Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

phân tích nhận định tái bảo hiểm là bảo hiểm lại cho bảo hiểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.57 KB, 14 trang )

TP.HCM, tháng 9 năm 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Phân tích nhận định
“Tái bảo hiểm là bảo hiểm lại cho bảo hiểm”
GVHD: TS. Nguyễn Tấn Hoàng
SVTH :
Trương Quang Chính – NH06
Phùng Thị Hải Linh – NH06
Trương Thị Lan Phương – NH06
Dương Cao Kiều Quyên – NH06
Lê Thị Tuyết Thanh – NH06
Nguyễn Thị Thanh Tuyền – NH06
MỤC LỤC
Lời mở đầu 2
I. Tổng quan về tái bảo hiểm 3
1.Khái niệm 3
2. Lịch sử phát triển của tái bảo hiểm 3
3. Mối quan hệ trong tái bảo hiểm 6
4. Cơ sở pháp lý 6
5. Sự cần thiết của tái bảo hiểm 6
6.Tác dụng của tái bảo hiểm 7
7. Ưu nhược điểm của tái bảo hiểm 7
8. Phân loại 8
II. Phân tích nhận định “Tái bảo hiểm là bảo hiểm lại cho bảo hiểm” 8
III. Vài nét về thực trạng tái bảo hiểm 11
2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống, dù muốn hay không, ở bất kỳ nơi đâu, thời điểm nào, bất cứ vật
thể, chủ thể nào cũng chứa đựng trong nó một rủi ro tiềm ẩn. Rủi ro đó có thể làm cho


chúng ta bị tổn thất đi một thứ gì đó. Và chúng ta luôn muốn có thể loại bỏ hoặc ít nhất
cũng có thể giảm thiểu được những rủi ro cũng như những tổn thất đó.
Để làm được điều đó, thông thường chúng ta hay chọn cách tránh né rủi ro.
Đương nhiên nếu chúng ta có thể tìm cách tránh né được những rủi ro mà chúng ta
nhận ra được là một điều rất tốt. Chẳng hạn như, chúng ta sợ bị tai nạn giao thông, ta
có thể ở nhà, tốt nhất là không ra đường. Nhưng như vậy có khả thi không, chúng ta
không thể suốt ngày chỉ ở trong nhà, chúng ta còn công việc, còn việc học hành, xã
hội… và thậm chí nếu chúng ta ở trong nhà cũng không hoàn toàn chắc chắn chúng ta
không thể bị tai nạn nào đó.
Từ đó, ta thấy không phải lúc nào cũng có thể tránh né được rủi ro. Khi không thể
tránh né và cũng không có phương thức nào để giải quyết, ta đành phải gánh chịu rủi
ro, như ví dụ trên chẳng hạn, khi biết không thể nào tránh né được tai nạn, chúng ta
đành phải chấp nhận rủi ro ra đường để hoạt động. Nhưng việc chấp nhận rủi ro không
phải là một điều mà chúng ta nên làm, đối với những tổn thất nhỏ, chúng ta có thể
chấp nhận nó, nhưng đối với những tổn thất lớn, hiển nhiên chúng ta không thể gánh
chịu toàn bộ nó.
Khi đó mọi người thường tìm cách giảm thiểu được những tổn thất đó càng nhiều
càng tốt bằng cách giảm thiểu được những nguy cơ có thể dẫn đến tổn thất đó. Nhưng
cũng thật khó để tìm ra được những nguy cơ có thể xảy ra, chúng ta có thể có cách
khác khả thi hơn, đó là hoán chuyển một phần rủi ro sang người khác. Đây chính là
cách mà bảo hiểm hoạt động. Khi ta nhận thấy xung quanh có một rủi ro nào đó có thể
khiến ta có thể bị tổn thất một phần tài sản hay thể chất, tinh thần… trong tương lai, ta
có thể mua một bảo hiểm cho rủi ro đó, để khi tổn thất xảy ra, chúng ta không phải
một mình gánh chịu hoàn toàn những tổn thất đó.
Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm là “sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh
của số ít”. Thật vậy, trong số những người tham gia bảo hiểm cho một rủi ro nào đó,
không phải bất kỳ ai trong số đó cũng gặp phải tổn thất. Chính vì thế, khi một người
phải gánh chịu tổn thất, công ty bảo hiểm có thể sử dụng tiền của những người còn lại
để bù đắp tổn thất cho người bị tổn thất. Khi có càng nhiều người tham gia bảo hiểm,
quỹ bảo hiểm sẽ ngày càng lớn. Quỹ này trước hết được sử dụng để bù đắp tổn thất và

