Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

hoạt động du lịch biển và sinh kế của người dân xã xuân thành - huyện nghi xuân - tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (934.23 KB, 114 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP I HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP I HÀ NỘI

LUËN V¡N TèT NGHIÖP §¹I HäC
đề tài:
“Hoạt động du lịch biển và sinh kế của người dân xã Xuân
Thành - huyện Nghi Xuân - tỉnh Hà Tĩnh”
o viªn hín
Sinh viên thực hiện: Lê Thị Dung
Chuyên ngành: KT & PTNT
Lớp: KT49B
Niên khoá: 2004 - 2008
Giáo viên hướng dẫn: Th S. Nguyễn Trọng Đắc
Hµ Néi -2008
Lời cam đoan
1
Tôi xin cam đoan những số liệu trong bài báo cáo này hoàn toàn trung
thực và kết quả nghiên cứu chưa từng được sử dụng.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho quá trình thực hiện báo cáo đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong báo cáo này được ghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2008
Sinh viên
L ê th ị Dung
Lời cảm ơn
2
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi còn nhận
được sự giúp đỡ tận tình của nhiều cá nhân, tập thể trong và ngoài trường.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa kinh tế và phát
triển nông thôn – trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội đã hết lòng giúp đỡ và


truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu trong quá trình học tập tại trường.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới cô giáo ThS. Nguyễn
Trọng Đắc giảng viên bộ môn phát triển nông thôn - khoa Kinh tế và phát triển
nông thôn – trường Đại học nông nghiệp Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình thực tập và hoàn thiện đề tài.
Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các bác, chú lãnh đạo UBND xã
Xuân Thành đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành tốt đề tài nghiên
cứu của mình.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn tới gia đình cùng bạn bè – những người luôn động
viên, sát cánh bên tôi cả về vật chất và tinh thần trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu đề tài.
Do thời gian và kiến thức có hạn, đề tài của tôi không tránh khỏi những
hạn chế, thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các
thầy cô giáo cùng toàn thể bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2008
Sinh viên

Lê Thị Dung
MỤC LỤC
2.4.1 Tiềm năng 30
2.4.2 Hiện trạng phát triển 31
3
2.4.3 Những vấn đề đặt ra cho phát triển DL biển 34
3.1.1 Vị trí địa lý 35
3.1.2 Khí hậu 35
3.1.3 Hải văn 36
3.2.1 Tình hình đất đai 36
3.2.2 Dân cư và lao động 36
3.2.3 Văn hóa – xã hội 37

3.2.4 Kinh tế 37
3.3.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên 38
3.3.2 Tài nguyên du lịch nhân văn 39
5.1.1.3 Nguồn lực vật chất, TLSX 56
5.4.1.2 Giải pháp với các hoạt động sinh kế 97
5.4.2.4 Giải pháp xã hội hoá hoạt động DL và sự tham gia của cộng đồng trong
tổ chức và quản lý hoạt động DL biển bền vững 100
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 5.1: Nguồn lực đất đai Xuân Thành qua 3 n ăm 2005 – 2007
Bảng 5.2: Tình hình đất đai ở nhóm hộ điều tra (40 hộ)
Bảng 5.3: Nguồn lực lao động xã Xuân Thành năm 2007
Bảng 5.4: Tình hình dân số và lao động ở nhóm hộ điều tra (40 hộ)
Bảng 5.5: Nguồn lực vật chất xã Xuân Thành (2007)
Bảng 5.6: Cơ sở lưu trú tại xã Xuân Thành qua 3 năm 2005 - 2007
4
Bảng 5.7: Tình hình một số tài sản và tư liệu sản xuất ở nhóm hộ điều tra ( 40 hộ)
Bảng 5.8: Tình hình tài chính của xã Xuân Thành năm 2007
Bảng 5.9: Tình hình tài chính ở nhóm hộ điều tra
Bảng 5.10: Kết quả sản xuât kinh doanh xã Xuân Thành qua 3 năm
Bảng 5.11: Cơ cấu khách du lịch và thời gian lưu trú của du khách của Xuân
Thành trong thời gian qua
Bảng 5.12: Doanh thu và cơ cấu doanh thu hoạt động kinh doanh dịch vụ du lich
thời gian qua
Bảng 5.13: So sánh giữa có và không có hoạt động DL trong kinh tế hộ
Bảng 5.14: Tác động về văn hoá xã hội của hoạt động DL tại địa phương
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH VẼ
Sơ đồ 1: Khung sinh kế bền vững
Biểu đồ 1: Doanh thu và cơ cấu doanh thu hoạt động king doanh dịch
vụ du lich thời gian qua
PHẦN I

MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Thiên nhiên đã ban tặng cho con người những tài nguyên hết sức quý giá,
một trong những tài nguyên đó là tài nguyên cảnh quan thiên nhiên và môi trường
biển, con người không những được chiêm ngưỡng, sử dụng mà còn có thể tận dụng
tài nguyên này để phát triển DL, tạo việc làm, thúc đẩy sản xuất, tăng đáng kể
nguồn thu nhập, đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển KT- XH.
5
Cùng với quá trình phát triển về kinh tế, thì nhu cầu vui chơi, giải trí,
giao lưu của con người cũng ngày càng phát triển. DL trở thành một lựa chọn
hàng đầu của con người vì trong hoạt động này con người có thể thoả mãn đồng
thời các nhu cầu trên. Sự xuất hiện của ngành kinh tế DL đã và đang tạo ra
những bước phát triển đột phá mới cho nền kinh tế của nhân loại. Tạo điều kiện
cho con người xích lại gần nhau và giao thoa văn hoá. DL biển đ ã và đang trở
thành một chiến lược phát triển được ngành DL chú trọng nhằm tận dụng các
cảnh quan và sinh thái vùng ven biển để phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho
người dân cũng như tăng nguồn thu ngân sách cho trung ương và địa phương.
Việt Nam là một đất nước có tài nguyên DL khá phong phú và đa dạng.
Mặc dù ngành DL chỉ ra đời cách đây 40 năm và phải đối mặt với nhiều khó
khăn trở ngại nhưng DL Việt Nam vẫn thực sự chiếm được vị trí xứng đáng
trong nền kinh tế của đất nước. DL biển cũng đóng vai trò hết sực quan trọng,
với chiều dài hơn 3260km đường bờ biển và 125 bãi tắm lớn nhỏ, có đầy đủ các
tài nguyên DL cả về thiên nhiên lẫn nhân văn, chính điều này tạo khả năng và cơ
hội cho việc hình thành các điểm, cụm, tuyến, trung tâm DL biển và tổ chức xây
dựng một số khu DL biển lớn làm đòn bẩy cho phát triển DL biển Việt Nam nói
riêng và DL cả nước nói chung. [7]
Hiện nay DL là ngành được Đảng và Nhà nước quan tâm, vì đây là ngành
kinh tế tổng hợp quan trọng mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành,
liên vùng và xã hội hoá cao, phát triển DL là một hướng chiến lược quan trọng
trong đường lối phát triển kinh tế xã hội nhằm góp phần thực hiện CNH – HĐH

