Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Từ quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, làm rõ sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.04 KB, 19 trang )

Đề tài 4: Từ quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối
quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, làm rõ sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta
hiện nay.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................2
NỘI DUNG CHÍNH..................................................................................................3
I.

Quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa lực

lượng sản xuất và quan hệ sản xuất..........................................................................3
1.1.

Lực lượng sản xuất......................................................................................3

1.2.

Quan hệ sản xuất..........................................................................................4

1.3.

Nội dung của quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất........................................................................................................4
II.

Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản

xuất, làm rõ sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong phát triển lực lượng


sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta hiện nay.....................................................5
2.1.

Bối cảnh Việt Nam hiện nay........................................................................6

2.2. Thực trạng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của Việt nam trước
và sau Đổi mới (1986)............................................................................................8
2.2.1. Thời kỳ trước đổi mới...............................................................................8
2.2.2. Thời kỳ sau đổi mới (1986)....................................................................10


2.3.

Phương hướng để tiếp tục vận dụng tốt quy luật quan hệ sản xuất phù hợp

với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.......................11
KẾT LUẬN..............................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................17

MỞ ĐẦU
Triết học Mác - Lênin đã cung cấp một quan điểm sâu sắc về mối
quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, qua đó
đóng một vai trị quan trọng trong việc nắm bắt và phân tích q trình phát
triển xã hội. Mơ hình này khơng chỉ có giá trị lý thuyết mà còn được áp dụng
vào thực tế, bao gồm cả tình hình phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất trong nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đưa ra các chính sách và biện pháp nhằm thúc đẩy phát triển lực lượng sản
xuất và điều chỉnh quan hệ sản xuất, nhằm đạt được mục tiêu xây dựng một
xã hội xã hội công bằng, tiến bộ và phát triển bền vững.
Triết học Mác - Lênin cho rằng, sự tương tác giữa lực lượng sản xuất

(bao gồm các yếu tố sản xuất như công nghệ, lao động và tài nguyên) và
quan hệ sản xuất (bao gồm các quy tắc, quyền lực và tổ chức xã hội) là
nguyên nhân chính cho sự phát triển xã hội. Trong quá trình này, lực lượng
sản xuất có vai trị quyết định quan hệ sản xuất, cịn quan hệ sản xuất lại tác
động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất không ngừng
tiến bộ, và đồng thời, quan hệ sản xuất cũng phải điều chỉnh và thích ứng để
phù hợp với sự phát triển đó. Sự tương tác được thể hiện thơng qua một q
trình biện chứng khơng ngừng, đóng góp vào sự tiến bộ và phát triển của xã
hội.


Trong bối cảnh của nước ta hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
hiểu rõ quan điểm này và vận dụng nó một cách đúng đắn, sáng tạo trong
thực tiễn quá trình phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Thông
qua việc tạo điều kiện thuận lợi cho tiến bộ khoa học, đẩy mạnh đổi mới
công nghệ, cải tiến quy trình sản xuất, Đảng đã tạo đà phát triển mạnh mẽ
cho lực lượng sản xuất. Đồng thời, Đảng cũng đã có chủ trương chủ động
điều chỉnh và cải cách các quy tắc, quyền lực và tổ chức xã hội, nhằm tạo
điều kiện công bằng và thuận lợi cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chú trọng đến việc xây dựng nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường vai trò của nhà
nước và thúc đẩy sự phát triển bền vững trong các lĩnh vực kinh tế, công
nghệ, đầu tư và quản lý. Bằng việc kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, Đảng ta đã định hình được một mơ hình phát triển đặc
trưng, phù hợp với hồn cảnh và điều kiện của nước ta.
Tuy nhiên, cần nhận thức rằng sự phát triển lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất là q trình phức tạp, đa chiều và địi hỏi sự điều chỉnh liên
tục. Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản
Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn, bao gồm việc cải
cách thể chế, đảm bảo công bằng xã hội cũng như xử lý bất cập trong quan

hệ sản xuất. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, đánh giá và vận dụng quan
điểm của triết học Mác - Lênin sẽ đóng vai trị quan trọng trong việc thúc
đẩy sự phát triển bền vững của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở
nước ta.
NỘI DUNG CHÍNH
I.

Quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất


I.1.

Lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất: là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo
thành sức mạnh cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của
con người. "Lực lượng sản xuất - tất cả những gì có nguồn gốc từ cơng nghệ
và quyền lực cùng với sự tạo ra và phân phối của hàng hóa - đó là cơ sở vật
chất của tất cả các quan hệ xã hội." (“Các biên niên sử kinh tế chính trị” - C.
Mác)
Lực lượng sản xuất bao gồm hai bộ phận cơ bản: tư liệu sản xuất và
người lao động.
Tư liệu sản xuất là tất cả những yếu tố vật chất mà con người sử dụng
để tiến hành sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Trong đó tư liệu lao động là nguồn lực mà xã hội sử dụng để thực hiện q
trình sản xuất (bao gồm máy móc, thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận
chuyển và bảo quản sản phẩm……). Đối tượng lao động là những yếu tố
nguyên nhiên vật liệu có sẵn trong tự nhiên (gỗ, than đá,…) hoặc được tạo ra
nhân tạo để phục vụ sản xuất (pơlime,….).

Người lao động là chủ thể của q trình lao động sản xuất, là người
tạo ra và sử dụng tư liệu lao động vào đối tượng lao động để tạo ra sản
phẩm. Họ đóng vai trị quan trọng trong việc áp dụng kiến thức, kỹ năng và
sáng tạo của mình để sản xuất và đóng góp vào phát triển kinh tế và xã hội.
Ngày nay, với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã khiến cho tri
thức khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Lực lượng sản xuất đóng vai trị cơ bản trong việc cải biến tự nhiên,
tạo nên cơ sở vật chất cho các quan hệ xã hội và xác định tính chất cũng như
phạm vi phát triển của xã hội. Phát triển lực lượng sản xuất có thể dẫn đến
sự thay đổi trong các quan hệ xã hội và mang lại tiến bộ lịch sử. Hiểu về lực


lượng sản xuất là một phần quan trọng trong việc nghiên cứu về sự phát triển
và biến đổi của xã hội.
I.2.

Quan hệ sản xuất

Quan hệ sản xuất: là mỗi quan hệ giũa người với người trong quá trình
sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).
Quan hệ sản xuất bao gồm:
Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất (quan hệ sở hữu): nói lên ai là
chủ sở hữu đối với nhà máy, xí nghiệp ,các thiết bị, các nguyên nhiên vật
liệu trong quá trình sản xuất .
Quan hệ trong tổ chức – quản lý quá trình sản xuất: nói lên ai là người
tổ chức, quản lý và điều hành quá trình sản xuất.
Quan hệ trong phân phối kết quả của q trình sản xuất đó : nói lên ai
là người có quyền phân phối, chia thành quả sản xuất, cho những ai và như
thế nào?
Trong ba mối quan hệ trên thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đóng

vai trị quan trọng nhất, quyết định hai mối quan hệ kia, đồng thời tác động
trở lại bằng cách thúc đẩy hay kìm hãm.
I.3.

Nội dung của quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất có vai trị quyết định đối với sự hình thành và phát
triển của quan hệ sản xuất.
Tương ứng với một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất địi hỏi
phải có một quan hệ sản xuất phù hợp. Lực lượng sản xuất ln khơng
ngừng phát triển ở một trình độ cao hơn nên quan hệ sản xuất cũng phải phát
triển để tạo động lực cho lực lượng sản xuất. Nhưng do lực lượng sản xuất
luôn phát triển nhanh hơn quan hệ sản xuất nên đến một lúc nào đó sẽ mâu


thuẫn với quan hệ sản xuất, đòi hỏi phải xuất hiện quan hệ sản xuất mới phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất có vai trị tác động trở lại đối với sự phát triển của
lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất, phân
phối. Do đó nó trực tiếp ảnh hưởng đến thái độ của người lao động, năng
suất, chất lượng cũng như hiệu quả của q trình sản xuất và cải tiến cơng cụ
lao động. Sự tác động của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất diễn ra
theo hai hướng, hoặc là tích cực, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển khi
nó phù hợp hoặc là tiêu cực, kìm hãm lực lượng sản xuất khi nó khơng phù
hợp.
Như vậy, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển phá vỡ sự phù
hợp về mặt trình độ của quan hệ sản xuất đối với nó địi hỏi phá bỏ quan hệ
sản xuất lỗi thời và thay thế bằng một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn. Q

trình đó lặp đi lặp lại tác động đến xã hội loài người qua việc trải qua những
phương thức sản xuất từ thấp đến cao dẫn đến sự thay thế lẫn nhau của các
hình thái kinh tế – xã hội, từ kinh tế cổ điển đến kinh tế công nghiệp, và từ
kinh tế công nghiệp đến kinh tế tri thức và đổi mới. Đây là một phần quan
trọng trong sự phát triển và tiến bộ lịch sử của xã hội loài người.
II.

Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, làm rõ sự vận dụng của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong phát triển lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất ở nước ta hiện nay

II.1. Bối cảnh Việt Nam hiện nay
Việt Nam hiện nay đang trải qua thời kỳ quan trọng của quá trình quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là giai đoạn đặc biệt quan trọng trong lịch sử
và phát triển của đất nước, đòi hỏi sự nhạy bén, quyết đoán và sáng tạo từ


Đảng Cộng sản Việt Nam để tạo ra một xã hội xã hội công bằng, tiến bộ và
phát triển bền vững. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là một thời kỳ lịch sử mà: “Nhiệm vụ quan trọng nhất
của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội,… tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện
đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà
xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dai” (Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.10, tr.13)
Trong thời kỳ quá độ này, Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách
thức và cơ hội. Thách thức đầu tiên đó là việc phải vượt qua những hạn chế
và bất cập của chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ những tác động tiêu cực từ thị

trường tự do và bảo vệ lợi ích cộng đồng. Đồng thời, Việt Nam cũng phải
đối mặt với áp lực của q trình tồn cầu hóa và sự cạnh tranh khốc liệt trên
thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong bối cảnh này, Việt Nam cũng có nhiều cơ hội để khai
thác và phát triển. Nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc
phát triển kinh tế, đổi mới công nghệ, và tạo ra sự tiến bộ trong đời sống của
nhân dân. Sự ổn định chính trị cùng với sự lãnh đạo mạnh mẽ của Đảng và
sự quyết tâm của nhân dân Việt Nam là những yếu tố quan trọng trong việc
thúc đẩy quá trình quá độ này.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang nỗ lực để định hình một hướng
phát triển xã hội chủ nghĩa đúng đắn và bền vững. Việc xây dựng và củng cố
quyền lực nhân dân, tăng cường vai trò của các lực lượng cơ sở, đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, và phát triển giáo dục, y tế và
văn hóa đang được coi là những ưu tiên hàng đầu.


Trong bối cảnh đặc biệt này, triết học Mác - Lênin đã và đang đóng
vai trị quan trọng trong việc hướng dẫn và định hình con đường phát triển
của Việt Nam. Sự vận dụng linh hoạt và sáng tạo của triết học Mác - Lênin
trong tình hình Việt Nam hiện nay là yếu tố quan trọng để đảm bảo sự thành
cơng của q trình q độ và xây dựng một xã hội xã hội công bằng, tiến bộ
và phát triển bền vững.
Về kinh tế, chính trị và văn hóa-xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, đã xảy ra nhiều biến đổi đáng kể và đạt được
những thành tựu đáng chú ý.
Về mặt kinh tế, Việt Nam đã chuyển từ một nền kinh tế tập trung vào
kinh tế truyền thống và nông nghiệp sang một nền kinh tế đa dạng hóa, cơng
nghiệp hóa và hiện đại hóa. Chính sách đổi mới và mở cửa của Đảng đã tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các ngành công nghiệp, dịch vụ và
xuất khẩu. Kinh tế Việt Nam đã có mức tăng trưởng ấn tượng, thu hút đầu tư

nước ngồi và đóng góp quan trọng vào nền kinh tế khu vực.
Về mặt chính trị, Việt Nam đã duy trì một chế độ chính trị ổn định
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng đã thể hiện vai trò
quan trọng trong việc xây dựng và duy trì một hệ thống chính trị liên kết,
trong đó quyền lực nhân dân và các tổ chức cơ sở được tôn trọng và đảm
bảo. Đảng cũng đã đẩy mạnh công tác cải cách thể chế, tăng cường sự minh
bạch và chống tham nhũng, đồng thời đảm bảo ổn định an ninh và trật tự
trong quá trình phát triển.
Về mặt văn hóa - xã hội, Việt Nam đã chú trọng đến việc bảo tồn và
phát triển văn hóa truyền thống, đồng thời đa dạng hóa và tiếp thu các giá trị
văn hóa tồn cầu. Đất nước đã đạt được tiến bộ đáng kể trong giáo dục, y tế
và phát triển các ngành nghề. Quyền lợi của công dân được đảm bảo, đảm
bảo sự cơng bằng và bình đẳng trong xã hội. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã


đóng góp tích cực vào hịa bình và hợp tác quốc tế, trở thành một thành viên
có trách nhiệm trong các cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên bên cạnh đó, trong q trình phát triển, Việt Nam vẫn cịn
đối mặt với một số thách thức. Các khía cạnh kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội vẫn cần được cải thiện và điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu và mong đợi
của nhân dân. Cần tiếp tục nỗ lực trong việc phát triển kinh tế bền vững,
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và đảm bảo công bằng xã hội.
Đồng thời, cần duy trì sự ổn định chính trị và phát triển văn hóa - xã hội đa
dạng và giàu tính nhân văn.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã cho thấy những
đổi mới, phát triển và tiến bộ đáng kể trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và
văn hóa-xã hội. Điều này đã tạo ra một cơ sở vững chắc cho sự phát triển và
tiến bộ của đất nước trong tương lai.
2.2. Thực trạng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của Việt
nam trước và sau Đổi mới (1986)
2.2.1. Thời kỳ trước đổi mới

Sau cuộc chiến tranh bảo vệ dân tộc kéo dài, kinh tế nước ta vốn đã
lạc hậu nay lại càng gặp nhiều khó khăn hơn, lực lượng sản xuất của nước ta
còn thấp kém và chưa có điều kiện phát triển.
Trình độ người lao động rất thấp, hầu hết khơng có chun mơn tay
nghề, phần lớn lao động chưa qua đào tạo. Lao động Việt nam chủ yếu hoạt
động trong lĩnh vực nông nghiệp, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm mà cha ông
để lại. Trường dạy nghề rất hiếm, chủ yếu chỉ xuất hiện ở Hà Nội, Sài Gịn,
… Tại những đơ thị lớn, trình độ của người lao động có chênh lệch cao hơn
các vùng khác trong cả nước.
Tư liệu sản xuất mà nhất là công cụ lao động ở nước ta thời kỳ này
cịn thơ sơ, lạc hậu. Là một nước nơng nghiệp thế nhưng công cụ lao động


chủ yếu là cày, cuốc, theo hình thức “con trâu đi trước, cái cày theo sau”, sử
dụng sức người là chủ yếu, trong cơng nghiệp máy móc thiết bị cịn ít và rất
lạc hậu. Phát triển công cụ lao động giữa các vùng, miền cũng có sự khác
nhau.
Nhìn chung trước trước Đổi Mới lực lượng sản xuất ở Việt Nam thấp
kém, lạc hậu và phát triển khơng đồng đều.
Trong hồn cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng quan
hệ sản xuất xã hôi chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
bao gồm hai thành phần kinh tế: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở
hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân
dân lao động.
Nhà nước không thừa nhận yếu tố kinh tế tư bản như là các thành
phần kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, đã phân
định tách bạch thuần khiết chế độ sở hữu và thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa, phi xã hội chủ nghĩa, tuyệt đối hóa vai trị của chế độ công hữu, dẫn
đến chủ trương cải tạo, sớm xóa bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa.

Trong thời kỳ đầu, sau giải phóng miền Bắc, bước vào xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chúng ta đã nhấn mạnh thái q vai trị “tích cực” của quan hệ
sản xuất, dẫn đến chủ trương quan hệ sản xuất phải đi trước, mở đường để
tạo động lực cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Có những nơi nơng dân bị
bắt ép đi vào các hợp tác xã, mở rộng nơng trường quốc doanh mà khơng
tính đến lực lượng sản xuất cịn rất lạc hậu.
Người lao động khơng được chú trọng về cả trình độ và thái độ lao
động, đáng ra là chủ thể của sản xuất nhưng lại trở nên thụ động trong cơ
chế quan liêu bao cấp. Nước ta quá nhấn mạnh sở hữu tư liệu sản xuất theo
hướng tập thể hóa, cho đó là nhân tố hàng đầu của quan hệ sản xuất mới, từ