đồng thời cũng mang lại lợi nhuận cho nhà kinh doanh bảo hiểm cũng như thu nhập
cho xã hội (thông qua thuế, phí). Từ đó, bảo hiểm giúp đảm bảo cho quá trình tái sản
xuất được thường xuyên và liên tục.
Như đã phân tích ở trên, một rủi ro có thể được hoán chuyển và giảm thiểu thông
qua bảo hiểm, và người đứng ra bảo hiểm cho các rủi ro mà xã hội gặp phải là các tổ
3
chức nhận bảo hiểm. Nhưng đến lượt mình, các tổ chức này cũng trở thành đối tượng
được bảo hiểm. Khi bảo hiểm cho một rủi ro hoặc nhiều rủi ro, mà tổn thất của nó khi
xảy ra vượt ngoài khả năng tài chính của mình, cũng giống như các đối tượng được
bảo hiểm khác, các tổ chức này phải tìm cách hoán chuyển rủi ro của mình và giảm
thiểu rủi ro bằng cách đi mua một bảo hiểm tại một tổ chức khác có quy mô lớn hơn,
đủ sức để san sẻ những tổn thất có thể xảy ra đối với những rủi ro mà mình đang bảo
hiểm. Từ đó xuất hiện một nghiệp vụ mới – tái bảo hiểm _mà người ta vẫn nói một
cách chung và dễ hiểu là “tái bảo hiểm là bảo hiểm lại cho bảo hiểm”.
Để làm rỏ nhận định này trước hết ta cần phải hiểu một cách tổng quan về
tái bảo hiểm.
I. Tổng quan về tái bảo hiểm
1.Khái niệm:
Tái bảo hiểm là nghiệp vụ mà qua đó một tổ chức bảo hiểm chuyển cho một tổ
chức bảo hiểm khác một phần rủi ro mà anh ta đã chấp nhận bảo đảm cho người được
bảo hiểm, thông qua hợp đồng tái bảo hiểm.
Nói cách khác, tái bảo hiểm là phương pháp phân tán rủi ro mà tổ chức bảo hiểm
sử dụng để nhượng một phần trách nhiệm trước đối tượng được bảo hiểm cho tổ chức
bảo hiểm khác bằng hợp đồng tái bảo hiểm.
Như vậy, “tái bảo hiểm là sự bảo hiểm cho những rủi ro mà người bảo hiểm
phải gánh chịu”. Nói cách khác, tái bảo hiểm là quá trình người bảo hiểm chuyển một
phần trách nhiệm đã chấp nhận với người được bảo hiểm cho người bảo hiểm khác
bằng cách nhượng lại cho họ một phần phí bảo hiểm qua hợp đồng tái bảo hiểm. Như
vậy hành động "bảo hiểm" được "bảo hiểm" lại một lần nữa nên người ta gọi là
"reinsurance" hay là "tái bảo hiểm".

2. Lịch sử phát triển của tái bảo hiểm:
Như chúng ta đều biết, ngành bảo hiểm không phải là một khái niệm trùng lặp mà
nó mang tính chất giai cấp sâu sắc, vì một mặt bản chất và nhiệm vụ của nó được xác
định qua những trật tư xã hội khác nhau và quy luật kinh tế cơ bản của xã hội đó, đồng
thời mặt khác hoạt động của nó có tác dụng trở lại đối với sự phát triển của quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất của xã hội đó. Vì vậy, sự phát triển của ngành bảo hiểm
nói chung và tái bảo hiểm nói riêng đều gắn chặt với sự phát triển của xã hội và của
nền sản xuất hàng hóa.
2.1. Giai đoạn đầu phát triển của tái bảo hiểm
Vào giai đoạn cuối cùng của thời đại trung cổ, khi ngành bảo hiểm bắt đầu phát
triển và mở rộng ở châu Âu thì nhu cầu tái bảo hiểm đã xuất hiện và ngày càng tăng
nhanh cùng với sự phát triển của nền kinh tế TBCN. Trước tiên, nghiệp vụ tái bảo
hiểm được tiến hành cho loại hình bảo hiểm vận chuyển hàng hải, sau này dần dần
được mở rộng sang bảo hiểm cháy, BHNT.
4
Nước Ý là nước đầu tiên chứng kiến sự ra đời của dịch vụ tái bảo hiểm. Bản giao
ước cổ nhất được biết đến với tính chất pháp lý như một hợp đồng tái bảo hiểm đã
được ký kết tại thành phố Genés vào năm 1370 giữa một bên là hai thương nhân hoạt
động với tư cách là nhà tái bảo hiểm với một bên là đại diện cho một nhà bảo hiểm.
Hợp đồng tái bảo hiểm này được ký kết nhằm đảm bảo dịch vụ bảo hiểm cho các hàng
hóa gửi đi bằng đường biển từ Genés đến Bruges. Sau này với sự phát triển rộng rãi về
những mối quan hệ kinh tế thương mại giữa các thành phố của nước Ý và giữa các
nước Bắc Âu, đặc biệt là nước Anh dịch vụ tái bảo hiểm đã phát triển lên một bước.
Nhưng sau đó đã xuất hiện nhiều vụ lạm dụng có tính cách con buôn gây ra nhiều phản
ứng chống lại bản chất tái bảo hiểm. Trong những vụ này các nhà bảo hiểm đã lợi
dụng hình thức tái bảo hiểm để phân tán rủi ro nhưng theo tỷ lệ phí thấp hơn nhiều so
với phí bảo hiểm gốc để kiếm lời. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự ra đời đạo
luật cấm các hoạt động tái bảo hiểm hàng hải ở nước Anh trong một thời gian dài từ
1746 đến 1864. Đạo luật này đã vô hình chung tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức
Lloyd’s phát huy ảnh hưởng của mình bằng cách đồng bảo hiểm và sau 1864 đã

nghiễm nhiên trở thành thị trường tái bảo hiểm quan trọng nhất thế giới. Trong thời
gian này các hình thức tái bảo hiểm khác cũng đã xuất hiện, ví dụ như tái bảo hiểm
cháy … Lúc đầu nghiệp vụ tái bảo hiểm được các công ty bảo hiểm tiến hành, điều đó
có ý nghĩa là họ vừa tiến hành bảo hiểm gốc vừa đồng thời tiến hành cả tái bảo hiểm.
Hình thức tái bảo hiểm duy nhất được sử dụng đó là hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa
chọn cho từng rủi ro riêng lẻ.
2.2. Giai đoạn từ giữa thế kỷ thứ 19 đến giữa thế kỷ 20:
Giữa thế kỷ thứ 19 nền kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa đã có những bước
tiến nhảy vọt do áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất. Quan hệ thương mại giữa các nước được mở rộng và phát triển mạnh. Do đó
hình thức hợp đồng tái bảo hiểm trao đổi qua lại giữa các nhà bảo hiểm như trên không
còn đáp ứng được nhu cầu. Điều kiện này dẫn đến sự tất yếu khách quan cho việc
thành lập các công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp. Năm 1846 tại Kohn (Đức) công ty
tái bảo hiểm chuyên nghiệp đầu tiên đã ra đời lấy tên là công ty Tái bảo hiểm Kohn.
Tiếp theo đó là một số công ty tái bảo hiểm có tên tuổi trên thị trường thế giới hiện nay
cũng đã được thành lập như công ty tái bảo hiểm Thụy Sĩ (Swiss Re) năm 1863, công
ty tái bảo hiểm London (London Guarantee Reinsurance co.Ltd) năm 1869, công ty tái
bảo hiểm Munich năm 1880.
Việc thành lập các công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp là một sự kiện có tính chất
quan trọng trong việc phát triển của ngành bảo hiểm. Qua đó các công ty bảo hiểm gốc
đã có sẵn trong tay nguồn đảm bảo đắc lực cho hoạt động kinh doanh của họ và nhờ đó
các công ty bảo hiểm gốc không còn phải e ngại hoặc lo sợ khi phải cung cấp thông tin
và số liệu cho việc chào các hợp đồng tái bảo hiểm. Từ đó khả năng cạnh tranh của các
công ty bảo hiểm gốc được tăng lên. Như vậy sự chuyên môn hóa dịch vụ tái bảo hiểm
đã có thể đáp ứng được những yêu cầu của công ty bảo hiểm gốc một cách thỏa đáng.
Khả năng phục vụ của các công ty tái bảo hiểm cũng được cải tiến thêm bằng việc mở
rộng tái bảo hiểm ra các loại hình bảo hiểm khác và lan rộng ra các thị trường bảo
5
hiểm nước ngoài thúc đẩy ngành bảo hiểm ngày càng phát triển. Trong thời kỳ này kỹ
thuật của tái bảo hiểm cũng được cải tiến. Nhiều hình thức và phương pháp tái bảo