đất nước, phát triển DL thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn.
Xuân Thành là một xã ven biển thuộc huyện Nghi Xuân cuả tỉnh Hà Tĩnh,
nơi có hoạt động DL ra đời từ sớm và tương đối phát triển trong tỉnh. Những
năm vừa qua hoạt động DL biển đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn nơi đây và có
tác động rất lớn đến cuộc sống người dân địa phương. Sự phát triển của nó góp
6
phần to lớn vào việc giải quyết công ăn việc làm tại địa phương. Tận dụng và
phát huy được các nguồn lực của địa phương, huy động nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân đưa vào đầu tư tăng thu nhập cho các hộ gia đình. Bên cạnh những mặt
được, hoạt động DL hiện tại ở địa phương vẫn còn có một số tồn tại như: sự
phân hoá giàu nghèo, các vấn đề xã hội, vấn đề ô nhiễm môi trường… gây ảnh
hưởng không nhỏ đến cuộc sống cộng đồng dân cư nơi đây.
Đây là những thách thức đang đặt ra không chỉ với người dân mà cả với
chính quyền địa phương. Vì thế việc tìm ra giải pháp để hoạt động DL phát triển
ổn định lâu dài và trở thành hoạt động sinh kế bền vững cho người dân nơi đây
trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Xuất phát từ thực tế khách quan của địa phương chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Hoạt động du lịch biển và sinh kế của người dân xã Xuân
Thành - huyện Nghi Xuân - tỉnh Hà Tĩnh”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
a. Mục tiêu chung
Đề tài nhằm tìm hiểu hoạt động du lịch biển và sinh kế của người dân xã
Xuân Thành, từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần thúc đẩy và phát triển du
lịch biển ở xã Xuân Thành trong thời gian tới theo hướng bền vững.
b. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa CSLL về sinh kế, về hoạt động du lịch biển và các tác
động của hoạt động du lịch biển.
7
- Tìm hiểu hoạt động du lịch biển và sinh kế của người dân xã Xuân Thành
- Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát

triển nghành du lịch biển ở xã Xuân Thành qua đó góp phần tạo việc làm, nâng
cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân nơi đây.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu trên đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu hoạt
động du lịch biển, sinh kế của những hộ thuần nông, hộ nông - ngư kiêm dịch vụ
du lịch, hộ chuyên làm dịch vụ du lịch và cộng đồng dân cư xã Xuân Thành.
b. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài tìm hiểu các hoạt động du lịch biển và sinh kế của
người dân ở cấp hộ và cấp cộng đồng.
- Về thời gian nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu trong những năm gần
đây và đề xuất một số giải pháp phát triến các hoạt động dịch vụ du lịch của địa
phương trong thời gian tới.
Đề tài thực hiện từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2008.
- Về không gian: Đề tài được thực hiện tại xã Xuân Thành – huyện Nghi
Xuân – tỉnh Hà Tĩnh.
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận về sinh kế
2.2.1 Khái niệm về sinh kế
Ý tưởng sinh kế đã có từ tác phẩm của Robert Chambers vào những năm
80 (sau đó phát triển hơn nữa bởi Chamber, G.Conway, N.Singh và những người
8
khác vào đầu những năm 1990). Từ đó có một số cơ quan phát triển đã tiếp nhận
khái niệm sinh kế và cố gắng đưa vào thực hiện.
* Định nghĩa sinh kế:
Sau đây là một số định nghĩa về sinh kế đã được chấp nhận:
- Các sinh kế có thể bao gồm mức độ sung túc, con đường vận chuyển
thức ăn và tiền mặt phục vụ cho các phúc lợi về thể chất và xã hội. Điều này bao
gồm sự đảm bảo chống lại bệnh tật, tử vong sớm và trở nên nghèo hơn

