật sư.
10. Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của thẩm phán theo Quyết định số 87/QĐHĐTD ngày 04 tháng 7 năm 2018 của Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm
phán quốc gia.
11. Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, theo quyết
định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội đồng luật sư toàn quốc.
12. Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động
ngành kiểm sát nhân dân theo Quyết định số 08/QĐ-VKSTC ngày 16 tháng 01
năm 2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
15