hiểm đã được xây dựng.
Trong giai đoạn này, hai cuộc chiến tranh thế giới cùng với các cuộc khủng
hoảng kinh tế và lạm phát tiền tệ đã làm tổn hại lớn đến sự phát triển của ngành bảo
hiểm nói chung và ngành tái bảo hiểm nói riêng. Bị tổn hại nhiều nhất phải kể đến các
công ty tái bảo hiểm Đức. Trong hai cuộc chiến tranh thế giới này, các giới tư bản độc
quyền đã lấy vốn và quỹ tiền tệ bảo hiểm (trong đó có dự trữ phí của bảo hiểm nhân
thọ) của các công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm để chi phí cho chiến tranh. Trong khi đó
các công ty tái bảo hiểm của những nước không bị chiến tranh đe dọa đã vươn lên,
nắm lấy thị trường tái bảo hiểm quốc tế, ví dụ như công ty tái bảo hiểm Thụy Sĩ đã
phát triển lên thành một công ty tái bảo hiểm đồ sộ. Ngoài ra, trong thời gian này có
rất nhiều công ty tái bảo hiểm đã ra đời nhất là ở Mỹ, Thụy Sĩ.
2.3. Giai đoạn sau chiến tranh thế giới lần thứ hai:
Thế chiến II đã kết thúc năm 1945 với sự thắng lợi của Hồng quân Liên Xô và
phe đồng minh đánh bại chủ nghĩa phát xít đến tận gốc rễ. Nó đã mở ra một giai đoạn
mới của lịch sử loài người cũng như nền kinh tế và ngành bảo hiểm. Hệ thống
XHCN ra đời, phong trào giải phóng dân tộc của nhiều nước thuộc địa đã giành được
thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế mới, cuộc cạnh
tranh gay gắt giữa các nước đầu sỏ ngày càng gay gắt, tất cả các sự kiện trên đều ảnh
hưởng đến sự phát triển của tái bảo hiểm. Giai đoạn này được đặc trưng qua các biến
động lớn sau:
- Sự phục hồi nhanh chóng của các công ty tái bảo hiểm của CHLB Đức: Trong
chiến tranh thế giới lần thứ hai, các công ty tái bảo hiểm Đức đã bị cắt đứt quan hệ với
quốc tế và năm 1947 lại bị cấm không cho hoạt động ở nước ngoài. Nhưng ngay sau
khi lệnh cấm này được bãi bỏ năm 1950 thì các công ty tái bảo hiểm ở CHLB Đức đã
nhanh chóng khôi phục lại địa vị truyền thống của mình và thiết lập các quan hệ quốc
tế rộng rãi. Nhiều công ty tái bảo hiểm mới được thành lập. Hoạt động bảo hiểm và tái
bảo hiểm được phát triển với tốc độ nhanh. Đến những năm 70 tổng doanh thu phí của
thị trường CHLB Đức đã chiếm vị trí thứ ba trên thế giới, sau Nhật và Mỹ.
- Sự thành lập các công ty bảo hiểm nhà nước ở các nước XHCN : sự kiện này
ảnh hưởng lớn đến chiều hướng phát triển của tái bảo hiểm quốc tế. Các nước XHCN

đã tiến hành biện pháp độc quyền về tái bảo hiểm và hạn chế quan hệ với thị trường tái
bảo hiểm tư bản chủ nghĩa. Đồng thời ở các nước XHCN không tiến hành tái bảo hiểm
cho các loại hình bảo hiểm đối nội.
- Trong những nước chậm phát triển hoặc mới giành được độc lập những tổ chức
độc quyền tái bảo hiểm, cục bộ hay toàn phần đã được thành lập nhằm bảo vệ lợi ích
riêng của họ (Achentina, Braxin, Chile, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập). Sự kiện này có tác dộng
làm thu hẹp khả năng hoạt động của các công ty tái bảo hiểm quốc tế ở những nước đó.
- Nhiều công ty tái bảo hiểm mới được thành lập và càng ngày có nhiều công ty
6
bảo hiểm tiến hành đồng thời dịch vụ tái bảo hiểm. Do đó cuộc cạnh tranh giữa họ
ngày càng gay gắt và dưới nhiều hình thức khác nhau.
- Trong thời gian này, hình thức tái bảo hiểm không theo tỷ lệ là hình thức tối ưu
nhất đáp ứng được nhu cầu đảm bảo của các công ty bảo hiểm gốc và ngày càng được
phổ biến rộng rãi. Điều này làm cho các nhà tái bảo hiểm, có khó khăn hơn trong việc
tính phí phù hợp với phần rủi ro mà họ phải gánh chịu. Thêm vào đó là khả năng xảy
ra tổn thất ngày càng tăng. Vì vậy, đặc điểm của giai đoạn này là chiều hướng ngày
càng giảm của kết quả kinh doanh nghiệp vụ tái bảo hiểm thuần túy, nhưng đồng thời
chiều hướng ngày càng tăng của kết quả kinh doanh đầu tư quỹ tiền tệ bảo hiểm thông
qua lãi suất cao.
3. Mối quan hệ trong tái bảo hiểm:
Sơ đồ tái bảo hiểm:
Đối tượng bảo hiểm: rủi ro