(Chamber, 1993). [3]
- Các sinh kế là các phương tiện, các hạt động và các quyền dựa vào đó
con người tạo ra cuộc sống (N.Singh, 1996). [3]
Sinh kế thường được bao gồm sinh kế thay thế, sinh kế bổ sung và sinh kế
bền vững. Trong nhiều cách dùng thuật ngữ, sinh kế chủ yếu nhằm vào lĩnh vực
kinh tế, tuy nhiên nó có thể được xem xét vượt quá các hoạt động kinh tế và bao
gồm chất lượng các tiêu chuẩn của cuộc sống, các chuẩn thức ăn, nơi cư trú, sức
khoẻ và sự toại nguyện.
* Nội dung sinh kế bền vững:
- Sinh kế bền vững là sự cân bằng giữa hiệu quả kinh tế, tính toàn vẹn về
sinh thái và phúc lợi loài người, cũng bao gồm cả mối quan tâm về tính công
bằng. Các sinh kế bền vững được phát triển từ khả năng của con người để tiếp
cân với những lựa chọn và tài nguyên và sử dụng chúng để tạo ra cuộc sống theo
cách không làm tổn hại đến quyền sống của những người khác dù ngay bây giờ
hoặc mai sau (N.Singh, 1996).[3]
- Một sinh kế bền vững là có phần dự trữ để dùng khi gặp những bất trắc
như ốm đau, tai nạn, mất mát, những nhu cầu xã hội bất ngờ hoặc thiết yếu, v.v
(Chambers, 1993).[3]
Như vậy một sinh kế có thể được miêu tả như là sự tập hợp các nguồn lực
và khả năng mà con người có được, kết hợp với những quyết định và hoạt động
9
mà họ thực thi nhằm kiếm sống cũng như để đạt được các mục tiêu và ước
nguyện của họ. Một sinh kế bền vững khi con người có thể đối phó và phục hồi
từ những áp lực và các cú sốc đồng thời có thể duy trì hoặc nậng cao khả năng và
tài sản cả ở hiện tại lẫn trong tương lai mà không gây tổn hại đến cơ sở các
nguồn tài nguyên thiên nhiên.
2.1.2 Phương pháp tiếp cận sinh kế bền vững (SLA)
Phương pháp tiếp cận sinh kế bền vững được đề cập đầu tiên vào năm
1992 bởi Robert Chambers. Nó nhanh chóng được chấp nhận bởi Oxfam (1993),
và gần đây là CARE, UNDP (1995) và DFID (1997), đa số những quan tâm gần

đây trong cách tiếp cận là kết quả nhiệt tình của DFID, và hội thảo đưa chủ yếu
vào những tài liệu tập huấn của DFID.
Phương pháp tiếp cận sinh kế bền vững đặt con người làm tâm điểm của
công tác phát triển, các đặc điểm của phương pháp náy là: [3 ]
- Bắt đầu bằng việc phân tích các chiến lược, sự kiện của con người và
những chiến lược đó thay đổi như thế nào qua thời gian.
- Lôi cuốn mọi người tham gia một cách đầy đủ và tôn trọng ý kiến của họ
đồng thời đưa ra nhiều hoạt động nhằm hỗ trợ nhười dân đạt được các mục đích
sinh kế của mình.
- Phân biệt giữa các nhóm khác nhau chịu ảnh hưởng của các chương trình
phát triển và xây dựng những yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia của họ trong
chương trình đó nêu bật các tác động của chính sách và cơ cấu thể chế đối với
người dân cũng như hộ gia đình.
- Nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc tác động đến chính sách và cơ cấu
thể chế nói trên để chúng hỗ trợ các vấn đề của người dân.
Áp dụng phương pháp tiếp cận này có nghĩa là sử dụng một cách nhìn rộng,
không bị bó buộc bởi bất kỳ một tư tưởng nào ở hiện tại về cái gì là quan trọng đối
với con người, với những gì con người thực hiện hoặc cố gắng đạt được.
10
Mặc dù phương pháp tiếp cận sinh kế bền vữngcủa DFID đề xuất là tập
trung vào mục tiêu thúc đẩy các chính sách và hành động nhằm phát triển sinh kế
bền vững, nhưng nó cũng nhằm tới các mục tiêu khác như có nền giáo dục tốt
hơn, sức khoẻ và cơ hội cho người nghèo; bảo vệ và quản lý tốt hơn nguồn tài
nguyên thiên nhiên.
Phương pháp tiệp cận sinh kế của DFID nhấn mạnh tới việc giảm sự dễ bị
tổn thương và khả năng phục hồi, nói rộng hơn là về tài sản, năng lực và những
hoạt động (hơn là chỉ nhấn mạnh tới những cơ hội việc làm của người dân) và
quan tâm rõ ràng tới chính bản thân nó gắn với hiện trạng nguồn tài nguyên. Nói
một cách cụ thể DFID mong đợi tiếp cận sinh kế bền vững sẽ:
Cung cấp hiẻu biết tốt hơn về mọi mặt của nghèo đói.

Cung cấp những ngữ cảnh cho việc thảo luận và thuyết trình về XĐGN.
Giúp DFID và những thành viên của nó giải đáp những quan điểm của
người nghèo.
Giúp đỡ việc xây dựng những ưu tiên cho hoạt động giúp đỡ tìm ra phương pháp
đo lường sự thành công cho các công trình và dự án XĐGN
2.2.2 Khung sinh kế bền vững của DFID
11
Phân tích có sự tham gia
Phạm vi dễ bị
tổn thương
Theo mùa
biến động các
xu hướng
Cơ cấu
tổ chức
H
F
N
P
S
Tác động
và tiếp cận
Tài sản sinh kế
Các quy
trình
Luật pháp
Văn hoá
Chính
sách
Các cấp

chính
quyền
Khu vực
tư nhân
NGOs
Các chính sách, các cơ
cấu tổ chức và các quy
trình
Sơ đồ 1: Khung sinh kế bền vững
Khung sinh kế bền vững là một công cụ trực quan hoá được Bộ phát triển
quốc tế Anh (Department for International Development – DFID) xây dựng từ
những năm 80 của thế kỷ XX nhằm tìm hiểu các loại hình sinh kế. Mục đích của
nó là giúp người sử dụng nắm được những khía cạnh khác nhau của các loại hình
sinh kế, đặc biệt là những yếu tố làm nảy sinh vấn đề hoặc những yếu tố tạo cơ
hội. Một số tổ chức khác cũng đã phát triển những khung sinh kế tương tự và có
nghĩa là sử dụng một cách nhìn rộng, không bị bó buộc bởi bất cứ một tư tưởng
nào ở hiện tại về vấn đề cái gí là quan trọng đối với con người.
12
(Nguồn: )
Các chiến
lược sinh kế
-Giảm nghèo thông qua công nghệ và
hạ tầng bền vững
-Nâng cao cơ hội tạo thu nhập và việc
làm thông qua các hoạt động nông nghiệp và
phi nông nghiệp, tài chính vi mô và đào tạo kỹ
năng
- Cải thiện tình trạng hiện nay cả về vật
chất lẫn tinh thần của người dân dễ bị tổn
thương