đó người lao động bị biệt lập với đối tượng lao động. Quan hệ sản xuất lên
quá cao, tách rời với lực lượng sản xuất. Hậu quả là sản xuất bị kìm hãm,
đời sơng nhân dân đi xuống nhanh chóng. Đến cuối năm 1985, giá bán lẻ
hàng hóa tăng vọt (845.3%), năng suất lao động quá thấp, kinh tế lâm vào
khủng hoảng trầm trọng.
2.2.2. Thời kỳ sau đổi mới (1986)
Nhận thức được sai lầm trong thời kỳ trước, Đại hội Đảng lần thứ VI
năm 1986 đã thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm, chủ trương Đổi mới phương
thức quản lý kinh tế và cho đến nay đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Người lao động nước ta đến năm 2005 là 44,3 triệu người, trong đó lao động
đã qua đào tạo là 24,79 %. Hệ thống trường dạy nghề các cấp được mở rộng.
Đội ngũ trí thức cũng tăng lên nhanh chóng, năm 2007-2008, cả nước có
1.603.484 nghìn sinh viên.
Năm 2008, nước ta có 160 trường đại học, 209 trường cao đẳng và
275 trường trung cấp chuyên nghiệp, đáp ứng được phần nào nhu cầu đào
tạo lao động cho đất nước. Tuy nhiên, thị trường lao động vẫn bị phân mảng,
tồn tại tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu lao động, nhất là “thiếu thợ”.
Nền kinh tế đang thiếu đi nguồn nhân lực có tay nghề, chất lượng nhân lực

của Việt Nam còn thấp so với các nước lân cận.
Máy móc và các trang thiết bị hiện đại ngày càng được sử dụng rộng
rãi trong các ngành kinh tế. Trong nông nghiệp là máy cày, máy bừa,…các
giống cây trồng mới cũng được tìm ra và phổ biến. Trong công nghiệp bắt
đầu phát triển, đẩy mạnh sản xuất. Tuy nhiên nhìn chung so với nhiều quốc
gia trên thế giới thì tư liệu sản xuất nước ta cịn nghèo nàn, chậm cải tiến,
hiệu quả chưa thật sự cao và còn phân hóa giữa các vùng trong cả nước.
Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình


thức kinh doanh đa dạng, phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của
các thành phần kinh tế, các quan hệ sản xuất xã hôi chủ nghĩa, quan hệ sản
xuất tư bản.
Như vậy, trong hoàn cảnh lực lượng sản xuất không ngừng phát triển,
Đảng và Nhà nước ta chủ trương đa dạng các mối quan hệ xã hội đã bước
đầu vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của
lực lượng sản xuất và được đạt nhiều thành tựu đáng kể. Năm 2005, tốc độ
tăng trưởng GDP của nước ta là 8,4 %, cao nhất khu vực Đông Nam Á.
Trong bối cảnh nhiều nước rơi vào khủng hoảng thì vốn đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam vẫn cao, cụ thể là 45 tỷ USD vốn FDI từ 2005 - 2010, GDP
trên người khoảng 1168 USD/người/năm (theo số liệu của Tổng cục Thống
kê)
2.3.

Phương hướng để tiếp tục vận dụng tốt quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta
hiện nay
Một trong những cống hiến vĩ đại của C.Mác là phát hiện Chủ nghĩa


duy vật lịch sử - đây là bước ngoặt có tính cách mạng trong lịch sử triết học
của nhân loại. Bằng phương pháp biện chứng và lập trường duy vật về lịch
sử, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của xã hợi lồi người qua các thời kỳ
lịch sử. Với cống hiến này, lần đầu tiên lịch sử được nhận thức và lý giải
đúng như bản thân nó, khách quan và chân thực.
Theo C.Mác, xã hội phát triển qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ
thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn nhất định là một hình thái kinh
tế - xã hội; sự vận động thay thế các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử
do các quy luật khách quan chi phối - đó là một quá trình lịch sử tự nhiên,
mà nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển đó là do sự phát triển của
lực lượng sản xuất, C.Mác khẳng định: “Chỉ có đem những quan hệ xã hội


vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình
độ của lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để
quan niệm sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử tự nhiên” (C. Mác - "Các biên niên sử kinh tế chính trị").
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt có mối quan hệ
biện chứng với nhau làm cho sản xuất phát triển. Lực lượng sản xuất là sự
thống nhất giữa người lao động với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao
động. Con người khơng thể sản xuất có hiệu quả nếu tiến hành riêng lẻ, mà
phải liên kết, phối hợp với nhau, quan hệ tác động với nhau. Bởi vậy, thiếu
một trong hai mối quan hệ này thì khơng thể có sản xuất vật chất.
Trong đó, vai trị quyết định thuộc về lực lượng sản xuất. Mỗi loại
hình quan hệ sản xuất được xác lập trên cơ sở thích ứng với một trạng thái,
trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất
biến đổi thì quan hệ sản xuất cũng biến đổi theo, sự phát triển của lực lượng
sản xuất là nguyên nhân sâu xa và là động lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển
của lịch sử.
Nâng cao trình độ người lao động bằng cách phát triển giáo dục đào

tạo đặc biệt là đào tạo nghề. Nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục đào tạo
nghề, nhằm đẩy mạnh phát triển nguồn lao động cả về số lượng và chất
lượng.
Hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để
hoàn thiện quan hệ sản xuất. Tăng cường những bước cơ bản về cơ sở vật
chất cho khoa học – công nghệ, tập trung phát triển để đạt trình độ tiên tiến
trong khu vực trên các lĩnh vực công nghệ trọng điểm như cơng nghệ thơng
tin, cơng nghệ sinh học, hóa dầu….
Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải
có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa


quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng
thời sử dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản
lý kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát
huy tính tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực.
Mặc dù lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất nhưng do
quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, quy định cách thức tổ
chức, quản lý, phân công sản xuất, quy định sự phát triển và ứng dụng khoa
học công nghệ vì vậy, tác động đến thái độ của con người trong sản xuất ...
từ đó hình thành những yếu tố, khuynh hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự
phát triển của lực lượng sản xuất.
Có thể thấy rằng, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là quy luật kinh tế cơ bản, phổ biến, chi phối mọi phương
thức sản xuất, không loại trừ một quốc gia dân tộc nào. Điều đó, địi hỏi
chúng ta muốn phát triển kinh tế đất nước thì phải nhận thức đúng để hành
động phù hợp với quy luật khách quan.
Ở nước ta, trước thời kỳ đổi mới thực hiện cơ chế quản lý kinh tế kế
hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Mặc dù đã huy động được sức
người, sức của cho kháng chiến và phát huy có hiệu quả trong thời kỳ,

nhưng kinh tế tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng. Do chưa thừa nhận sự
tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, coi cơ chế thị trường chỉ là thứ yếu
bổ sung cho kế hoạch hoá; thủ tiêu cạnh tranh, triệt tiêu động lực kinh tế đối
với người lao động, kìm hãm tiến bộ khoa học, công nghệ… quá nhấn mạnh
một chiều cải tạo quan hệ sản xuất mà không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển
lực lượng sản xuất, coi nhẹ quan hệ quản lý, quan hệ phân phối. Trong xác
lập quan hệ sản xuất, chúng ta tuyệt đối hố vai trị của cơng hữu, làm cho
quan hệ sản xuất chỉ cịn tồn tại giản đơn dưới hai hình thức tồn dân và tập
thể; nóng vội trong việc xố bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa,


khơng chấp nhận các hình thức sở hữu hỗn hợp, sở hữu quá độ; xoá bỏ chế
độ sở hữu tư nhân một cách ồ ạt, trong khi nó đang tạo điều kiện cho sự phát
triển lực lượng sản xuất. Dẫn đến lực lượng sản xuất khơng phát triển, tình
trạng trì trệ kéo dài, sản x́t đình đớn, đời sớng người dân gặp nhiều khó
khăn. Hạn chế đó, có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu là
chúng ta đã chủ quan, duy ý chí dẫn đến việc nhận thức và vận dụng không
đúng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, khởi đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã
nêu ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều
thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, với nhiều chế độ sở hữu. Mặc dù, chưa
đề cập đến cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế thị trường, nhưng đây là
dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về con
đường và phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự
nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; đồng thời đã đặt cơ sở, nền tảng
quan trọng để các nhân tố mới ra đời, tạo tiền đề để từng bước phát triển nền
kinh tế nước ta. Quá trình vận dụng quy luật và xuất phát từ thực tiễn đất
nước, tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3-1989), Đảng đã khẳng định:

“Thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, coi đây là
chính sách có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi
lên chủ nghĩa xã hội; trong đó mọi người được tự do làm ăn theo pháp luật;
các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác với
nhau, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở bình đẳng trước
pháp luật”.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhìn tổng thể hơn 30 năm qua
đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con


đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, có thành tựu về nhận thức và
vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất ở nước ta. Hơn nữa, trong bối cảnh tồn cầu hố và
hội nhập quốc tế, việc nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất đi đơi với
từng bước hồn thiện quan hệ sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội, khắc
phục nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế đang càng là một yêu cầu cấp thiết.
Để thực hiện điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã, đang và sẽ phải tiếp
tục thống nhất nhận thức về kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế
vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường. Đồng thời
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của đất nước; xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế;
có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo. Xác lập nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Việt nam “có
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trị chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của
nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và
cạnh tranh theo pháp luật”; thị trường đóng vai trị chủ yếu trong huy động
và phân bổ hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải
phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược,

quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trị
định hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế, tạo mơi trường cạnh
tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các cơng cụ, chính sách
và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc
đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trị làm chủ
của nhân dân trong phát triển kinh tế xã hội.


Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, biện pháp để
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá nhằm phát triển lực lượng sản xuất,
tạo “cốt vật chất” cho quan hệ sản xuất mới. Tiếp tục thực hiện đổi mới mơ
hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố gắn với phát triển kinh tế tri thức, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh
tế, doanh nghiệp và hàng hố dịch vụ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại lực, tiếp thu những thành tựu về
khoa học và cơng nghệ, về kinh tế tri thức. Xây dựng, hồn thiện luật pháp
và chính sách kinh tế để kiến tạo sự phát triển bền vững. Đào tạo nguồn
nhân lực, trọng dụng nhân tài, nhất là trong bộ máy quản lý nhà nước. Đổi
mới thể chế nhằm tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật và chính sách; phát
huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương.
Có thể khẳng định cơng cuộc đổi mới là quá trình chúng ta ngày càng
nhận thức và vận dụng đúng đắn hơn quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong điều kiện thực tiễn
Việt Nam.
KẾT LUẬN
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là quy luật phổ biến, tác động trong toàn tiến trình lịch sử
nhân loại. Sau chặng đường thực hiện Đổi mới vừa qua, Đảng ta đã khơng
ngừng tìm tịi, phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất,

quan hệ sản xuất trên tổng thể và đối với từng yếu tố cấu thành nên quan hệ
sản xuất.
Thực tiễn cho thấy con đường chúng ta đang đi là đúng đắn và đạt
nhiều thành tựu quan trọng, vượt qua nhiều giai đoạn lịch sử nhạy cảm. Về
con đường và cách thức đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta có nhiều vấn đề


được làm sáng tỏ nhưng cũng có nhiều vấn đề cần phải phát triển thêm. Có
thể nói việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một vấn đề như thế.
Mặt khác cần đi đơi với việc phát triển cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước và đi tắt đón đầu, chú trọng các ngành nhiều thế mạnh trở thành ngành
công nghiệp mũi nhọn, phù hợp với sự phát triển nền khoa học cơng nghệ
nước nhà.
Việc phát triển cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và phát triển
nền kinh tế thị trường phải được thực hiện đồng thời, thúc đẩy hỗ trợ nhau
cùng phát triển. Bởi lẽ nếu công nghiệp hóa – hiện đại hóa tạo nên lực lượng
sản xuất cần thiết cho sự phát triển xã hội thì việc phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần có sự điều tiết của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ
nghĩa chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp. Nước ta cần
xác lập và hoàn thiện một quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp với lực lượng
sản xuất hiện nay để đất nước phát triển hơn nữa, mà trước hết là phát triển
kinh tế một cách bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ GD và ĐT, Giáo trình Những ngun lí cơ bản của Chủ nghĩa
Mác – LêNin, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2021
2. Bộ GD và ĐT, Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dành cho bậc đại
học hệ không chuyên lý luận chính trị), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật,
2021;
3. BCH Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 06NQ/HNTW ngày 29/3/2989, Hội nghị lần thứ sau BCH Trung ương Đảng

(khóa VI) về kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và phương
hướng, nhiệm vụ ba năm tới;


4. BCH Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, H. 2016, tr 25;
5. Các biên niên sử kinh tế chính trị - C. Mác
6. V.I.Lênin Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Macxcova, 1978, t1, tr.163;



×