Người được bảo hiểm: người tham gia bảo hiểm

Người nhượng TBH Nhà bảo hiểm HĐ bảo hiểm gốc

Người nhận TBH Nhà bảo hiểm HĐ TBH lần 1

Người nhận TBH Nhà bảo hiểm HĐ TBH lần 2

4. Cơ sở pháp lý:
Trong tái bảo hiểm, người được bảo hiểm chỉ cần biết nhà bảo hiểm gốc
ban đầu và là người duy nhất chịu trách nhiệm đảm bảo cho rủi ro của mình chứ
không cần biết đến người nhận tái bảo hiểm.
Nếu có rủi ro, thiệt hại xảy ra cho đối tượng được bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm
gốc chịu trách nhiệm bồi thường đầy đủ cho người được bảo hiểm theo đúng hợp đồng
bảo hiểm gốc. Sau đó, tổ chức bảo hiểm gốc sẽ được tổ chức nhận tái bảo hiểm bồi
thường lại theo hợp đồng tái bảo hiểm. Trường hợp công ty bảo hiểm gốc bị phá sản,
người được bảo hiểm không có quyền khiếu nại tổ chức nhận tái bảo hiểm.
5. Sự cần thiết của tái bảo hiểm:
Có thể thấy sự cần thiết của tái bảo hiểm qua các lí do sau:
7
- Phân tán rủi ro: Chia nhỏ rủi ro mà doanh nghiệp bảo hiểm đã chấp nhận cho 1
hoặc nhiều doanh nghiệp khác.
- An toàn: một trong những lí để mua bảo hiểm là người được bảo hiểm muốn
giảm bớt âu lo về sự không chắc chắn của tổn thất. Mua bảo hiểm tạo ra yếu tố an tâm.
Và chính tổ chức bảo hiểm cũng muốn tìm kiếm sự an toàn, an tâm và đạt được những
điều này bằng việc tái bảo hiểm.
- Góp phần ổn định tỷ lệ bối thường: tổ chức bảo hiểm gốc có thể tránh sự biến
động trong các khoản chi bổi thường trong một năm và qua nhiều năm bằng việc tái
bảo hiểm.
- Tăng cường khả năng nhận bảo hiểm: tổ chức bảo hiểm có thể có giới hạn về tài
chính đối với mức độ rủi ro mà họ có thể chấp nhận. Vì vậy dịch vụ có thể bị từ chối
hay chỉ được chấp nhận một phần. Bằng cách tái bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm gốc có
khả năng tăng năng lực của họ để chấp nhận dịch vụ, khuếch đại dung lượng bảo hiểm
của doanh nghiệp bảo hiểm, giúp doanh nghiệp bảo hiểm tiếp cận được với các hợp
đồng bảo hiểm với quy mô lớn hơn.
- Lợi ích vĩ mô trên thị trường bảo hiểm: một lợi ích cuối cùng là chi phí rủi ro
được dàn trải trong toàn thị trường bảo hiểm. Bằng việc tái bảo hiểm cho các tổ chức
này và một số tổ chức khác, rủi ro không chỉ tác động vào một nền kinh tế mà rủi ro

của một quốc gia được san sẻ trên toàn thế giới.
- Có những loại đối tượng bảo hiểm có giá trị bảo hiểm lớn.
- Có những loại rủi ro có tính chất đặc biệt nguy hiểm.
- Khả năng tài chính.
- Lý do chủ quan.
6.Tác dụng của tái bảo hiểm:
- Tăng khả năng nhận bảo hiểm
- Ổn định tình hình kinh doanh, khả năng tài chính của tổ chức bảo hiểm.
- Sửa chữa được tính không đồng đều, sự chênh lệch của cộng đồng các rủi ro
được bảo hiểm, sự chênh lệch giữa các rủi ro và khả năng tài chính khó khăn của tổ
chức bảo hiểm.
- Tăng thu cho tổ chức bảo hiểm.
- Giúp cho những công ty bảo hiểm nhỏ mới ra đời được ổn định và phát triển.
7. Ưu nhược điểm của tái bảo hiểm:
- Ưu điểm: Tạo tâm lý an toàn cho các công ty bảo hiểm, cân bằng các dịch vụ
bảo hiểm, bảo vệ các dịch vụ đó khỏi ảnh hưởng của các sự cố lớn có tính thảm họa,
đảm bảo tài chính cho các công ty bảo hiểm.
- Nhược điểm: Ở mặt khác, tái bảo hiểm có liên quan tới việc chuyển nhượng một
8
phần, thậm chí là phần lớn chi phí bảo hiểm cho công ty tái bảo hiểm. Do đó, tái bảo
hiểm có thể làm tăng hoặc giảm một cách đáng kể các chỉ tiêu tài chính của công ty
bảo hiểm.
8. Phân loại:
Căn cứ vào tính chất các loại tái bảo hiểm, toàn bộ các hợp đồng tái bảo hiểm
được phân làm ba loại:
- Tái bảo hiểm tạm thời hay nhiệm ý: là loại hợp đồng dùng để giải quyết việc
phân tán rủi ro một cách tạm thời và cũng là một loại hợp đồng tái bảo hiểm ra đời đầu
tiên trong lịch sử tái bảo hiểm.
- Tái bảo hiểm cố định hay bắt buộc: theo sự phát triển của hoạt động kinh doanh
bảo hiểm, phương pháp tái bảo hiểm cho toàn bộ tổng lượng rủi ro được bắt đầu được