Các kết quả bền vững
Phát triển thể chế
H: đại diện cho vốn con người: các ký năng kỹ xảo, kiến thức, năng lực lao động và sức
khoẻ co vai trò quan trọng, giúp tiến hành được các chiến lược sinh kế khác nhau.
P: Đại diện cho vốn vật chất: hạ tầng cơ bản (đường sá, nhà cửa, nước, năng lượng
và thông tin) và các phương tiện, trang thiết bị phục vụ sản xuất giúp sinh sống.
S: Đại diện cho vốn xã hội: nguồn lực xã hội (các mạng lưới, thành viên của các
nhóm, mối quan hệ tin cậy, khả năng tiếp cận với các tổ chức thể chế rộng lớn của xã
hội) để trên cơ sơ đó con người có thể tiến hành sinh kế của mình.
F: Đại diện cho vốn tài chính: các nguồn lực tài chính sẵn có cho con người (có
thể là tiết kiệm, các cung cấp về tín dụng hoặc các khoản chuyển tiền đều dặn hoặc tiền
trợ cấp) và những thứ đem đên những lựa chon sinh kế khác nhau.
N: Đại diện cho vốn tự nhiên: tài nguyên thiên nhiên tích trữ có ích để tạo ra các sinh kế
(ví dụ tài nguyên đất, nước, động vật hoang dã, đa dạng sinh học, môi trường
* Các thành phần cơ bản của khung sinh kế bền vững
- Phạm vi dễ bị tổn thương:
Định nghĩa: Phạm vi dễ bị tổn thương là môi trường sống bên ngoài của
con người. Sinh kế và tài sản sẵn có của con người bị ảnh hưởng cơ bản bởi
những xu hướng chủ yếu, cũng như bởi những cú sốc và tính thời vụ. Chính điều
này khiến sinh kế và tài sản trở nên bị giới hạn và không kiểm soát được.
Một đặc điểm quan trọng trong phạm vi bị tổn thương là con người không thể
dễ dàng kiểm soát những yếu tố trước mắt hoặc lâu dài. phạm vi bị tổn thương hoặc
sự bấp bênh của sinh kế tạo ra từ những yếu tố này là một thực tế thường trực cho rất
nhiều hộ nghèo. Điều này chủ yếu là do họ không có những khả năng tiếp cận với
những nguồn lực có thể giúp họ bảo vệ mình khỏi những tác động xấu.
- Những tài sản sinh kế (nguồn vốn sinh kế - nguồn lực sinh kế)
Giới thiệu các loại tài sản:
Tiếp cận sinh kế thì cần tập trung trước hết và đầu tiên với con người. Nó
cố gắng đạt được sự hiểu biết chính xác và thực tế về sức mạnh của con người
(tài sản hoặc tài sản vốn) và cách họ cố gắng biến đổi chúng thành kết quả sinh

kế hữu ích.
Khung sinh kế xác định năm loại tài sản trung tâm mà dựa vào đó tạo ra
những sinh kế đó là:
Nguồn vốn con người
Nguồn vốn xã hội
Nguồn vốn tự nhiên
Nguồn vốn vật thể
Nguồn vốn tài chính
Đặc điểm của mô hình năm loại tài sản
13
Hình dạng của ngũ giác diễn tả khả năng tiếp cận của người dân với các
loại tài sản. Như vậy những ngũ giác có hình dạng khác nhau có thể được vẽ cho
những cộng đồng khác nhau hoặc cho những nhóm xã hội khác nhau trong cộng
đồng đó. Quan trọng là một tài sản riêng lẻ có thể tạo ra nhiều lợi ích. Nếu một
người có thể tiếp cận chắc chắn với đất đai (tài sản tự nhiên) họ cũng có thể có
được nguồn tài chính vì họ có thể sử dụng đất đai cho những hoạt động trực tiếp
mà còn có thể cho thuê. Tương tự như vây, vật nuôi (tài sản hữu hình) có thể tạo
ra nguồn vốn xã hội (uy tín và sự liên hệ với cộng đồng cho người sở hữu
chúng)… Phẩm chất của tài sản thay đổi thường xuyên vì vậy ngũ giác cũng thay
đổi liên tục theo thời gian. Sơ đồ hình ngũ giác rất hữu ích cho việc tìm ra điểm
nào thích hợp, những tài sản nào sẽ phục vụ cho nhu cầu của nhóm xã hội khác
nhau và cân bằng giữa những tài sản đó như thế nào?
Đây là chìa khoá để xem xét chung nhất sức mạnh gì mà người dân có và
cần có. Nó lôi kéo sự chú ý khỏi sự tiếp cận tài sản đơn lẻ, nơi mà những dự án
sinh lợi quan tâm đến tình hình tài chính của con người, hoặc những dự án tài
nguyên thiên nhiên, ưu tiên cho sự cải thiện nguồn vốn tự nhiên mà không quan
tâm đến lợi ích của nó tới sinh kế.
- Cấu trúc và quá trình biến đổi
Các chính sách thể chế bao gồm một loạt những yếu tố liên quan đến bối cảnh
có tác động mạnh lên mọi khía cạnh của sinh kế. Rất nhiều trong số những yếu tố này

có liên quan đến môi trường, quyết định, chính sách và các dịch vụ do Nhà nước thực
hiện. Tuy nhiên những vấn đề dó cũng bao gồm cả các cấp chính quyền địa phương,
các tổ chức dựa vào cộng đồng và những hoạt động của khu vực tư nhân. [2 ]
- Các chiến lược sinh kế
Các chiến lược sinh kế bao gồm những lựa chọn và quyết định của người dân về
những việc như :
+ Họ đầu tư vào nguồn vốn và sự kết hợp tài sản sinh kế như thế nào?
14
+ Quy mô các hoạt động tạo thu nhập mà họ theo đuổi?
+ Cách thức họ quản lý như thế nào để bảo tồn các tài sản sinh kế và thu
nhập?
+ Cách thức họ thu nhận và phát triển như thế nào những kiến thức và kỹ năng
cần thiết để kiếm sống?
+ Họ đối phó như thế nào với những rủi ro, những cú sốc?
+ Những cuộc khủng hoảng ở nhiều dạng khác nhau?
+ Họ sử dụng thời gian và công sức lao động mà họ có được như thế nào để
làm được những điều trên?
- Kết quả sinh kế
Mục đích của việc sử dụng khung sinh kế là để tìm hiểu những công thức mà
con người kết hợp và sử dụng các nguồn lực, khả năng nhằm kiếm sống cũng như đạt
được các mục tiêu và ước nguyện của họ. Những mục tiêu và ước nguyện này có thể
gọi là kết quả sinh kế, đó là những thứ mà con người muốn đạt được trong cuộc sống
cả về trước mắt lẫn lâu dài. Kết quả sinh kế có thể là: [3 ]
+ Hưng thịnh hơn: Thu nhập cao và ổn định hơn, cơ hội làn việc tốt hơn, kết
quả của những công việc mà người dân đang thực hiện tăng lên và nhìn chung lượng
tiền của hộ gia đình thu được tăng.
+ Đời sống được nâng cao: Ngoài tiền và những thứ mua được bằng tiền,
người ta còn đánh giá đời sống bằng giá trị của những hàng hoá phi vật chất khác, sự
đánh giá về đời sống của người dân chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố, ví dụ như
căn cứ vào vấn đề giáo dục và y tế cho các thành viên gia đình được đảm bảo, các

điều kiện sống tốt, sự an toàn đời sống vật chất.
+ khả năng tổn thương giảm: Giảm khả năng tổn thương có trong ổn dịnh giá
cả thị trường, an toàn sau các thảm hoạ, khả năng kiểm soát dịch bệnh gia súc.
15
+ An ninh lương thực được củng cố: Tăng cường khả năng an ninh lương thực
có thể được thể hiện thông qua đảm bảo khả năng tiếp cận nguồn tài nguyên dất,
nâng cao và ổn định thu hoạch mùa màng, đa dạng hoá các loại hình cây lương thực.
* Mối quan hệ trong khung
- Mối quan hệ giữa các tài sản
Những tài sản sinh kế nối kết với nhau theo vô số cách để tạo ra kết quả
sinh kế có lợi. Hai loại quan hệ quan trọng là:
+ Sự tuần tự: Việc sở hữu một loại tài sản giúp người dân từ đó tạo thêm
các loại tài sản khác. Ví dụ: người dân dùng tiền (nguồn vốn tài chính) để mua
sắm vật dụng sản xuất và tiêu dùng (nguồn vốn vật thể).
+ Sự thay thế: Trong mối quan hệ này chúng ta cần tìm hiểu xem một loại tài
sản có thể thay thế cho nhiều loại tài sản không? Ví dụ: sự gia tăng nguồn vốn con
người có đủ để đền bù sự thiếu hụt nguồn vốn tài chính không? nếu có, điều này có
thể dựa vào mở rộng lựa chọn cho cung cấp.
- Mối quan hệ trong khung:
+ Tài sản và hoàn cảnh dễ bị tổn thương: Tài sản có thể vừa bị phá huỷ,
vừa được tạo ra thông qua các biến động của hoàn cảnh.
+ Tài sản và sự tái cấu trúc và thay đổi quy trình thể chế: Thể chế, chính
sách và sự chuyển dịch cơ cấu, quy trình sản xuất có ảnh hưởng sâu sắc đến khả
năng tiếp cận tài sản.
Tạo ra tài sản: Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản (nguồn
vốn hữu hình) hoặc phát minh kỹ thuật (nguồn vốn con người) hoặc sự tồn tại
những thể chế địa phương làm mạnh lên nguồn vốn xã hội.
Xác định cách tiếp cận tài sản: quyền sở hữu, những thể chế điều chỉnh
cách tiếp cận với những nguồn tài nguyên phổ biến.
Ảnh hưởng tỷ lệ tích luỹ tài sản: Ví dụ: chính sách thuế ảnh hưởng đến

doanh thu của những chiến lược sinh kế….
16
Tuy nhiên, đây không phải là mối quan hệ đơn giản những cá nhân và
nhóm cũng ảnh hưởng lên sự tái cấu trúc và sự thay đổi quy trình thể chế. Nói
chung tài sản càng được cung ứng cho người dân thì họ sẽ sử dụng càng nhiều.
Vì vậy, một cách để đạt được sự trao quyền có thể là hỗ trợ cho người dân xây
dựng những tài sản của họ.
+ Tài sản và những chiến lược sinh kế: Những ai có nhiều tài sản có
khuynh hướng có nhiều lựa chọn lớn hơn và khả năng chuyển đổi giữa nhiều
chiến lược để đảm bảo sinh kế của hộ.
+ Tài sản và những kết quả sinh kế: Khả năng người dân thoát nghèo phụ
thuộc vào sự tiếp cận của họ đối với những tài sản. Những tài sản khác nhau cần
đạt được những kết quả sinh kế khác nhau. Ví dụ: thu nhập nông hội phụ thuộc
vào đầu tư các yếu tố sản xuất chính như: diện tích đất đang sử dụng, số lao động
trong gia đình, giá trị tài sản cố định ngoài đất đai, có điều kiện tiếp cận thuỷ lợi
thuận lợi và áp dụng giống lúa mới. Tất cả các yếu tố trên đóng góp vào tăng
năng suất đất đai và thu nhập của nông hộ. Sự gia tăng năng suất nông nghiệp có
thể gián tiếp ảnh hưởng lên lĩnh vực phi nông nghiệp bằng sự gia tăng thặng dư
tương tự lúa gạo và như vậy tạo cơ hội việc làm trong lĩnh vực chế biến ở nông
thôn, thương mại và các hoạt động vận chuyển (Mellor, 1976). Từ đó có thể
đóng góp trực tiếp làm thu nhập nông nghiệp lớn hơn. Sự tăng tài nguyên nhân
lực tuỳ thuộc cấp lớp đã đến trường của chủ hộ có thể góp phần làm tăng năng
suất lao động các hoạt động phi nông nghiệp, từ đó thu nhập nông hộ gia tăng.
Giáo dục cũng tạo cơ hội nghề nghiệp cho thành phần lao động gia đình thủ
công, năng suất thấp (chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp và các hoạt động xây
dựng) chuyển sang các hoạt động ngoài nông nghiệp như: thương mại và dịch
vụ. Tình trạng của cơ sở hạ tầng cũng đóng góp tích cực vào thu nhập thông qua
giá cả của đầu vào, đầu ra trong lĩnh vực thương mại và qua việc gia tăng cơ hội
lao động làm tăng thu nhập trong lĩnh vực phi nông nghiệp ở nông thôn. Ngoài
17