áp dụng rộng rãi. Đó là hình thức tái bảo hiểm bắt buộc (hay còn gọi là tái bảo hiểm cố
định). Trên thực tế chỉ khi nào trách nhiệm vượt ra ngoài hợp đồng tái bảo hiểm cố
định, người ta mới thu xếp hợp đồng tái bảo hiểm tạm thời. Tính chất của hợp đồng tái
bảo hiểm cố định không cho phép tổ chức nhượng tái bảo hiểm và tổ chức nhận tái bảo
hiểm lựa chọn rủi ro.
- Tái bảo hiểm mở sẵn hay dự ước: đây là loại tái bảo hiểm kết hợp giữa tái bảo
hiểm tạm thời và tái bảo hiểm cố định
II. Phân tích nhận định “Tái bảo hiểm là bảo hiểm lại cho bảo hiểm”
Trước hết xét đến mối quan hệ trong tái bảo hiểm, mối quan hệ giữa công ty bảo
hiểm gốc_Công ty bảo hiểm ban đầu_ và người được bảo hiểm được thể hiện qua hợp
đồng bảo hiểm gốc. Mối quan hệ giữa công ty bảo hiểm gốc và công ty tái bảo hiểm_
Công ty bảo hiểm cho công ty bảo hiểm gốc_được thể hiện trong hợp đồng tái bảo
hiểm, theo đó hợp đồng tái bảo hiểm lần hai có thể được thiết lập nếu người nhận tái
bảo hiểm tiếp tục nhượng tái bảo hiểm. Và không có mối quan hệ bắc cầu nào giữa các
chủ thể tham gia trong mỗi hợp đồng, khách hàng của công ty gốc không cần biết đến
sự có mặt của công ty tái bảo hiểm, họ hoàn toàn không liên quan đến nhau.
Nhưng tái bảo hiểm được hình thành trên cơ sở bảo hiểm gốc nên nó luôn gắn
liền với nghiệp vụ bảo hiểm gốc. Thêm vào đó, dù là bảo hiểm hay tái bảo hiểm thì
chúng đều bảo hiểm chung cho cùng một rủi ro của cùng một đối tượng bảo hiểm, vấn
đề là sau khi bảo hiểm cho một rủi ro hoặc nhiều rủi ro, mà tổn thất của nó khi xảy ra
vượt ngoài khả năng tài chính của mình, cũng giống như các đối tượng được bảo hiểm
khác, các tổ chức bảo hiểm này phải tìm cách hoán chuyển rủi ro của mình và giảm
thiểu rủi ro bằng cách đi mua một bảo hiểm tại một tổ chức khác có quy mô lớn hơn,
đủ sức để san sẻ những tổn thất có thể xảy ra đối với những rủi ro mà mình đang bảo
hiểm vì vậy mà người ta thường nói "tái bảo hiểm chính là bảo hiểm cho các nhà bảo
hiểm" bởi những tổn thất mà các công ty bảo hiểm phải gánh chịu đã được dàn trải ra.
Điều này càng làm cho chúng ta thấy rõ nhận định “tái bảo hiểm là bảo hiểm lại cho
bảo hiểm” thể hiện ở chỗ tái bảo hiểm bảo hiểm lại cho cùng một rủi ro của cùng một
9
đối tượng bảo hiểm đã được bảo hiểm trước đó và tái bảo hiểm chỉ tồn tại khi bảo

hiểm gốc vẫn tồn tại.
Nếu xét ở gốc độ cơ sở pháp lý của tái bảo hiểm thì trong tái bảo hiểm, người
được bảo hiểm chỉ cần biết nhà bảo hiểm gốc ban đầu và là người duy nhất chịu trách
nhiệm đảm bảo cho rủi ro của mình chứ không cần biết đến người nhận tái bảo hiểm.
Nếu có rủi ro, thiệt hại xảy ra cho đối tượng được bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm gốc chịu
trách nhiệm bồi thường đầy đủ cho người được bảo hiểm theo đúng hợp đồng bảo
hiểm gốc. Sau đó, tổ chức bảo hiểm gốc sẽ được tổ chức nhận tái bảo hiểm bồi thường
lại theo hợp đồng tái bảo hiểm. Trường hợp công ty bảo hiểm gốc bị phá sản, người
được bảo hiểm không có quyền khiếu nại tổ chức nhận tái bảo hiểm. Từ đó ta có thể
thấy sự tách biệt trong trách nhiệm bồi thường của các nhà bảo hiểm, trách nhiệm bồi
thường của tổ chức bảo hiểm gốc dựa vào thực tế thiệt hại và hợp đồng bảo hiểm gốc,
trong khi các tổ chức nhận tái bảo hiểm sẽ bồi thường lại cho công ty bảo hiểm gốc
dựa trên thiệt hại và hợp đồng tái bảo hiểm nhưng có một điểm chung giữa trách
nhiệm bồi thường của các nhà bảo hiểm là cùng căn cứ vào thiệt hại thực tế của cùng
một đối tượng bảo hiểm, vấn đề là tổ chức nhận tái bảo hiểm sẽ phải bồi thường lại
cho tổ chức bảo hiểm gốc theo hợp đồng tái bảo hiểm. Điều này càng chứng minh rõ
hơn nữa nhận định “tái bảo hiểm là bảo hiểm lại cho bảo hiểm”.
Cũng như nguyên tắc của bảo hiểm ở trên là “sự đóng góp của số đông vào sự bất
hạnh của số ít”. Một công ty tái bảo hiểm cũng sẽ có nhiều hợp đồng nhận bảo hiểm
cho công ty bảo hiểm với những rủi ro xác định. Và tất nhiên không phải trường hợp
tái bảo hiểm nào cũng xảy ra tổn thất, vì vậy một công ty tái bảo hiểm cũng lại lấy
khoản tiền từ quỹ bảo hiểm của mình – được đóng góp từ phí tái bảo hiểm cho các
công ty bảo hiểm khác - để bù đắp cho thiệt hại mà một tổn thất xảy ra. Một ví dụ đơn
cử cho trường hợp này là Tổng công ty Cổ phần Tái bảo hiểm Việt Nam (VINARE)
trong năm 2009 đã tiến hành thu xếp các hợp đồng tái bảo hiểm cho Công ty Cổ phần
bảo hiểm Bảo Tín như sau:
+ Tái bảo hiểm bắt buộc nghiệp vụ hàng hải cho Tổng Công ty Cổ phần Tái bảo
hiểm Quốc gia Việt Nam (Vinare) với tỷ lệ là: 20%. Phần còn lại sẽ được tái theo các
hợp đồng tái bảo hiểm cố định cho Vinare với mức giới hạn trách nhiệm của hợp đồng
lên đến 6.000.000 USD (tương đương 106.800.000.000 VND)