nguồn vốn tiết kiệm của gia đình, tiết kiệm tín dụng làm tăng thêm vốn cũng làm
tăng thêm thu nhập của nông hộ.
*Cách sử dụng khung:
Khung sinh kế như thể hiện ở sơ đồ 1 bao gồm những nhân tố chính ảnh
hưởng đến sinh kế của con người và những mối quan hệ cơ bản giữa chúng. Nó có
thể được sử dụng để lên kế hoạch cho những hoạt động phát triển mới và đánh giá
sự đóng góp vào sinh kế bền vững của những hoạt động hiện tại. Cụ thể là:
- Cung cấp bảng liệt kê những vấn đề quan trọng nhất và phác hoạ mối liên
hệ giưa những thành phần này.
- Tập trung sự chú ý vào các tác động và các quy trình quan trọng.
- Nhấn mạnh sự tương tác phức tạp giữa các nhân tố khác nhau, làm ảnh
hưởng đến sinh kế.
2.2 Cơ sở lý luận về du lịch
2.2.1 Khái niệm về du lịch
* Du lịch
Ngày nay du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến
không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam. Tuy nhiên cho đến nay, không chỉ ở nước ta nhận thức về nội dung du
lịch vẫn chưa được thống nhất. Trước tình hình thực tế phát triển của ngành DL
thì việc nghiên cứu thảo luận để đi đến thống nhất một khái niệm về DL là một
đòi hỏi cần thiết.
Do hoàn cảnh thời gian khác nhau, khu vực khác nhau, dưới mỗi góc độ
nghiên cứu khác nhau, mỗi người, mỗi khu vực, mỗi tổ chức có một cách hiểu về
DL khác nhau. Đúng như một chuyên gia về DL đã nhận định: “đối với DL, có
bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu quan niệm”. [5]
- Quan niệm cũ về DL
18
+ Theo Ausher, DL là nghệ thuật đi chơi và sự mở rộng không gian văn
hoá của con người. [5]
+ Theo Azar, DL là một trong những hình thức di chuyển tạm thời từ một

vùng này sang một vùng khác, từ một nước này sang một nước khác không gắn
với sự thay đổi nơi cư trú và nơi làm việc. [5]
Theo các quan điểm này thì DL được đề cập đơn thuần tới sự di chuyển
của con người rời khỏi nơi cư trú của họ để thoả mãn nhu cầu nâng cao hiểu biết
về không gian xung quanh chứ chưa đề cập tới những mối quan hệ phát sinh
trong quá trình di chuyển đó. Vì thế các quan điểm này chưa phản ánh đầy đủ
hiện tượng du lịch, nhưng cũng phải thấy rằng đây chính là cơ sở tiền đề cho sự
ra đời của các khái niệm về DL sau này.
- DL theo ý nghĩa hiện đại.
Theo thời gian cùng với sự phát triển của khoa học và các điều kiện KT – XH
khác. Do việc phải đảm bảo nhu cầu ăn, ngủ, mua sắm và các nhu cầu khác của du
khách đã làm cho du lịch mang thêm một nội dung nũa là nội dung kinh tế.
+ Theo tổ chức du lịch thế giới (WTO) thì DL là họat động của con người
có liên quan đến đi lại, đi ra khỏi vùng và trong vùng nhằm các mục tiêu nghỉ
ngơi, kinh doanh và các mục tiêu khác, thời gian dưới một năm. [7]
+ Năm 1963 với mục đích quốc tế hoá, tại hội nghị liên hợp quốc tế về DL
họp ở Roma, các chuyên gia đã đưa ra khái niệm về DL như sau: “DL là tổng hợp
các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các hoạt động
của cá nhân của tập thể bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hoặc ngoài nước họ
với mục đích hoà bình. Nơi họ đến lưu trú không phải nơi làm việc của họ”. [7]
+ Ở Việt Nam, theo pháp lệnh DL, tháng 2 năm 1999: “DL là một ngành
kinh tế tổng hợp quan trọng mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên vùng và
xã hội hoá cao”. [10]
19
Như vậy, rõ ràng là trong các quan niệm mới về DL thì phạm vi về nội dung
của DL đã được mở rộng ra từ chỗ chỉ là hoạt động liên quan đến đi lại, bây giờ
đã xuất hiện thêm yếu tố kinh tế. Chính yếu tố kinh tế trong DL đã chi phối các
mối quan hệ khác trong chuyến đi của khách DL. Cho nên có thể coi DL là một
ngành kinh tế tổng hợp, cho đến nay thì trong hầu hết các quan niệm về DL, yếu
tố kinh tế không những không mất đi mà vai trò của nó trong khái niệm về DL

ngày càng được nâng lên ở tầm quan trọng hơn, là trung tâm phát sinh mối quan
hệ giữa khách DL, người cung cấp dịch vụ DL, chính phủ, cộng đồng dân cư,
làm hấp dẫn và lôi cuốn khách DL.
Do DL là tổng thể những mối quan hệ phát sinh trong chuyến đi của du
khách liên quan tới tất cả các lĩnh vực xã hội nên có thể nói rằng DL là một
ngành kinh tế tổng hợp có qua hệ mật thiết với các ngành kinh tế khác. Vì thế sự
phát triển của DL cũng sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của các ngành khác.
* Du khách
Du khách là người từ nơi khác đến vào thời gian rảnh rỗi của họ với mục
đích thoả mãn tại nơi đến, nhu cầu nâng cao hiểu biết, phục hồi sức khoẻ, xây
dựng hoặc tăng cường tình cảm của con người với nhau hoặc với thiên nhiên, thư
giãn, giải trí hoặc thể hiện mình kèm theo việc tiêu thụ những giá trị tinh thần,
vật chất và các dịch vụ do các cơ sở của ngành DL cung ứng. [5]
Như vậy, có thể thấy du khách là những người từ nơi khác đến, họ đến địa
phương để ngắm nhìn nhằm nâng cao hiểu biết. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện
nay thì du khách cũng có thể được cụ thể hoá bằng tiêu chí về thời gian và
khoảng cách từ nơi đi, chẳng hạn:
+ Mỹ quy định du khách là những người đi ra khỏi nhà 50 dặm và đi về
trong ngày. [5]
+ Anh quy định du khách là những người đi ra khỏi nhà ít nhất một đêm. [5]
20
+ Úc quy định du khách là người đi ra khỏi nhà trong phạm vi 40 km, thời
gian ít nhất là 24 giờ và không quá 1 tháng. [5]
+ Ở Việt Nam thì du khách là những người từ nơi khác đến và nghỉ qua
đêm tại một cơ sở lưu trú của ngành DL. [10]
Đối với du khách, người ta thường phân ra 2 loại khác nhau đó là du
khách thuần tuý và du khách kết hợp. Du khách thuần tuý là những người mà
chuyến đi của họ có mục đích chính là nâng cao hiểu bíêt tại nơi đến về các điều
kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá…Du khách kết hợp là những người kết hợp
chuyến đi của mình ngoài nâng cao hiểu biết tại nơi đến còn kèm theo những

mục đích khác như đi công tác, hội họp, tìm kiếm cơ hội làm ăn…Những người
này sắp xếp được thời gian cho việc tham quan, nghỉ ngơi của mình. [5]
• Tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách
mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con người có thể được
sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu DL, là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm
DL, khu DL nhằm tạo ra sự hấp dẫn DL. [5]
2.2.2 Các điều kiện cơ bản để phát triển du lịch
Với tư cách là một ngành kinh tế, để phát triển DL cần thiết phải xuất hiện
và tồn tại hai yếu tố cơ bản là “cung” và “cầu” DL
* Điều kiện hình thành “cung” du lịch
- Tài nguyên DL: DL là ngành kinh tế có định hướng tài nguyên một cách
rõ rệt. Vì vậy tài nguyên du lịch là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm DL, khu
DL nhằm tạo ra sự hấp dẫn DL.
- CSHT và cơ sở vật chất kỹ thuật DL: Đây là điều kiện quan trọng để tiếp
cận khai thác các tiềm năng tài nguyên DL và tổ chức các dịch vụ DL.
21
- Đội ngũ lao động: Là yếu tố quản lý, vận hành hoạt động DL. Chất lượng
của đội ngũ lao động trong hoạt động nghiệp vụ còn quyết định chất lượng sản
phẩm DL.
- Cơ chế chính sách: Là môi trường pháp lý để tạo sự tăng trưởng của
“cung” trong hoạt động DL. Trong DL đây cũng được xem là yếu tố quan trọng
để tạo điều kiện cho khách đến. [12]
* Điều kiện hình thành “cầu” du lịch
- Thị trường khách DL: DL không thể tồn tại và phát triển nếu không có
khách DL. Chính vì vậy đây là điều kiện tiên quyết để hình thành “cầu” DL.
- Tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến DL: Được xem là yếu tố tăng “cầu”; yếu
tố “cầu” nối giữa “cung” và “cầu” trong DL.
Bên cạnh những yếu tố cơ bản để có thể hình thành thị trường (mua - bán)
và phát triển DL, hoạt động DL có thể phát triển tốt trong điều kiện:

- Có môi trường lành mạnh về tự nhiên, xã hội và không có dịch bệnh: DL
là ngành kinh tế rất nhạy cảm và gắn liền với các yếu tố môi trường. Sự suy giảm
đột ngột của DL bởi dịch viêm đường hô hấp cấp (SARS) gần đây ở một số nước
trên thế giới, trong đó có Việt Nam là một minh chứng cụ thể cho vấn đề này.
- Đảm bảo an ninh, không có khủng bố, sung đột vũ trang: Tình hình bất ổn
định ở Indonesia, Phillippine; khủng bố ở Mỹ; chiến tranh ở Trung Đông v.v đều
được xem là nguyên nhân chính làm giảm lượng khách du lịch đến khu này. [11]
1.2.3 Các ảnh hưởng của hoạt động du lịch
“DL là hoạt động của con người ngoài nơi cư thú thường xuyên của mình
nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời
gian nhất định”. [11]
Hoạt động phát triển DL có tác động ảnh hưởng đến nhiều mặt của kinh
tế, văn hoá xã hội và tài nguyên môi trường.
Đối với KT – XH, tác động của hoạt động DL thể hiện ở các mặt chủ yếu:
22
- Góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ; đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu tại chỗ.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ.
- Góp phần tạo công ăn việc làm cho xã hội, nâng cao mức sống của người
dân nơi có DL phát triển.
- Góp phần thúc đẩy phát triển CSHT xã hội, đổi mới “bộ mặt” đô thị.
- Góp phần phát huy các giá trị văn hoá dân tộc.
- Góp phần tăng cường giao lưu quốc tế.
Bên cạnh những tác động tích cực, một số ảnh hưởng tiêu cực có thể nảy
sinh trong quá trình hoạt động phát triển DL bao gồm:
- Một số giá trị văn hoá có thể bị biến đổi do thương mại hoá.
- Tạo sự cách biệt về kinh tế, sự thay đổi trong nếp sống truyền thống của
cộng đồng.
- Tệ nạn xã hội gia tăng.
Đối với tài nguyên thiên nhiên và môi trường bên cạnh những tác động
tích cực như góp phần làm tăng giá trị sử dụng đất; phục hồi, tôn tạo cảnh quan