+Tái bảo hiểm hợp đồng cố định nghiệp vụ tài sản, cháy và các rủi ro đặc biệt với
mức giới hạn trách nhiệm của hợp đồng là 14.000.000 USD (tương đương
249.000.000.000 VND)
+Tái bảo hiểm hợp đồng cố định nghiệp vụ kỹ thuật, xây dựng lắp đặt với mức
giới hạn trách nhiệm của hợp đồng là 15.000.000 USD (tương đương 267.000.000.000
VND)
+Và thực hiện thu xếp các dịch vụ tái bảo hiểm tạm thời với các nhà tái trong
nước và hàng đầu thế giới.
Để nhìn rõ hơn nữa về nhận định trên, ta có thể xét đến sự giống nhau về vai trò
10
của bảo hiểm và tái bảo hiểm đối với xã hội.
Cũng giống như bảo hiểm, vai trò của tái bảo hiểm đối với xã hội cũng rất lớn.
Nếu bảo hiểm làm giảm bớt sự lo âu cho các doanh nghiệp, cá nhân thì tái bảo hiểm
tạo cho các công ty bảo hiểm một sự an toàn, giảm bớt sự lo âu về những tổn thất mà
mình phải gánh chịu. Nếu bảo hiểm giúp các doanh nghiệp nhanh chóng quay lại quá
trình tái sản xuất, thì tái bảo hiểm giúp các công ty bảo hiểm có khả năng nhận nhiều
hợp đồng bảo hiểm hơn. Khi chưa có tái bảo hiểm, do năng lực tài chính có hạn, cho
một số rủi ro xảy ra tổn thất lớn, một công ty bảo hiểm chỉ có thể nhận bảo hiểm một
phần hoặc từ chối bảo hiểm; nhưng khi có tái bảo hiểm của một công ty bảo hiểm lớn
hơn, công ty này (công ty bảo hiểm gốc) có thể chấp nhận bảo hiểm cho những rủi ro
đó. Tuy nhiên, việc này có thể dẫn đến việc các công ty bảo hiểm bảo hiểm một cách
bất chấp rủi ro. Họ sẳn sàng đưa ra mức phí bảo hiểm thấp hơn cả mức phí của công ty
tái bảo hiểm. Tình trạng này dẫn đến nguy cơ nếu có sự cố xãy ra dẫn đến tổn thất cho
các doanh nghiệp được bảo hiểm và công ty bảo hiểm gốc bắt buộc phải bồi thường thì
công ty tái bảo hiểm sẽ từ chối thanh toán cho công ty bảo hiểm gốc vì hợp đồng bảo
hiểm giữa công ty bảo hiểm gốc và khách hàng không đúng tiêu chuẩn, điều này làm
cho cả công ty bảo hiểm gốc và doanh nghiệp được bảo hiểm đều đứng trước nguy cơ
phá sản rất cao.
Một ví dụ điển hình đó là bảo hiểm các công trình xây dựng và việc lắp đặt trang
thiết bị. Thị trường này mang lại lợi nhuận rất lớn cho các công ty bảo hiểm nhưng

cũng đang tiềm ẩn những rủi ro lớn do tình trạng nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đang
cạnh tranh bằng cách giảm phí, có thể dẫn đến việc các hãng tái bảo hiểm từ chối chi
trả nếu xảy ra sự cố. Theo quy định, để thực hiện một hợp đồng dịch vụ bảo hiểm xây
dựng cho các công trình có vốn đầu tư trên 50 triệu USD, các doanh nghiệp bảo hiểm
trong nước (nhà bảo hiểm gốc) buộc phải thu xếp việc tái bảo hiểm với các doanh
nghiệp tái bảo hiểm nước ngoài có mức độ tín nhiệm nhất định nhằm đảm bảo an toàn
tài chính cho dự án. Hiện đã có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm trong nước đã chào phí
thấp hơn cả mức phí của công ty tái bảo hiểm nhằm mục đích giành được nhiều hợp
đồng và tăng doanh thu. Tuy nhiên nếu xảy ra rủi ro, các công ty bảo hiểm gốc có thể
phá sản vì hầu hết các công ty bảo hiểm tham gia thị trường bảo hiểm này đều có vốn
điều lệ không quá 300 tỷ đồng, trong khi đó phần lớn các hợp động bảo hiểm trong
lĩnh vực xây dựng đều có giá trị trên 1000 tỷ đồng.
Thực tế có ý kiến cho rằng, qua nghiệp vụ tái bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm chỉ
chuyển cho tổ chức tái bảo hiểm một phần rủi ro mà anh ta đã chấp nhận đảm bảo chứ
không phải là toàn bộ rủi ro, vậy thì nhận định “tái bảo hiểm là bảo hiểm lại cho bảo
hiểm” còn đúng hay không?
Như đã nói ở trên, hợp đồng bảo hiểm gốc và hợp đồng tái bảo hiểm là hai hợp
đồng hoàn toàn tách biệt với nhau. Một hợp đồng bảo hiểm gốc có thể được tái bảo
hiểm bởi nhiều hợp đồng của nhiều công ty tái bảo hiểm khác nhau, và mỗi hợp đồng
này bảo hiểm cho những rủi ro khác nhau. Ở đây ta có thể xem tái bảo hiểm như là bảo
hiểm. Nếu đối tượng của bảo hiểm là tài sản, nhân mạng…, thì đối tượng của tái bảo
11
hiểm đặc biệt hơn – đó chính là bảo hiểm. Chính yếu tố này là yếu tố cho thấy rõ nhất
sự tách biệt giữa tái bảo hiểm và bảo hiểm và càng làm cho chúng ta thấy rõ hơn nhận
định trên nếu tách nó thành hai vế “tái bảo hiểm chính là bảo hiểm” và “đối tượng
được tái bảo hiểm bảo hiểm là bảo hiểm”.
III. Vài nét về thực trạng tái bảo hiểm
Hoạt động tái bảo hiểm có ý nghĩa hết sức quan trọng khi nó có thể giúp doanh
nghiệp (DN) gia tăng lợi ích, nhưng cũng có thể khiến DN bảo hiểm phá sản nếu đánh
giá không đúng mức rủi ro. Vậy nhưng, hiện nhiều DN vẫn yếu trong nghiệp vụ tái cả