đối với những không gian được quy hoạch xây dựng các khu DL; bảo vệ và phát
triển một số loài sinh vật quý hiếm, bản địa để phục vụ tham quan DL; v.v hoạt
động DL có thể có những ảnh hưởng chính bao gồm:
- Góp phần làm mất đi nơi cư trú (habitat) của nhiều loài sinh vật do việc
san lấp tạo mặt bằng xây dựng các công trình DVDL.
- Kích thích việc săn bắt, khai thác các loài sinh vật quý hiếm, hoang dã.
- Khai thác quá mức tài nguyên nước ngầm, đặc biệt khu vực ven biển.
- Tăng lượng chất thải ra môi trường, góp phần làm suy giảm tài nguyên
và gây ô nhiễm môi trường.
- Tăng khả năng ô nhiễm không khí cục bộ.
- Tăng khả năng lây truyền dịch bệnh.
23
Các môi trường chủ yếu chịu ảnh hưởng của hoạt động phát triển DL là:
Môi trường đất, môi trường nước, môi trường sinh thái, môi trường không khí
(cục bộ). [11]
2.2.4 Quản lý DL để hạn chế tác động đến tài nguyên, môi truờng.
- Quản lý về “sức chứa”
Phân tích sức chứa là phương pháp được sử dụng nhằm xác định giới hạn
phát triển DL trên giới hạn cao nhất có thể khai thác sử dụng tài nguyên DL ở
một điểm DL nào đó. Mathieson và Wall (1982) định nghĩa: “sức chứa” là số
lượng người tối đa có thể tham quan điểm DL mà không gây ra sự thay đổi
không thể chấp nhận được về những gì du khách cảm nhận được ở một điểm DL.
Innskeep (1991) đã bổ sung thêm là “không gây tác động xấu tới xã hội, kinh tế,
văn hóa của điểm DL tới mức không thể chấp nhận được”. [11]
Đứng trên góc độ vật lý, sức chứa ở đây được hiểu là số lượng tối đa du
khách mà khu vực có thể chấp nhận. Điều này liên quan đến những tiêu chuẩn
tối thiểu về không gian đối với mỗi du khách cũng như đối với nhu cầu sinh hoạt
của họ.
Công thức chung để tính sức chứa của một điểm DL như sau: [11]
CPI = AR/ a

Trong đó:
CPI: Sức chứa thường xuyên (Instantaneous carrying capacity)
AR: Diện tích của khu vực (Size of area)
a: Tiêu chuẩn không gian (diện tích cần cho một người)
CPD = CPI * TR = TR/ a
Trong đó:
CPD: Sức chứa hàng ngày (Daily capacity)
TR: Công suất sử dụng mỗi ngày (Turnover rate of users per day)
24
CPY = CPD/ PR = AR*TR/a*PR
Trong đó:
CPY: Sức chứa hàng năm (Yearly capacity)
PR: Ngày sử dụng (tỷ lệ ngày sử dụng liên tục trong năm, sử dụng cả đêm
1/365*OR)
OR: Công suất sử dụng giường (Occupancy rate)
Công thức trên có thể áp dụng cho các hoạt động có yêu cầu sử dụng diện tích.
Đứng dưới góc độ sinh học, sức chứa được hiểu là khả năng tối đa mà nếu
lớn hơn sẽ vượt quá khả năng tiếp nhận của môi trường, làm xuất hiện các tác
động sinh thái do hoạt động của du khách và các tiện nghi mà họ sử dụng bắt đầu
có những ảnh hưởng tới tập tục sinh hoạt của các loài thú hoang dã và làm cho
hệ sinh thái xuống cấp.
Đứng dưới góc độ tâm lý: Sức chứa được hiểu là giới hạn lượng khách mà
nếu vượt quá bản thân du khách sẽ bắt đầu cảm thấy khó chịu vì sự “đông đúc”
và hoạt động của họ bị ảnh hưởng bởi sự có mặt của các du khách khác. Nói một
cách khác mức độ thoả mãn của du khách giảm xuống dưới mức bình thường do
tình trạng quá đông đúc. Sức chứa này đạt tới ngưỡng khi có quá nhiều du khách
tới điểm tham quan làm du khách phải chịu nhiều tác động do du khách khác gây
ra (ví dụ khó quan sát được các loài thú hoang dã, đi lại khó khăn hơn, sự khó
chịu nảy sinh do rác thải…). Những tác động này làm giảm đáng kể sự hài lòng
của du khách.

Đứng dưới góc độ xã hội: Sức chứa là gới hạn về lượng du khách mà tại
độ bắt đầu xuất hiện những tác động tiêu cực của hoạt động du lịch đến đời sống
văn hoá – xã hội, KT – XH của khu vực. Cuộc sống bình thường của cộng đồng
địa phương có cảm giác bị phá vỡ, xâm nhập.
Đứng dưới góc độ quản lý: sức chứa được hiểu là lượng khách tối đa mà
khu lịch có khả năng phục vụ. Nếu lượng khách vượt quá giới hạn này năng lực
25

×