về ngoại ngữ và chuyên môn
Kể từ khi quy định các DN buộc phải tái ít nhất 20% qua Tổng CTCP Tái bảo
hiểm Việt Nam (Vinare) bị bãi bỏ đã khiến cho lĩnh vực này trở nên cạnh tranh hơn.
Không chỉ nhận/nhượng tái trong nước, một số DN bảo hiểm đã mạnh dạn
nhận/nhượng tái từ thị trường bảo hiểm nước ngoài. Nhiều DN bảo hiểm phi nhân thọ
đang tích cực tăng vốn với mục tiêu nâng tỷ lệ giữ lại và mở rộng họat động kinh
doanh tái bảo hiểm. Tuy nhiên, hoạt động này cũng đặt ra không ít vấn đề cần chấn
chỉnh kịp thời.
Hoạt động tái bảo hiểm hiện chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân
thọ, khu vực có nhiều DN trong nước tham gia. Theo số liệu từ Bộ Tài chính, năm
2009, phí bảo hiểm giữ lại của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là 9.366 tỷ đồng,
chiếm 68,5% phí bảo hiểm gốc, tăng 1,5% so với tỷ lệ phí bảo hiểm giữ lại năm 2008.
Phí nhượng tái toàn thị trường năm 2009 đạt 4.302 tỷ đồng, trong đó phí tái trong nước
khoảng 1.937 tỷ đồng và phần lớn được tái qua Vinare.
Năm 2009, doanh thu phí nhận tái của Vinare đạt trên 1.100 tỷ đồng, tăng 2,41%
so với 2008. Phí nhượng tái là 776,3 tỷ đồng, tăng 0,19% so với năm 2008; trong đó
nhượng cho các DN trong nước 362,1 tỷ đồng, tăng 29,18% so với năm 2008, nhượng
cho các DN nước ngoài 414 tỷ đồng. Doanh thu phí giữ lại đạt 338 tỷ đồng, tăng
7,89% so với năm 2008, đạt tỷ lệ phí giữ lại 30,3%.
Theo đánh giá của Vinare, sở dĩ hoạt động tái bảo hiểm năm 2009 sôi động là do
kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng khá tốt (5,32%), cho dù khủng hoảng kinh tế thế
giới chưa chấm dứt. Đây là cơ sở để thị trường bảo hiểm tiếp tục phát triển mạnh mẽ
(phi nhân thọ tăng 21%). Bên cạnh đó, các DN bảo hiểm đã linh hoạt hơn trong việc
tái bảo hiểm trên cơ sở phân tích đánh giá rủi ro các mảng nghiệp vụ.
Vẫn theo đánh giá của Vinare, tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2010 dự kiến
khoảng 6,5%, trong đó các ngành công nghiệp và xây dựng tăng 7%, dịch vụ 7,5%,
tổng kim ngạch xuất khẩu dự kiến tăng 6%, thu hút vốn FDI dự kiến đạt khoảng 22 -
25 tỷ USD. Tăng trưởng kinh tế sẽ giúp bảo hiểm phi nhân thọ tăng trưởng ở mức cao
20% (dịch vụ có tái bảo hiểm tăng 12 - 15%). Tuy nhiên, hiện có không ít thách thức
có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của nghiệp vụ tái bảo hiểm. Do ảnh hưởng của khủng

hoảng toàn cầu, nhà nhận tái bảo hiểm sẽ thận trọng, thắt chặt điều kiện và thu phí cao
hơn. Khó khăn trong việc thu xếp tái bảo hiểm do cạnh tranh về phí, điều kiện bảo
12
hiểm trong nước, về dịch vụ với nhà tái bảo hiểm và môi giới nước ngoài. Trong khi
đó, xu hướng tổn thất tiếp tục gia tăng làm giảm lợi tức nghiệp vụ, môi trường đầu tư
tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Ngoài các nguyên nhân khách quan còn có nguyên nhân từ chính các DN bảo
hiểm làm ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của hoạt động tái bảo hiểm. Năm
2010 được xác định là năm cạnh tranh quyết liệt ở tất cả các dịch vụ bảo hiểm, trong
đó có tái bảo hiểm. Hiệu quả kinh doanh bảo hiểm là vấn đề đáng lo ngại (chi phí, tỷ lệ
bồi thường tăng, phí bảo hiểm giảm và điều kiện bảo hiểm mở rộng) khi các DN đẩy
mạnh doanh thu phí, mở rộng điều kiện bảo hiểm.
Bên cạnh đó việc giảm phí dẫn đến tình trạng các DN bảo hiểm khó chuyển tái
bảo hiểm ra nước ngoài, các DN trong nước chia sẻ dịch vụ với điều kiện và phí bảo
hiểm không thuận lợi hơn so với chuyển tái bảo hiểm ra nước ngoài.
Ngày nay có rất nhiều tổ chức tái bảo hiểm trên toàn thế giới, họ chấp nhận tái
bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm trên toàn cầu. Điều này dẫn đến một lợi ích cực kỳ
lớn, đó là chi phí rủi ro được dàn trải trên thị trường toàn cầu.
Bảo hiểm cho Vinasat:
20/12/2007 tại Hà Nội, hợp đồng bảo hiểm cho Dự án phóng vệ tinh viễn thông
Việt Nam (VINASAT) đã chính thức được ký kết giữa Tập đoàn Bưu chính - Viễn
thông (VNPT), Bảo Việt Việt Nam và Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI).
Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam chịu 65% trách nhiệm trong liên danh đồng bảo
hiểm cho dự án Vinasat. Vệ tinh Vinasat có giá trị bảo hiểm là 177 triệu USD được
bảo hiểm từ khi bắt đầu phóng lên quỹ đạo, khai thác vận hành có hiệu quả trong vòng
12 tháng đầu tiên, nếu vệ tinh có tổn thất, hư hỏng một phần, hay toàn bộ, hoặc do trục
trặc của vệ tinh trên quỹ đạo, hoặc bị giảm sút thời gian sống, giảm năng lực cung cấp
dịch vụ thì đều được bồi thường. Phí bảo hiểm dự án này mà VNPT phải trả khoảng 21
triệu USD. Với giá trị hợp đồng quá cao như vậy sẽ khẳng định được uy tín và năng
lực của công ty nhưng bên cạnh đó nó còn gặp phải những rủi ro phải đền bù số tiền

quá lớn . Chính vì vậy , để giảm bớt những rủi ro ,công ty Bảo Việt đã chọn các nhà tái
bảo hiểm thông qua nhà môi giới bảo hiểm Marsh đóng vai trò tiếp nhận thông tin từ
các nhà bảo hiểm ,thông tin kỹ thuật từ các nhà sản xuất để thông báo cho các nhà tái
bảo hiểm có kinh nghiệm trên thế giới. Marsh là tập đoàn môi giới hàng đầu có kinh
nghiệm, để tiếp cận những nhà tái bảo hiểm vệ tinh lớn trên thế giới, đảm bảo năng lực
của họ, để khi không may xảy ra tổn thất, họ sẽ bồi thường được ngay. Về trách nhiệm
của tập đoàn Marsh, nếu khi xảy ra tổn thất, họ sẽ đứng ra cùng với Bảo Việt để thu
hồi, tái sản xuất. Từ hàng chục công ty tái bảo hiểm quốc tế, đã chọn 15 công ty quốc
tế lớn trên thế giới, và 7 công ty trong nước nhận tái bảo hiểm dự án này. Đây là
những công ty có năng lực tài chính và kinh nghiệm , để khi có rủi ro xảy ra thì có khả
năng thanh toán cho liên danh . Nếu có rủi ro xảy ra thì nhà bảo hiểm cũng đủ năng
lực để phóng lại vệ tinh khác cho VNPT.
Đối tượng bảo hiểm : tổn thất, hư hỏng một phần, hay toàn bộ, hoặc do trục trặc
13
của vệ tinh trên quỹ đạo, hoặc bị giảm sút thời gian sống, giảm năng lực cung cấp dịch
vụ của Vinasat
Người được bảo hiểm : VNPT
Nhà bảo hiểm : Bảo Việt và PTI và hợp đồng bảo hiểm gốc được kí giữa VNPT,
Bảo Việt và PTI.
Người nhận tái bảo hiểm : bảo hiểm cho hợp đồng bảo hiểm gốc là 15 công ty
quốc tế và 7 công ty trong nước.Trong đó các công ty trong nước nhận tái khoảng
10%.
Bảo hiểm cho nhà máy lọc dầu Dung Quất :
Theo hợp đồng bảo hiểm PVI sẽ cung ứng một chương trình bảo hiểm tổng thể
cho Cty TNHHMTV LHD Bình Sơn (BRS) bao gồm bảo hiểm mọi rủi ro tài sản và
bảo hiểm trách nhiệm kết hợp với tổng giá trị lên tới 3 tỷ USD. Với năng lực cùng
kinh nghiệm lâu năm trong giao dịch với thị trường tái bảo hiểm quốc tế ,PVI đảm bảo
gói bảo hiểm cho giai đoạn vận hành của nhà máy có chi phí rất cạnh tranh với phạm
vi bảo hiểm rộng, đảm bảo an toàn tối đa cho hoạt động của nhà máy. Bên cạnh đó ,
PVI cũng mua hợp đồng bảo hiểm cho bảo hiểm gốc của mình với các công ty tái bảo

hiểm hàng đầu thề giới như Munich Re, Swiss Re, Lloyds Syndicate để khi có rủi ro
xảy ra thì đủ khả năng thanh toán.
Thông qua các dẫn chứng thực tế trên, chúng ta có thể nhận thấy, đối tượng tham
gia bảo hiểm không chỉ đơn thuần là các tổ chức, cá nhân thông thường mà còn có cả
công ty bảo hiểm. Trong khi những chủ thể khác tham gia hoạt động bảo hiểm nhằm
bảo đảm cho tài sản, con người thì công ty bảo hiểm tham gia bảo hiểm_ dưới hình
thức tái bảo hiểm_ nhằm đảm bảo cho khả năng bồi thường khi tổn thất xảy ra, phòng
trách sự phá sản một khi giá trị bảo hiểm mà công ty tiếp nhận vượt quá khả năng tài
chính của mình, nhưng vẫn đảm bảo thu được lợi nhuận thông qua mức giữ lại. Và tái
bảo hiểm đơn thuần là hình thức bảo hiểm lại cho bảo hiểm mà trong đó hợp đồng bảo
hiểm gốc chính là đối tượng được bảo hiểm.
14

×